Nhân 260 năm sinh Đại thi
hào Nguyễn Du (1765 -- 2025)
Có nhiều người không tin hai nhà thơ của chúng ta có mối tình nào. Nhưng
chính Hồ Xuân Hương đã viết rõ ràng “Chữ tình chốc đã ba năm vẹn/ Giấc mộng rồi
ra nửa khắc không”. Và rồi nữ sĩ cũng khẳng định thêm “Lầu nguyệt năm canh chiếc
bóng chong”. Đó là thời gian Hồ Xuân Hương đang sống ở Cổ Nguyệt đường, dinh
thự mà thân sinh nữ sĩ là sinh đồ Hồ Phi Diễn được học trò cũ đã làm quan cho
xây dựng ven Hồ Tây, Thăng Long, là nơi phồn hoa đô hội của xứ Đàng
Ngoài.
Nhà
được xây cất theo hình chữ khẩu: có tả viện làm nơi tiếp khách, bán giấy mực,
sách, hữu viện là nơi dạy học, tiền viện là nhà thờ, hậu viện là khuê phòng của
Hồ Xuân Hương. Chính giữa sân có hòn non bộ, chậu kiểng và có trồng nhiều hoa
đào. Hồ Xuân Hương là con nhà trâm anh thế phiệt, còn Nguyễn Du cũng là con nhà
quý tộc. Song đến năm 12 tuổi, Nguyễn Du đã mồ côi cha lẫn mẹ, nên về ở với
anh. Năm 18 tuổi, ông thi đỗ tam trường, về coi việc binh cho anh là Nguyễn
Khản. Sau đó Nguyễn Du lãng du, phiêu bạt ở Trung Hoa, ông đi từ năm 1788, lúc
21 tuổi cho đến năm 1790. Sang Tàu, Nguyễn Du muốn thoát vòng trần tục, biến
thành nhà sư Chí Hiên, giong ruổi qua các vùng như Vân Nam, Liễu Châu, Trường
An, Hàng Châu, Giang Nam, Yên Kinh…
Trên
bước đường ngao du này, Nguyễn Du đi chung với người bạn thân thiết nhưng lớn
hơn ông 31 tuổi tên là Nguyễn Đăng Tiến. Ông này gốc người Trung Hoa, bỏ sang
nước ta xin đầu quân làm thuộc hạ cho Nguyễn Khản. Qua Tàu thì ông bạn về quê,
hai người hẹn sẽ gặp lại nhau ở Thăng Long. Sau ba năm, đến cuối năm 1790 ông
trở về Thăng Long, ở với anh là Nguyễn Nể, thường ra ngôi gác tía nghỉ ngơi và
câu cá. Nơi đây Nguyễn Du gặp lại Đoàn Nguyễn Tuấn, người thân của cha ông. Hai
người bàn chuyện văn chương nhân Đoàn Nguyễn Tuấn đi sứ trong đoàn của vua
Quang Trung giả sang Tàu.
Theo GS. Hoàng Xuân Hãn, chúng ta biết được Hồ Xuân Hương đã giao du với một số danh sĩ nổi tiếng thời bấy giờ, trong đó có cả Nguyễn Du. Bấy giờ Nguyễn Du đã 24 tuổi, còn Hồ Xuân Hương tuổi 18, là cô gái xinh xắn, thông minh, tinh thông chữ Hán, chữ Nôm, lại làm thơ hay, biết ứng đối sắc sảo. Nguyễn Du gọi Hồ Xuân Hương là lân nữ, cô hàng xóm. Dịp này hai người có hẹn nhau bơi thuyền đi hái sen ở Hồ Tây. Họ mến tài thơ của nhau và có mối quan hệ tình cảm thắm thiết. Năm 1882 trong một bản của con cháu Tử Minh - học trò của Hồ Xuân Hương, có ghi lại tâm sự một người con gái mới biết yêu. Yêu Nguyễn Du rồi Hồ Xuân Hương tự hỏi với lòng mình:
“Trải mấy thu nay vẫn hãy
còn
Cớ sao khi khuyết lại khi
tròn
Hỏi con Bạch Thố đà bao
tuổi
Hỏi chị Hằng Nga đã mấy
con.
