Chuyện hơi dài dòng, xin bạn kiên
nhẫn.
Chúng tôi gồm ba cặp vợ chồng, được
gia đình người bạn tiếp đón rất thân tình. Ông ta còn gọi các bạn khác ở gần
đó, kéo đến, nên buổi họp mặt thật đông vui.
Khi bữa cơm gia đình đã mãn, các
bà lo dọn dẹp chén bát để pha trà và các ông đang chuyện trò sôi nổi, thì ông bạn
chủ nhà đổi đề tài "Có một chuyện thực, xảy ra ở Việt Nam, khoảng năm
1982. Một chuyện kỳ lạ mà bà chị tôi vừa là người trong cuộc vừa là nhân chứng.
Lúc còn ở Việt Nam, chị tôi dấu kín vì sợ đến tai công an thì sẽ bị tra hỏi, có
thể bị tù cũng nên. Nay chị tôi đến xứ tự do, sẽ kể thoải mái. Trong câu chuyện,
có gì thắc mắc, xin cứ hỏi chị tôi"
Người chị của chủ nhà, đang ngồi
với các bà, được yêu cầu kể chuyện. Chị ta xin phép vài phút để lên lầu, lát
sau đi xuống, tay cầm một phong bì đặt trước mặt và bắt đầu kể. Mọi người yên lặng,
lắng nghe.
"Gia đình tôi, sau bảy lăm
(1975), chỉ còn đàn bà vì đàn ông đều vô tù cải tạo hết cả. Khoảng năm tám mươi
(1980), chúng tôi được móc nối để vượt biên nhưng vẫn phải chờ ít nhất một người
đàn ông đi tù cải tạo về mới quyết định được. Năm đó, cậu em tôi được thả về,
chúng tôi báo cho người tổ chức, họ bảo, có một chuyến, phải đi ngay. Từ Sài
Gòn chúng tôi đón xe về Cà Mau dự đám cưới. Đám cưới thật nhưng ăn cưới chỉ là
cái cớ. Dân địa phương thấy người lạ từ Sài Gòn về ăn cưới thì biết ngay, nhưng
rình bắt là công việc của công an. Thế nên, ai cũng chờ đợi màn thứ hai là
khuya nay, công an sẽ phục ở bãi đáp để tóm gọn quí vị quan khách nầy. Trò nầy
xảy ra thường xuyên, nhưng họ không biết rằng vụ vượt biên nầy lại do chính
công an địa phương đứng ra tổ chức, nên tối đó quí vị công an với các viên chức
xã ấp có nhiệm vụ phải nốc rượu cho thật say, để sáng ra, ai cũng không biết gì
cả!
Khuya đó, chúng tôi bị gọi dậy, cấp
tốc lên đường. Từ nhà ra biển chỉ vài cây số. Trời quá tối. Chúng tôi âm thầm
theo người trước mặt, đi vòng vèo trên các con đường đất. Trong bóng đêm tối
đen, thỉnh thoảng, bên đường lại có một toán chui ra nhập bọn, tôi đoán, cả
đoàn chúng tôi, ít ra cũng hơn trăm người. Mặc dù đã được dặn trước là khi xuống
thuyền phải tuyệt đối yên lặng và trật tự, không được chen lấn cãi cọ, nhưng
khi thấy mấy chiếc tắc xi (thuyền nhỏ đưa ra thuyền lớn), người ta ùa nhau lội
xuống nước, tranh nhau leo lên thuyền. Cậu em tôi đi trước, tay bồng hai đứa
con, vợ nó níu lưng đi sau, tôi níu áo cô ta để khỏi lạc nhau. Chỗ bãi đó toàn
sình, ngập đến đầu gối khiến ai nấy bì bọp mãi mà chưa đến thuyền. Cậu em tôi
phải kéo hai người đàn bà chúng tôi phía sau nên càng vướng víu, chậm chạp. Mọi
người như những bóng ma âm thầm, chen
nhau leo lên thuyền.
