Thứ Năm, 16 tháng 1, 2025

63 . NGUYỄN PHÚ YÊN Hồ Xuân Hương & Nguyễn Du Mối tình ba năm tròn.

                                                                           


Nhân 260 năm sinh Đại thi hào Nguyễn Du (1765 -- 2025)

      Có nhiều người không tin hai nhà thơ của chúng ta có mối tình nào. Nhưng chính Hồ Xuân Hương đã viết rõ ràng “Chữ tình chốc đã ba năm vẹn/ Giấc mộng rồi ra nửa khắc không”. Và rồi nữ sĩ cũng khẳng định thêm “Lầu nguyệt năm canh chiếc bóng chong”. Đó là thời gian Hồ Xuân Hương đang sống ở Cổ Nguyệt đường, dinh thự mà thân sinh nữ sĩ là sinh đồ Hồ Phi Diễn được học trò cũ đã làm quan cho xây dựng ven Hồ Tây, Thăng Long, là nơi phồn hoa đô hội của xứ Đàng Ngoài.   

     Nhà được xây cất theo hình chữ khẩu: có tả viện làm nơi tiếp khách, bán giấy mực, sách, hữu viện là nơi dạy học, tiền viện là nhà thờ, hậu viện là khuê phòng của Hồ Xuân Hương. Chính giữa sân có hòn non bộ, chậu kiểng và có trồng nhiều hoa đào. Hồ Xuân Hương là con nhà trâm anh thế phiệt, còn Nguyễn Du cũng là con nhà quý tộc. Song đến năm 12 tuổi, Nguyễn Du đã mồ côi cha lẫn mẹ, nên về ở với anh. Năm 18 tuổi, ông thi đỗ tam trường, về coi việc binh cho anh là Nguyễn Khản. Sau đó Nguyễn Du lãng du, phiêu bạt ở Trung Hoa, ông đi từ năm 1788, lúc 21 tuổi cho đến năm 1790. Sang Tàu, Nguyễn Du muốn thoát vòng trần tục, biến thành nhà sư Chí Hiên, giong ruổi qua các vùng như Vân Nam, Liễu Châu, Trường An, Hàng Châu, Giang Nam, Yên Kinh…   

     Trên bước đường ngao du này, Nguyễn Du đi chung với người bạn thân thiết nhưng lớn hơn ông 31 tuổi tên là Nguyễn Đăng Tiến. Ông này gốc người Trung Hoa, bỏ sang nước ta xin đầu quân làm thuộc hạ cho Nguyễn Khản. Qua Tàu thì ông bạn về quê, hai người hẹn sẽ gặp lại nhau ở Thăng Long. Sau ba năm, đến cuối năm 1790 ông trở về Thăng Long, ở với anh là Nguyễn Nể, thường ra ngôi gác tía nghỉ ngơi và câu cá. Nơi đây Nguyễn Du gặp lại Đoàn Nguyễn Tuấn, người thân của cha ông. Hai người bàn chuyện văn chương nhân Đoàn Nguyễn Tuấn đi sứ trong đoàn của vua Quang Trung giả sang Tàu.


     Theo GS. Hoàng Xuân Hãn, chúng ta biết được Hồ Xuân Hương đã giao du với một số danh sĩ nổi tiếng thời bấy giờ, trong đó có cả Nguyễn Du. Bấy giờ Nguyễn Du đã 24 tuổi, còn Hồ Xuân Hương tuổi 18, là cô gái xinh xắn, thông minh, tinh thông chữ Hán, chữ Nôm, lại làm thơ hay, biết ứng đối sắc sảo. Nguyễn Du gọi Hồ Xuân Hương là lân nữ, cô hàng xóm. Dịp này hai người có hẹn nhau bơi thuyền đi hái sen ở Hồ Tây. Họ mến tài thơ của nhau và có mối quan hệ tình cảm thắm thiết. Năm 1882 trong một bản của con cháu Tử Minh - học trò của Hồ Xuân Hương, có ghi lại tâm sự một người con gái mới biết yêu. Yêu Nguyễn Du rồi Hồ Xuân Hương tự hỏi với lòng mình:

“Trải mấy thu nay vẫn hãy còn
Cớ sao khi khuyết lại khi tròn
Hỏi con Bạch Thố đà bao tuổi
Hỏi chị Hằng Nga đã mấy con.
Đêm tối cớ chi soi gác tía
Ngày xanh còn thẹn với vừng son
Năm canh lơ lửng chờ ai đó
Hay có tình riêng với nước non”.
           (Hỏi trăng)