Đêm tối cớ chi soi gác tía
Ngày xanh còn thẹn với
vừng son
Năm canh lơ lửng chờ ai đó
Hay có tình riêng với nước
non”.
(Hỏi
trăng)
Hồ
Xuân Hương tin rằng gặp Nguyễn Du là duyên kỳ ngộ. Nàng tin ở duyên số, dù có
xa nhau ngàn dặm, nếu có duyên thì chuyện lấy nhau cũng thành, xin đừng lo lắng
mà phí cả tuổi xuân xanh:
“Nghìn dặm có duyên sự
cũng thành
Xin đừng lo lắng hết xuân
xanh
Tấc gang tay họa thơ không
dứt
Gần gụi cung dương lá vẫn
lành.
Tên sẵn bút đề đường chỉnh
chiện
Trống mang dùi cắp đã
phanh phanh
Tuy không thả lá trôi dòng
ngự
Chim tới vườn đào thế mới
xinh.
(Duyên
kỳ ngộ)
Đến
thăm chùa Trấn Quốc, nàng muốn nhìn lại hỏi chàng. Biết Nguyễn Du lòng đang
muốn về quê Hồng Lĩnh, nàng bày tỏ:
“Trang lâm thùy thị cảnh
trung nhân
Tế tế thanh phong phiến
phiến huân
Thủy nguyệt ba lung liên
quải choát
Hương yên bảo thoại lộ
liên vân.
Tẩy không trần lự hoa hàm
thoại
Hoán tỉnh mê đồ thảo diệc
xuân
Đáo cảnh linh nhân hồi thủ
vấn
Đông Nam phất tụ nhạn
thành quần”.
(Ai người đến đó, khách
đài trang
Nhẹ lướt êm êm cơn gió Nam
Trăng nước sóng lồng sen
nõn cánh
Khói hương tàn báu hạc bay
ngàn.
Rửa niềm trần tục hoa hàm
tiếu
Gợi tỉnh niềm mơ cỏ thấm
xuân
Đến cảnh quay đầu người
muốn hỏi
Đông Nam tay vẫy nhạn tung
đàn).
(Đề Trấn Quốc tự, Nhất
Uyên dịch)
Mối
tình ba năm này kéo dài từ năm 1790 đến 1793, vì sau đó Nguyễn Du phải về quê ở
Tiên Điền, Hà Tĩnh để lo dựng lại dinh cơ, từ đường do đã bị quân Tây Sơn đốt
cháy, phá hủy. Vào ngày Nguyễn Du xuống bến thuyền nơi trường đình sông Vị
Hoàng, Nam Định để đi vào Hà Tĩnh năm 1793, Hồ Xuân Hương đến tiễn biệt, nước
mắt rơi đầm đìa khi rót chén rượu ly bôi mời trao nhau. Cánh buồm rồi sẽ căng
lên trước gió, có lẽ nỗi sầu nặng quá làm thuyền chao nghiêng chăng? Chàng đi
vì nặng việc gia đình, em cố nén lòng như nước sông sâu để nước mắt chẳng thể
trào:
Phụ níp kim tòng vạn lý
dao
Trường đình tửu tiễn
thượng thù giao
Muộn đôi phàm tịch thuyền
thiên trọng
Sầu áp giang tâm thủy bất
trào
Cựu thảo ngưng mâu hương
vị tán
Tha hương hồi thủ vọng cô
cao
Tuy nhiên thượng hữu tương
phùng nhật
Thệ hải minh sơn nhất lãng
đào.
(Giang
Nam phụ níp khiêm lưu biệt hữu nhân)
Khăn gói bây giờ
vạn dặm nao
Trường đình rượu tiễn chén
mời trao
Buồm căng đôi cánh sầu
nghiêng nặng
Sầu nén sông sâu nước
chẳng trào
Cỏ cũ lặng nhìn hương chửa
mất
Xa quê quay ngóng núi quê
cao
Xa nhau còn có ngay gặp
lại
Thề biển tha cho ngọn sóng
đào.