Khi cậu em tôi bỏ được hai đứa nhỏ
lên thuyền, đẩy được vợ nó lên, đến lượt tôi
thì bỗng có tiếng súng, tiếng la hét "Tất cả đứng yên! Đưa hai tay
lên. Ai bỏ chạy sẽ bị bắn bỏ". Tôi thấy ánh đèn pin loang loáng cách chỗ
chúng tôi vài trăm thước. Chủ thuyền vội đẩy thuyền ra. Cậu em tôi chỉ kịp níu
lấy be thuyền, người vẫn còn ở dưới nước. Tôi và khoảng vài chục người đành đứng
nhìn mấy chiếc thuyền lẫn vào bóng tối, mờ dần ngoài biển khơi. Lúc đó tiếng
súng và tiếng hô hoán "Đứng yên! Bỏ chạy bắn bỏ" càng như gần hơn khiến
mọi người vội chạy ngược về phía bờ. Như đã dặn trước "Khi bị bể, phải chạy
tránh xa ánh đèn của công an, trốn cho kỹ, chờ vài hôm, yên tĩnh mới tìm cách
ra lộ đón xe về" Vậy là mạnh ai nấy chạy. Tôi bương đại lên bờ, chạy ngược
hướng tiếng súng. Vừa chạy vừa run, miệng niệm "Nam Mô Đại Từ Đại Bi Cứu
Khổ Cứu Nạn Quảng Đại Linh Cảm Quan Thế Ân Bồ Tát". Cứ nhắm mắt, nhắm mũi
chạy đại, vấp mô đất hay gốc cây té xuống thì vùng dậy chạy tiếp. Lúc đầu hình
như có người cùng chạy với tôi, quay lại thì không thấy ai cả! Tôi chạy độ nửa
tiếng, thấy đã xa, vừa hoàn hồn thì hai chân rã rời, nhấc không lên. Tôi ngồi đại
xuống đất, thở dốc. Lúc đó khoảng một giờ sáng. Tôi nhìn quanh. Một bên là biển
đen sì, rì rào tiếng sóng, một bên là bờ rừng, với hàng cây là những khối đen,
cao hơn đầu người, trông như những con ác thú đang chờ mồi. Tôi đoán, có lẽ
công an rình bắt một vụ vượt biên khác, cách chúng tôi vài ba trăm mét, chủ
thuyền tưởng bị bể, nên bỏ chạy, vì thế mọi người mới chạy thoát.
Từ lúc lên xe ở Sài Gòn đến khi về
Cà Mau, tôi hoàn toàn không biết mình đang ở đâu? Bây giờ ngồi bơ vơ giữa đồng
không mông quạnh, chung quanh tối mù, tôi tự hỏi mình sẽ làm gì, hay phải ngồi
như thế nầy cho đến sáng? Lúc nãy, chạy, người toát mồ hôi, bây giờ, gió biển
thổi vào, tôi lạnh run cầm cập. Tôi thầm ước cho công an đến bắt mình, có người
cùng bị bắt với nhau cũng yên tâm, rồi sau đó muốn ra sao thì ra! Cái xách nhỏ
trên vai tôi vẫn còn. Tôi tìm chai nước lạnh, uống mấy ngụm. Trong xách chỉ có
vài chai nước lạnh, mấy viên thuốc say sóng, mấy hộp sữa đặc, cái khăn nhỏ, một
mớ đô la và vàng cùng quyển kinh Phật. Không hiểu sao, trong lúc hoảng loạn mà
tôi còn giữ được cái xách?
Đang ngồi rầu rĩ, bỗng nhiên, tôi
thấy từ xa, có ánh đèn thấp thoáng, có lẽ là đèn dầu hôi, loại thường thấy ở
thôn quê, cách tôi hơn một cây sốâ. Tôi mừng rỡ, quên cả mệt, đứng lên, nhắm
ánh đèn mà đi. Tôi đi như chạy, té lên, té xuống, mà không thấy đau, cứ nhắm
ánh đèn bương tới, vì sợ người ta tắt đèn thì không biết làm sao tìm đến. Độ nửa
giờ sau, tôi đến nơi. Đó là một nhà lá, cửa mở, một cây đèn bão, (loại đèn để
đi trong gió mà không sợ tắt) đặt trên một chiếc ghế nhỏ, để ngay trước cửa, nhờ
vậy mà từ hướng bên trái ngôi nhà, tôi vẫn thấy được.