     Hồ Xuân Hương tin rằng gặp Nguyễn Du là duyên kỳ ngộ. Nàng tin ở duyên số, dù có xa nhau ngàn dặm, nếu có duyên thì chuyện lấy nhau cũng thành, xin đừng lo lắng mà phí cả tuổi xuân xanh:

“Nghìn dặm có duyên sự cũng thành
Xin đừng lo lắng hết xuân xanh
Tấc gang tay họa thơ không dứt
Gần gụi cung dương lá vẫn lành.
Tên sẵn bút đề đường chỉnh chiện
Trống mang dùi cắp đã phanh phanh
Tuy không thả lá trôi dòng ngự
Chim tới vườn đào thế mới xinh.
           (Duyên kỳ ngộ)

     Đến thăm chùa Trấn Quốc, nàng muốn nhìn lại hỏi chàng. Biết Nguyễn Du lòng đang muốn về quê Hồng Lĩnh, nàng bày tỏ:

“Trang lâm thùy thị cảnh trung nhân
Tế tế thanh phong phiến phiến huân
Thủy nguyệt ba lung liên quải choát
Hương yên bảo thoại lộ liên vân.
Tẩy không trần lự hoa hàm thoại
Hoán tỉnh mê đồ thảo diệc xuân
Đáo cảnh linh nhân hồi thủ vấn
Đông Nam phất tụ nhạn thành quần”.
(Ai người đến đó, khách đài trang
Nhẹ lướt êm êm cơn gió Nam
Trăng nước sóng lồng sen nõn cánh
Khói hương tàn báu hạc bay ngàn.
Rửa niềm trần tục hoa hàm tiếu
Gợi tỉnh niềm mơ cỏ thấm xuân
Đến cảnh quay đầu người muốn hỏi
Đông Nam tay vẫy nhạn tung đàn).
(Đề Trấn Quốc tự, Nhất Uyên dịch
)

     Mối tình ba năm này kéo dài từ năm 1790 đến 1793, vì sau đó Nguyễn Du phải về quê ở Tiên Điền, Hà Tĩnh để lo dựng lại dinh cơ, từ đường do đã bị quân Tây Sơn đốt cháy, phá hủy. Vào ngày Nguyễn Du xuống bến thuyền nơi trường đình sông Vị Hoàng, Nam Định để đi vào Hà Tĩnh năm 1793, Hồ Xuân Hương đến tiễn biệt, nước mắt rơi đầm đìa khi rót chén rượu ly bôi mời trao nhau. Cánh buồm rồi sẽ căng lên trước gió, có lẽ nỗi sầu nặng quá làm thuyền chao nghiêng chăng? Chàng đi vì nặng việc gia đình, em cố nén lòng như nước sông sâu để nước mắt chẳng thể trào:

Phụ níp kim tòng vạn lý dao
Trường đình tửu tiễn thượng thù giao
Muộn đôi phàm tịch thuyền thiên trọng
Sầu áp giang tâm thủy bất trào
Cựu thảo ngưng mâu hương vị tán
Tha hương hồi thủ vọng cô cao
Tuy nhiên thượng hữu tương phùng nhật
Thệ hải minh sơn nhất lãng đào.
                 (Giang Nam phụ níp khiêm lưu biệt hữu nhân)
 Khăn gói bây giờ vạn dặm nao
Trường đình rượu tiễn chén mời trao
Buồm căng đôi cánh sầu nghiêng nặng
Sầu nén sông sâu nước chẳng trào
Cỏ cũ lặng nhìn hương chửa mất
Xa quê quay ngóng núi quê cao
Xa nhau còn có ngay gặp lại
Thề biển tha cho ngọn sóng đào.
                 (Lưu biệt bạn khăn gói sang sông Nam, Nhất Uyên dịch)

     Những giọt nước mắt của nàng đã làm chàng cảm động. Nguyễn Du thầm nghĩ trong lòng: anh chưa nói cùng em lời nào thì em đã mơ màng giấc chiêm bao. Hỡi em, ta yêu nhau chưa mà lửa tình rực cháy ngày giã biệt, những giọt lệ tình tiếc nuối mùa xuân đã đi qua. Tình như lá xanh, hoa vàng nếu chẳng phụ lòng nhau thì rồi đây chúng ta sẽ có ngày sum họp:           

            Đường nghĩa bấy lâu trót vẽ vời
            Nước non sầu nặng muốn đi về
            Cung hoàng dịu vợi đường khôn lọt
            Đường nguyệt mơ màng giấc hãy mê.
            Đã chắc hương đâu cho lửa bén
            Lệ mà hoa lại quyến xuân đi
            Xanh vàng chẳng phụ lòng ân ái
            Tròn trặn gương tình cũng có khi.
                (Thạch đình tặng biệt, thơ chữ Nôm của Nguyễn Du,
                 Hồ  Xuân Hương chép trong Lưu Hương ký)

     Mối tình đầu thắm thiết Xuân Hương thề nguyện ba sinh hương lửa, lòng nàng buồn man mác. Nàng không thể vượt đèo mây Tam Điệp cùng chàng về Hồng Lĩnh, nhưng lời thệ hải minh sơn còn đó, chàng có vì trăng gió mà quên nỗi lòng của em chăng?