Khi đến trước cửa, tôi kêu lên
"Có ai trong nhà không? Cho tôi vào với". Có tiếng đàn ông nói lớn
"Vào đi! Đừng sợ!" Khi bước vô cửa tôi mới nhận ra là có một người
đàn ông đang ngồi hút thuốc lào, cạnh một cái bàn để giữa nhà. Người đàn ông đứng
lên, ra đem cây đèn bão và chiếc ghế vào. Nghe giọng lơ lớ, với cách dùng chữ,
tôi đoán ông ta là người Bắc giả giọng Nam. Tôi bước vào nhà. Nhà không rộng lắm
nhưng đặt ba nơi ba chiếc giường rộng, có trải chiếu tươm tất. Ông ta chỉ chiếc
ghế "Ngồi đấy đi!" Tôi nói cám ơn, vì áo quần dính sình, không dám ngồi,
sợ dơ ghế. Ông ta bảo, giọng bình thản như việc nầy đã từng xảy ra nhiều lần
"Thế thì đi tắm đi! Tôi có sẵn áo quần của bà xã tôi, thay tạm. Áo quần bẩn
thì giặt đi, phơi ra ngoài gió, sáng mai khô ngay, thay trả lại cho tôi, rồi
tôi sẽ đưa ra bến xe, đón xe về Sài Gòn" Nghe nói sáng mai đón xe về Sài
Gòn, tôi mừng quính, không ngờ mình may mắn gặp được cứu tinh. Tôi thấy có cảm
tình với người đàn ông tử tế đó, định nói lời cám ơn, nhưng nhìn thấy hai con mắt
của ông ta, tôi rùng mình khiếp sợ. Ông ta khoảng năm mươi tuổi, dáng người tầm
thước, mặt sạm nắng, hai gò má cao, tóc ngắn, chân tay gân guốc...nghĩa là ông
ta đúng là một nông dân, chỉ đôi mắt là khủng khiếp. Tuy đèn dầu tù mù nhưng
đôi mắt vẫn ánh lên những tia sáng lạnh lẽo, vừa uy quyền, tàn nhẫn vừa như giễu
cợt. Tôi sợ quá, cảm tưởng như mình là con chuột đã bị con mèo chộp được trong
móng vuốt nhưng vẫn giữ đấy chờ con mồi chết khiếp mới từ từ thưởng thức. Thấy
tôi đứng bất động vì sợ, ông ta cười, giọng dịu dàng nhưng vẫn uy quyền, như ra
lệnh "Tôi không hại cô đâu. Cô đừng sợ. Tôi nghe tiếng súng nổ là biết
ngay vượt biên bị bể nên thắp đèn lên để ai chạy thoát thì đến đây tá túc, sáng
mai tôi lấy thuyền đưa ra bến xe về nhà. Tôi đã cứu hàng mấy trăm người rồi. Ai
cũng về nhà an toàn. Đừng sợ. Để tôi lấy áo quần cho cô thay tạm. Hôm nay vợ
tôi ra chợ thăm đứa con gái, sáng mai, tôi đưa đi, nhân tiện đón vợ tôi về. Đói
bụng thì có cơm nguội trong nồi với con cá khô trong bếp, lấy ra mà ăn"
Ông ta nói nhỏ nhẹ, từ tốn nhưng tôi vẫn sợ, răm rắp theo lệnh. Ông ta vào buồng
đem ra một bộ đồ đàn bà màu đen, trao cho tôi rồi thắp một cây đèn cầy, chỉ lối
đi ra sau chái nhà "Có cái phòng tắm sau kia. Sẵn nước với khăn lau. Tắm
xong, mặc tạm, còn bộ đồ bẩn thì giặt đi, phơi lên, sáng mai khô, mặc vào, trả
lại bộ đồ cho vợ tôi" Tôi riu ríu cầm áo quần và cây đèn cầy, ra nhà sau,
vào phòng tắm, đóng cửa lại, gắn cây đèn sáp lên bệ, xây lưng về phía đèn, cởi
đồ ra, dội nước. Tôi làm một cách vô thức, như bị thôi miên bởi cặp mắt của ông
ta, tôi đoán, đang nhìn tôi qua khe hở của vách phòng. Tôi tắm qua loa, mặc áo
quần vào. Còn nửa thùng nước, tôi đổ ra cái thau nhỏ sẵn đó, vò bộ đồ dính sình
rồi treo lên một sợi dây kẽm trong phòng tắm. Khi tôi lên nhà trên thì ông ta
chỉ cái giường, có giăng sẵn mùng "Cô ngủ trên giường nầy. Tôi ngủ trong
phòng. Ngủ đi cho khỏe, đừng sợ mà thao thức. Mai đi sớm" Tôi nói "Dạ.
Cám ơn!" rồi chui vô mùng. Ông ta tắt đèn, đi vào buồng.
Tôi nằm trên giường, mắt mở thao
láo, không dám ngủ. Có chiếc mền mỏng, tôi lấy quấn chặt quanh người rồi nằm lắng
nghe, không biết chuyện gì sẽ xảy ra? Tôi chỉ mong được ông ta tịch thu hết số
đô la và vàng tôi mang theo rồi tha cho tôi về nhà. Tôi cứ lẩm nhẩm niệm Quán
Thế Âm, cầu Phật Bà cứu khổ cứu nạn. Trong đêm tối, tất cả im lặng, chỉ có tiếng
sóng biển rì rầm nghe như tiếng xe chạy rất xa. Bấy giờ tôi mới thấy người rã rời,
vừa mỏi vừa đau ê ẩm khắp nơi, nhất là những chỗ bị mô đất hay gốc cây đập mạnh
vào khi tôi chạy bị ngã. Suy nghĩ miên man, tôi chìm vào giấc ngủ lúc nào không
hay.
Khi tôi tỉnh dậy thì trời đã
sáng. Vừa xếp mùng, mền xong thì ông ta từ trong buồng bước ra "Ngủ có được
không?" "Dạ. Đi mệt quá nên ngủ say một giấc đến sáng" Tôi nói
mà không dám nhìn ông ta, sợ thấy đôi mắt kinh khiếp đó "Cô thay đồ rồi
chúng ta đi ngay. Tôi chở cô ra bến xe ngoài chợ, họ sẽ đưa cô lên bến xe tỉnh,
đón xe về Sài Gòn. Cô viết vào miếng giấy trên bàn kia, tên họ địa chỉ của cô.
Tôi cần biết về cô để sau nầy dễ xác nhận" Tôi ra sau nhà, thay đồ, đem bộ
đồ của vợ ông ta để trên giường, đến chỗ cái bàn, viết tên họ, địa chỉ vào miếng
giấy. Ông ta chỉ cái xách nhỏ của tôi "Đừng quên cái xách tay" Tôi thấy
quyển kinh của tôi để ra ngoài nhưng không dám lấy bỏ vào xách, mà làm như
không thấy, chỉ vơ vội cái xách, cầm đi theo ông ta. Ra ngoài sân, tôi mới biết,
trước nhà là một con sông rất rộng, có lẽ là cửa sông, còn biển thì nằm bên
trái căn nhà, cách một cây số. Nhà ông ta nằm giữa một vùng hoàn toàn hoang vắng,
chung quanh là sình lầy với cây đước, vẹt, sú gì đó mọc mênh mông, chạy đến mút
mắt. Tôi không hiểu vì sao vợ chồng ông ta lại đem nhau ra ở chỗ nầy? Không ruộng
vườn, không thuyền bè đánh cá, không có người chung quanh, ngay đến con chim
cũng không thấy bay qua. Có chăng là mấy con cua còng gì đó nằm trên mặt sình
dương mắt nhìn tôi. Con đường từ nhà ra bến sông được đắp cao, có lẽ là lối duy
nhất đưa ông ta ra chiếc thuyền, đến với xã hội loài người.
Ông ta xuống thuyền, tôi bước
theo. Nhờ mấy miếng bê tông làm thành tam cấp nên tôi xuống thuyền không khó
khăn lắm. Chiếc thuyền nhỏ, dài khoảng sáu, bảy mét, rộng hơn hai mét, gắn máy
đuôi tôm. Ông ta tháo dây cột thuyền, giật máy, đưa thuyền ra giữa giòng sông.
Chiếc thuyền chạy giữa hai bờ rừng
vắng vẻ, hoang vu. Một lúc thật lâu thì xa xa thấp thoáng mấy mái nhà sau hàng
dừa nước, rồi vài chiếc thuyền xuất hiện, chạy ngược chiều. Thuyền ghé vào một
bến đò, có nhà cửa, quán ăn, một chợ thôn quê nhỏ và một bến xe lam (xe
Lambretta, ba bánh dùng chở khách). Ông ta cột chuyền, ra dấu cho tôi cùng lên
bờ. Mọi người thấy ông ta thì cúi đầu chào vẻ kính cẩn và sợ hãi. Ông ta không
thèm nhìn ai, đi thẳng đến chiếc xe lam, nói gì đấy với người chủ xe. Người chủ
xe khúm núm gật đầu, miệng dạ nhịp, rồi đến nói với tôi "Mời cô lên xe. Xe
chạy ngay bây giờ". Ông ân nhân không để ý đến lời cám ơn của tôi, cũng
không nói với ai tiếng nào, xuống thuyền, giật máy, quay thuyền ra giữa giòng.
Khi ngồi trong xe lam, tôi thấy mọi người đang tò mò nhìn tôi với vẻ sợ hãi rồi
thì thầm với nhau gì đấy. Ông xe lam nổ máy, chở một mình tôi, vòng vèo trên đường
đất trong xóm rồi đưa xe ra đường lớn, chạy vào thành phố. Ông ta chạy thẳng đến
bến xe khách, ngừng cạnh một xe đầy khách, mời tôi xuống, đưa tôi đến ông tài xế,
thì thầm với ông ta. Ông tài xế mời tôi lên ngồi ghế trước. Tôi lục trong xách
nhỏ, thấy gói đô la và vàng còn nguyên, lấy ra một mớ tiền Việt đưa trả cho hai
người, nhưng ai cũng khoát tay "Anh Năm dặn rõ là ảnh sẽ trả tiền xe cho
cô. chúng tôi đâu dám nhận".
Chiều hôm đó, tôi về đến nhà.
Khoảng một tháng sau, người tổ chức
đến gặp tôi, báo tin là mọi người đến đảo an toàn, thân nhân sẽ gửi thư sau.
Ông ta hỏi tôi rất tỉ mỉ về vụ những người không kịp lên thuyền, tôi kể lại sự
việc. Ông ta bảo những người kẹt lại đã bị công an bắt, chỉ thiếu hai gia đình,
gồm bốn người, không có tin tức. Hai gia đình nầy thì tôi biết, họ là thương
gia xuất nhập cảng trước bảy lăm, rất giàu. Trước khi đi, họ đã bán nhà, vì tin
chắc sẽ đi lọt, như vậy, họ ôm của cải theo (vàng và đô la), phải nhiều lắm.