           “Ba sinh tự hẹn nghĩa non vàng
            Man mác lòng riêng lại ngỡ càng
            Lối bước đèo mây đành chẳng đã
            Mảnh nguyền hương lửa ngỡ lên đường.
            Nước non lời nọ nào chuông chắn
            Trăng gió lòng kia mãi chán chường
            Đày đọa thân này thôi chẳng tiếc
            Thương sao cho trọn tấm lòng thương.
            (Tưởng đáo nhân tình minh nhiên hạ lệ tẩu bút
             phụng trình, thơ chữ Nôm, tựa đề chữ Hán)

     Tâm tình Hồ Xuân Hương càng chua xót trong bài thơ: em vẫn chờ chàng dạy đàn khúc Phượng cầu kỳ hoàng, trong khi đó chàng như cánh phượng đường mây. Em là gái chưa chồng, tuổi xuân cũng có thì, như đào thắm mận xanh, sao chàng hững hờ duyên em bấy lâu nay mà nỡ bỏ đi:

             Khúc hoàng tay nguyệt còn chờ dạy
             Cánh phượng đường mây đã vội chi
             Chua xót lòng xem lời để lại
             Hững hờ duyên bấy bước ra đi.
             Thử vàng đá nọ treo từng giá
             Phong gấm hoa kia nở có thì
             Đào thắm mận xanh còn thú lắm
             Xuân ơi đành nỡ đứt ra về.
                   (Họa Thanh Liên Chí Hiên nguyên vận,
                    trong Lưu Hương ký)

     Rồi nhân có người quen về Hà Tĩnh, Hồ Xuân Hương gửi Nguyễn Du bài thơ nói lên nỗi lòng của nàng. Nàng viết thư thăm chàng mà nước mắt lai láng, ngày tháng chờ trông tin chàng. Muốn thả lá đề thơ như người xưa nhưng nào biết nước trôi nơi nao, muốn gửi quà nhưng ngại chim hồng mỏi cánh. Ước gì có nàng tiên hiện xuống nơi trần thế giúp đôi ta, xin có vầng trăng làm chứng cho tấm lòng em:

Nghiêm thẳm hầu môn biết mấy trùng
May chăng khôn lẽ dám pha xông
Mấy hàng chữ mực châu lai láng
Một mảnh tờ mây ý mộng mong.
Buông thả luống e khơi ngọn nước
Gửi trao còn ngại mỏi vai hồng
Người tiên ví chẳng soi trần thế
Cậy có vầng xanh tỏ tấm lòng.
                      (Nhân tặng)

      Nguyễn Du đã trả lời bài Nhân tặng của Xuân Hương bằng bài Ký hữu, rồi Xuân Hương gửi Nguyễn Du bài Thu dạ hữu hoài trong Hương Đình Cổ Nguyệt thi tập. Nguyễn Du phúc đáp bài Thu da hữu hoài bằng bài Thu dạ I. trong Thanh Hiên thi tập. Xuân Hương đã phúc đáp bài Thu dạ I của Nguyễn Du bằng bài Thu vũ (Mưa thu). Nguyễn Du trả lời bài Thu vũ bằng bài Thu dạ II. Rồi mùa thu sau, Xuân Hương lại gửi đến Nguyễn Du bài thơ chữ Hán Cố kinh thu nhật, Nguyễn Du phúc đáp bằng bài Khai song. Xuân Hương lại gửi một bài thơ khác, bài Thu nhật tức sự, Nguyễn Du lại trả lời bằng bài thơ Thu nhật ký hứng…

     Thư đi tin lại như thế sẽ còn nhiều lần cho đến khi Nguyễn Du vì bỏ vào Nam theo Nguyễn Ánh thì bị quân Tây Sơn bắt bỏ tù. Nguyễn Văn Thận nể tình bạn với Nguyễn Nể nên chỉ cho “học tập cải tạo” ba tháng. Sau khi ra tù, ban đêm Nguyễn Du đi bộ trốn ra Thăng Long. Năm đó 1796, có lẽ mối tình sẽ chấm dứt khi Hồ Xuân Hương được mẹ gả cho một anh thầy lang xóm Tây, làng Nghi Tàm. Phạm Đình Hổ có viết bài Hoài cổ để tả chuyện Xuân Hương đi lấy chồng như sau:

          Năm xưa hoa đào nở
          Em tôi học cài trâm
Năm nay hoa đào nở
Mẹ gả xóm Tây gần.
Năm nay hoa đào nở
Gió xuân sao lạnh lùng
Em nhìn hoa mà khóc.
Sầu vương nét mi cong.
Năm nay hoa đào nở
Cỏ xuân mượt trời mơ
Bên hoa em cười nụ
Ngâm thành tự đề thơ.
     (Nhất Uyên dịch)

Và rồi Xuân Hương viết bài thơ cuối cùng cho Nguyễn Du:

 Vài hàng chữ gấm chạnh niềm châu
Nghĩ tưởng năm canh nguyệt hé lâu
Lá nhuộm thức lam thêm vẻ thẹn
Sương pha khói biếc rộn thêm sầu.
Thẩn thơ trước viện, nhà khoe gió
Đồng vọng bên tai, địch thét đâu
Ướm hỏi trăng già khe khắt bấy
Trêu nhau chi những sợi cơ cầu.
       (Họa nhân, thơ chữ Nôm Hồ Xuân Hương,

                                  Lưu Hương ký)

     Năm sau 1797, Nguyễn Du cũng lấy vợ là Đoàn Nguyễn Thị Huệ, cô em út của Đoàn Nguyễn Tuấn.

     Phải hơn mười năm sau (1804) khi được triệu vào kinh đô Huế thăng chức Đông các Học sĩ, Nguyễn Du hằng ngày dâng sách cho vua đọc, cùng bàn luận việc nước, thảo các chiếu biểu cho vua…, nhân ra hồ sen Tịnh Tâm ông nhớ lại kỷ niệm xưa với Hồ  Xuân Hương rối viết bài thơ “Mộng đắc thái liên” (Chiêm bao được hái sen) gồm 5 bài tứ tuyệt như sau:

I. Khẩn thúc phù điệp quần          Thắt chặt quần cánh bướm
Thái liên trạc tiểu đĩnh                 Hái sen thuyền nhỏ bơi
Hồ thủy hà xung dung                  Nước hồ sen trong vắt
Thủy trung hữu nhân ảnh.           Trong nước có bóng người.
                                                                 (Đào Duy Anh dịch)
II.Thái, thái Tây Hồ liên               Tây Hồ, hái, hái sen,
Hoa thực câu thướng thuyền        Hoa, gương chất mạn thuyền,
Hoa dĩ tặng sở úy                         Hoa tặng người mình kính,
Thực dĩ tặng sở liên.                    Gương tặng người mình thương.
                                                                   (Nhất Uyên dịch)
III. Kim thần khứ thái liên            Sớm nay đi hái sen
Nãi ước đông lân nữ                    Hẹn với cô nhà bên
Bất tri lại bất tri                           Đến lúc nào chẳng biết
Cách hoa văn tiếu ngữ.                Cách hoa nghe cười lên.
                                                               (Đào Duy Anh dịch)
IV. Cộng tri lân liên hoa               Hoa sen ai cũng ưa
Thùy giả lân liên cán                    Cuống sen nào ai thích
Kỳ trung hữu chân ti                     Trong cuống có tơ mành
Khiên liên bất khả đoạn.              Vấn vương không thể dứt.
                                                               (Phạm Khắc Khoan - Lê Thước dịch)
V. Liên diệp hà thanh thanh,         Lá sen màu xanh xanh,
Liên hoa kiều doanh doanh.         Hoa sen đẹp xinh xinh,
Thái chi vật thương ngẫu,             Hái chớ làm lìa ngó,
Minh niên bất phục sinh.              Năm sau sen chẳng sinh.
                                                                (Nhất Uyên dịch)

     Mối tình thắm thiết giữa Hồ Xuân Hương và Nguyễn Du như thế có lẽ không chỉ có ba năm. Họ yêu nhau qua những vần thơ đượm tình, bóng bẩy trao đổi cho nhau với tất cả say mê. Với cả hai người, tình yêu rồi cũng chỉ như một giấc mộng đẹp trôi qua trong trí tưởng, rộn ràng trong từng nhịp đập con tim, tưởng chừng như bềnh bồng trong một ảo ảnh diễm lệ của thiên thu bất tuyệt.

 

Nguyễn Phú Yên