Chuyến vượt biển lần đó khiến tôi
sợ quá, không dám nghĩ đến, ai rủ đi cũng lắc đầu.
Khoảng một năm sau, tôi nhận được
một lá thư, tên người gửi lạ hoắc. Tôi hoàn toàn không biết ai đã gửi đến"
Chị ta cầm lá thư đưa lên "Mấy năm sau,
chồng tôi đi tù về. Chúng tôi qua Mỹ theo diện HO. Vợ chồng tôi qua Canada ở
chơi với gia đình cậu em. Gần mười năm mà tôi vẫn còn giữ lá thư nầy. Để tôi đọc
cho quí vị nghe
"Gửi bà H. (là tên tôi). Bà
còn nhớ, lần vượt biển ở Cà Mau, bị bể và bà được tôi cho trọ qua đêm, hôm sau
đưa ra bến xe, về thành phố Hồ Chí Minh. Tôi biết bà thắc mắc. Tôi là ai? Tại
sao lại ở nơi vắng vẻ? Tôi sinh sống bằng cách nào?
Tôi cho bà rõ. Tôi là công an, có
nhiệm vụ ở đó để đón lỏng những người vượt biên bị bể chạy thoát được. Công an
chúng tôi làm nhà cách nhau một vài cây số, dọc bờ biển, nơi thường có bến bãi
vượt biên, có thuyền con đón ra thuyền lớn. Như vậy, khi công an đến bắt vượt
biên, người nào chạy thoát cũng chỉ quanh quẩn đâu đấy, thấy đèn là tìm đến, thế
là nộp mạng cho chúng tôi. Tôi bảo rằng có vợ ở chung nhưng thật ra, vợ con tôi
đều ở ngoài Bắc, tôi vào đây công tác đã được bốn năm, khi nào ổn định sẽ đưa
gia đình vào thành phố Hồ Chí Minh, vì chẳng ai có thể ở nơi hoang vắng nầy.
Mỗi công an chúng tôi đã chuẩn bị
sẵn các tiện nghi, nước nôi, lương thực, giường chiếu để đón những người vượt
biên tìm đến nhờ cứu giúp. Tôi cho ăn uống,
ngủ lại, sáng hôm sau, cho họ xuống thuyền, nói là chở ra bến xe để họ về
nhà, nhưng kỳ thực, thuyền đi được nửa đường là bị công an chận bắt. Tôi cũng bị
bắt để không ai nghi ngờ.
Thông thường, nếu nhiều người tìm
đến thì tôi bảo họ, có gì đem theo nên kê rõ, nhất là tiền bạc, quí kim, để
tránh chuyện lấy cắp của nhau. Nếu chỉ một người thì tôi chờ lúc người đó đi tắm
sẽ lục xách tay, kiểm tra những gì đem theo. Tôi còn rình nhìn lúc họ đi tắm, cởi
đồ ra, sẽ thấy những gì họ lận theo người?
Tôi không bao giờ lấy của ai bất
cứ gì, nên khi giải giao họ (đưa lên thuyền để bị công an chận bắt),ï công an
chấp pháp lấy lời khai, sẽ thấy rằng tôi rất trong sạch. Tôi từng được công an
tỉnh và trung ương biểu dương nhiều lần về thành tích chận bắt người vượt biên
cũng như tinh thần chí công vô tư, không tơ hào đến của cải, vật chất của người
bị bắt. Nhưng không ai biết rằng, hễ người nào đem nhiều đô la, vàng ngọc, hột
xoàn là tôi thủ tiêu, chôn xác trong rừng. Tôi đào sẵn những cái hố, muốn giết
ai, khuya đó, tôi lận súng trong người, bảo họ đi theo tôi để tôi chỉ đường mà
đi ra đường chính đón xe về. Vào rừng, tôi bắn chết, đạp xuống hố, hôm sau ra lấp
đất lại. Không người nào thoát khỏi tay tôi, vì chung quanh toàn sình lầy, có bỏ
chạy một quãng là ngập người dưới sình, tôi chỉ rọi đèn pin, đi tìm và bắn họ rất
dễ dàng.
Tôi có nói bao nhiêu người bị tôi
thủ tiêu với bà cũng chỉ làm bà kinh hoàng chứ chẳng ích lợi gì. Tất cả của cải
cướp được, tôi đưa cho vợ tôi đem về quê chôn giấu. Hột xoàn, đô la, vàng ngọc,
châu báu... Nghĩa là vợ chồng tôi rất giàu. Vợ tôi bảo, có thể bỏ vốn lập những
công ty, mua máy móc để sản xuất hàng hóa xuất khẩu hoặc mua nhà cửa ở Hà Nội
hay thành phố Hồ Chí Minh cũng không hết của. Dĩ nhiên gia đình tôi ngoài Bắc vẫn
sống đạm bạc như bao nhiêu người khác, để tránh bị nghi ngờ.
Tôi dự định sẽ làm thêm vài năm,
kiếm một số tiền vàng nữa rồi xin ra khỏi ngành.
Tính ra, tôi ở đó đã được bốn
năm, cho đến cái đêm bà tìm đến nạp mạng cho tôi.
Như mọi khi, lúc bà đi tắm, tôi
rình xem bà cởi đồ (để biết của cải lận theo người) rồi lên kiểm tra xách tay của
bà. Tôi thấy trong xách có nhiều vàng và đô la. Như vậy, số phận của bà đã được
tôi quyết định. Bà sẽ bị tôi thủ tiêu. Trong lúc lục xét xách tay tôi thấy có một
quyển kinh, khổ lớn hơn những quyển kinh khác, mà những người vượt biên khác
thường đem theo. Quyển kinh lớn đó khiến tôi tò mò.Theo thông lệ, tất cả kinh
Phật của những người vượt biên, tôi giữ lại, khi nào lên tỉnh, tôi tặng cho người
bạn đang trụ trì một ngôi chùa lớn, gần chợ. Anh ta là công an, đi tu là công
tác, vẫn lãnh lương công an. Tôi tặng các quyển kinh Phật cho chùa để ai đến lễ
chùa mà "thỉnh" những kinh đó thì biết ngay, người đó sẽ vượt biên và
chúng tôi theo dõi. Vì tò mò và vì nghiệp vụ, tôi mở quyển kinh của bà ra, để sát ngọn đèn cho dễ
đọc. Tôi đọc một cách tình cờ, một câu kinh nằm ngay giữa trang kinh. Chỉ một
câu thôi. Câu duy nhất đó khiến tôi lạnh toát người vì kinh sợ. Tôi sợ đến
choáng váng, muốn té xỉu, đến độ ngồi chết lặng một lúc thật lâu. Tối đó, tôi
không ngủ được...
Hiện nay tôi đã ra khỏi ngành
công an. Tôi đã đi tu ở một vùng núi miền Tây Nguyên, rất hẻo lánh, xa hẳn phố
phường, làng xóm. Ngôi chùa nhỏ được cất bên góc núi. Rất xa, dưới chân núi,
cách nơi tôi ở, thấp thoáng những nhà sàn của những người thuộc sắc tộc thiểu số.
Mỗi buổi sáng, tôi lạy Phật, tụng kinh, rồi lên đồi cuốc đất, trồng khoai sắn,
rau quả. Buổi tối tôi lại tụng kinh và suy ngẫm lời Phật dạy. Tôi bảo với vợ
tôi là tôi làm nhiệm vụ trên giao, không nên gặp nhau nhiều, thỉnh thoảng lên
tiếp tế lương thực mà thôi. Của cải mà tôi kiếm được (vợ tôi đang giữ), tôi dặn,
nên trích ra một phần, khi nào có thiên tai bão lụt thì đem cứu giúp người hoạn
nạn, giúp bà con, bạn bè khi họ cần, giúp các người già lão, bịnh tật, không
nơi nương tựa, giúp các trại mồ côi, các trại cùi hủi...
Tôi viết để bà rõ, nay tôi đã chọn
con đường khác. Tôi chỉ muốn biến mất trên thế gian, nhưng còn các con tôi?
Chúng là nguồn sống của tôi. Tôi lo sợ cho chúng...
Nếu bà là một Phật tử, xin bà đến
chùa, cùng góp lời cầu xin Phật Tổ cho tôi sớm tìm được con đường giải thoát.
Chúc bà sức khỏe."
Chị đàn bà giơ lá thư lên và nói
"Thư chỉ viết thế thôi". Chúng tôi hỏi "Chị có nhớ mình mang
theo quyển kinh Phật tên gì không?" "Đúng ra, lúc nào tôi cũng để sẵn
quyển kinh "Quán Thế Âm Bồ Tát" trên bàn thờ, hễ hô "đi!"
là tôi chỉ việc bỏ vô xách tay và lên đường. Hôm đó, cô em dâu tôi đây, lại lấy
quyển kinh đó trước, tôi vội quá, mở tủ kinh Phật của ba tôi để gần đó, vơ đại
một quyển, nghĩ rằng "Phật nào cũng là Phật, vị nào cũng phù hộ, độ trì
cho chúng sinh tai qua nạn khỏi". Ba tôi, khi còn sinh thời, tu tại gia,
nghiên cứu kinh Phật. Ngoài chữ Việt, ông cụ còn biết chữ Hán, chữ Nôm nên thỉnh
rất nhiều kinh về nghiên cứu. Thế nên, đến bây giờ tôi cũng không biết mình đã
mang theo quyển kinh nào khi vượt biên. Điều tôi tin chắc rằng. Chính quyển
kinh đó đã cứu mạng tôi và câu kinh trong đó, như một lời phán của Đức Phật hoặc
đấng Hộ Pháp, bảo thẳng với kẻ ác hãy ngừng tay lại. Lời phán đó phải có uy lực
mạnh mẽ đến nỗi một kẻ giết người phải khiếp đảm".
Trong bọn chúng tôi, chẳng ai là
đệ tử nhà Phật mặc dầu, thỉnh thoảng có đi chùa lạy Phật, tụng kinh trong những
ngày lễ, tết. Chúng tôi hỏi nhau rồi phán đoán đủ thứ,. Câu "buông đao
thành Phật" quá tầm thường, chẳng làm ai động tâm. Muốn biết bí mật của
câu kinh đó, chỉ còn cách đi hỏi các nhà sư thì họa may.
Vì bị câu chuyện trên ám ảnh, nên
trên đường từ Canada về lại miền Đông Bắc nước Mỹ, chúng tôi quyết định, ghé
vào một ngôi chùa của sư PT để thăm và hỏi cho ra lẽ. Sư trạc tuổi chúng tôi, là chỗ quen biết nên rất
thân tình. Sư PT xuất gia từ lúc mười một tuổi tại chùa Diệu Đế ở Huế. Vượt
biên qua Mỹ, sư học và tốt nghiệp tiến sĩ Phật học. Tuy còn trẻ, nhưng sư PT
thông hiểu Phật pháp và có một cuộc sống rất đạo hạnh.
Trưa hôm đó, chúng tôi được sư
khoản đãi cơm chay. Trong lúc thọ trai, chúng tôi kể lại câu chuyện trên cho sư
nghe và hỏi sư có biết câu kinh nào đã khiến một người vô thần phải buông đao
giết người và đi tu không? Nhà sư suy nghĩ một lúc và nói "Nếu lý luận
theo Phật pháp thuần túy ở đây thì không thích hợp với một người cộng sản. Họ
đã được dạy căm thù và được huấn luyện cách giết người, nên dù có cả một bầy quỉ
dữ từ địa ngục chui lên, hay hàng nghìn Đức Phật hiện ra thuyết pháp, chưa chắc
ông công an nầy phải sợ mà ngưng tay. Ông ta chẳng thù hận gì những người vượt
biên, nhưng giết họ để cướp của, ông ta làm thản nhiên như người đồ tể giết
heo, giết bò. Mục đích là để có nhiều tiền của cho con cái được sung sướng. Cán
bộ cộng sản thường bảo nhau "Hi sinh đời bố, cũng cố đời con" là thế.
Kinh Phật chỉ nói về cái nghiệp và cái quả. Ai làm nấy chịu. Nhưng người Việt
mình lại có câu "Đời cha ăn mặn, đời con khát nước". Cha mẹ thương
con cháu thì ăn ở nhân đức, để phước cho chúng. Con cháu, nhớ ơn đó mà thờ phụng
các vị một cách thành tâm. Đó là "Đạo Thờ Ông Bà". Ông công an cộng sản
nầy thì làm ngược lại, nên ông ta bị ám ảnh bởi việc ác của mình, "quả báo
nhãn tiền", con cháu sẽ lãnh đủ. Có thể, con cái ông ta bị đâm chém hay bị
giết chóc sao đó, khiến ông ta nghĩ rằng "Mình giết người ta thì con mình
bị người ta giết" nên ông ta sợ". "Nhưng Phật đâu có dạy về chuyện
quả báo cho đời con cháu mà ông ta, khi đọc một câu nào đó trong kinh Phật lại
sợ hãi đến nỗi phải bỏ nghề, đi tu?" "Đa số những người vượt biên đều
đem theo người là kinh A Di Đà hoặc Bạch Y Thần Chú, coi như có Thần Phật hộ
trì bên cạnh. Khi gặp chuyện hiểm nguy thì niệm "Nam Mô Đại Từ Đại Bi Quảng
Đại Linh Cảm Quan Thế Âm Bồ Tát" chỉ đọc tới đọc lui câu đó thôi, coi như
tiếng kêu cứu, các vị Bồ Tát sẽ ra tay tế độ, giúp cho tai qua nạn khỏi. Những
quyển kinh mà ông ta tịch thu, không nhất thiết đều giống nhau. Có thể người
đàn bà kia đã mang một quyển kinh khác. Hơn nữa ở một nơi hoàn toàn vắng vẻ,
không có gì giải trí ngoài việc đọc các quyển kinh Phật, quả thật, ông ta đang
bước về hướng của giải thoát. Chính cái ý niệm muốn giải thoát khiến ông ta bỏ
nghề, và câu kinh Phật kia chỉ như vật xúc tác, như cái nút điện mà ông ta đang
mò mẩm trong bóng tối, đã bật sáng, cho ông ta thấy được con đường phải đi. Ông
ta đã Đốn ngộ. Mỗi
người là Phật chưa thành là vậy. Con người dù độc ác, mê muội đến đâu, cũng còn
le lói một chút ánh sáng của lương tri. Đúng ra, phải gọi ông ta là "ông đạo"
chứ không phải là "ông sư". Vì ngoài việc nghiên cứu, tụng niệm kinh
Phật, sư, sãi phải có thầy giảng giải, hướng dẫn trên đường tu tập"
"Giả dụ như ông công an đó đến xin thọ giáo với thầy. Thầy sẽ giảng những
gì cho một người vô thần như ông ta hiểu về Phật pháp?" Nhà sư cười
"Thoát được "tham, sân, si" là tự giải thoát rồi. Chính tôi phải
học ông ta, làm cách nào đã bỏ được chữ "tham"? Chữ "tham"
đơn giản, thường tình thôi, không cần phải triết lý xa vời. Tiền của vô tay dồi
dào, dễ dàng như vậy mà lại bỏ hết, mấy ai làm được? Còn hai chữ "sân,
si", bản thân tôi như đang nằm trong cái rọ, không biết bao giờ mới thoát
ra! Ông ta là thầy tôi mới đúng" "Thầy có thể đoán được câu kinh nào
nằm trong quyển kinh nào, đã khiến ông ta phải sợ mà đi tu không?" Nhà sư
lắc đầu "Chỉ riêng ông ta biết được mà thôi. Có thể chỉ một câu tình cờ,
bình thường nào đó ông ta đọc được nhưng giải thích đúng những băn khoăn, thắc
mắc, sợ hãi bấy lâu của ông ta, nó đánh động lương tâm ông ta, hướng dẫn ông ta
tìm con đường giải thoát. Xưa kia, lục tổ Huệ năng chỉ nghe một câu trong kinh
Kim Cang liền ngộ được đạo"
"Nhưng nhất định phải có một
câu kinh nào đó. Thầy thử nhớ xem sao?" Nhà sư lắc đầu "Bị hỏi thình
lình, tôi không nhớ ra ngay. Hay là thế nầy. Bây giờ mời quí vị ra vườn sau
chùa uống trà, ngắm hoa. Tôi xin được ít phút tập trung tư tưởng, họa may sẽ nhớ
được điều gì chăng? Mục đích không phải tìm hiểu mà chỉ như trò chuyện cho vui
vậy thôi. Tôi không đủ trình độ để giải thích câu chuyện kỳ lạ nầy". Nhà
sư lên chánh điện. Chúng tôi ra sau chùa, vừa chuyện trò vừa lang thang ngắm
hoa cảnh.
Có tiếng chuông ngân vang từ
chánh điện, rồi tất cả yên lặng. Có lẽ nhà sư đang lễ Phật và trầm tư...
Độ một giờ sau, nhà sư xuất hiện ở
ngưỡng cửa với nụ cười. Sư tiến đến, ngồi xuống với chúng tôi ở một bàn nhỏ dưới
gốc cây. Chúng tôi vội hỏi "Tìm được câu kinh nào chưa thầy?" Sư lắc
đầu và cười "Kinh Phật chẳng có câu nào hăm dọa người ta, bắt người ta phải
đi tu cả! Để nói về cái nghiệp báo thì kinh Thủy Sám Pháp có nói nhiều, nhưng
tôi chỉ nhớ chính xác được vài câu ở các quyển kinh khác, chẳng hạn, trong kinh
Đề Bà Đạt Ma (Devadata-suta) có câu "Những việc ác mà ngươi đã phạm, không
phải là tại cha ngươi, không phải tại mẹ ngươi, không phải tại thầy, chủ ngươi.
Chính một mình ngươi đã phạm, và một mình ngươi phải chịu quả báo". Trong
kinh Pháp Cú (Damma-pada) cũng có câu "Dẫu rằng ngươi chạy lên trời cao, ẩn
dưới biển sâu, trốn trong núi thẳm, không có nơi nào mà ngươi tránh khỏi cái quả
ghê gớm về tội ác của ngươi"...
Nói xong nhà sư lộ vẻ bối rối
"Rất tiếc, vì sự vô minh của tôi mà câu kinh đó vẫn còn là một bí ẩn. Xin
lỗi đã làm quí vị thất vọng. Theo tôi nghĩ, sự thống hối của ông ta quá thành
khẩn, đã cảm động đến đức Phật, và Ngài đã ra tay tế độ, đã khai ngộ cho ông
ta.
Nhưng phải là người thật thành khẩn
thì đức Phật mới làm được việc đó".