(Lưu
biệt bạn khăn gói sang sông Nam, Nhất Uyên dịch)
Những giọt nước mắt của nàng đã làm chàng cảm động. Nguyễn Du thầm nghĩ trong lòng: anh chưa nói cùng em lời nào thì em đã mơ màng giấc chiêm bao. Hỡi em, ta yêu nhau chưa mà lửa tình rực cháy ngày giã biệt, những giọt lệ tình tiếc nuối mùa xuân đã đi qua. Tình như lá xanh, hoa vàng nếu chẳng phụ lòng nhau thì rồi đây chúng ta sẽ có ngày sum họp:
Đường
nghĩa bấy lâu trót vẽ vời
Nước
non sầu nặng muốn đi về
Cung
hoàng dịu vợi đường khôn lọt
Đường
nguyệt mơ màng giấc hãy mê.
Đã
chắc hương đâu cho lửa bén
Lệ
mà hoa lại quyến xuân đi
Xanh
vàng chẳng phụ lòng ân ái
Tròn
trặn gương tình cũng có khi.
(Thạch
đình tặng biệt, thơ chữ Nôm của Nguyễn Du,
Hồ Xuân
Hương chép trong Lưu Hương ký)
Mối
tình đầu thắm thiết Xuân Hương thề nguyện ba sinh hương lửa, lòng nàng buồn man
mác. Nàng không thể vượt đèo mây Tam Điệp cùng chàng về Hồng Lĩnh, nhưng lời
thệ hải minh sơn còn đó, chàng có vì trăng gió mà quên nỗi lòng của em chăng?
“Ba
sinh tự hẹn nghĩa non vàng
Man
mác lòng riêng lại ngỡ càng
Lối
bước đèo mây đành chẳng đã
Mảnh
nguyền hương lửa ngỡ lên đường.
Nước
non lời nọ nào chuông chắn
Trăng
gió lòng kia mãi chán chường
Đày
đọa thân này thôi chẳng tiếc
Thương
sao cho trọn tấm lòng thương.
(Tưởng
đáo nhân tình minh nhiên hạ lệ tẩu bút
phụng
trình, thơ chữ Nôm, tựa đề chữ Hán)
Tâm
tình Hồ Xuân Hương càng chua xót trong bài thơ: em vẫn chờ chàng dạy đàn khúc
Phượng cầu kỳ hoàng, trong khi đó chàng như cánh phượng đường mây. Em là gái
chưa chồng, tuổi xuân cũng có thì, như đào thắm mận xanh, sao chàng hững hờ
duyên em bấy lâu nay mà nỡ bỏ đi:
Khúc
hoàng tay nguyệt còn chờ dạy
Cánh
phượng đường mây đã vội chi
Chua
xót lòng xem lời để lại
Hững
hờ duyên bấy bước ra đi.
Thử
vàng đá nọ treo từng giá
Phong
gấm hoa kia nở có thì
Đào
thắm mận xanh còn thú lắm
Xuân
ơi đành nỡ đứt ra về.
(Họa
Thanh Liên Chí Hiên nguyên vận,
trong
Lưu Hương ký)
Rồi
nhân có người quen về Hà Tĩnh, Hồ Xuân Hương gửi Nguyễn Du bài thơ nói lên nỗi
lòng của nàng. Nàng viết thư thăm chàng mà nước mắt lai láng, ngày tháng chờ
trông tin chàng. Muốn thả lá đề thơ như người xưa nhưng nào biết nước trôi nơi
nao, muốn gửi quà nhưng ngại chim hồng mỏi cánh. Ước gì có nàng tiên hiện xuống
nơi trần thế giúp đôi ta, xin có vầng trăng làm chứng cho tấm lòng em:
Nghiêm thẳm hầu môn biết
mấy trùng
May chăng khôn lẽ dám pha
xông
Mấy hàng chữ mực châu lai
láng
Một mảnh tờ mây ý mộng
mong.
Buông thả luống e khơi
ngọn nước
Gửi trao còn ngại mỏi vai
hồng
Người tiên ví chẳng soi
trần thế
Cậy có vầng xanh tỏ tấm
lòng.
(Nhân
tặng)
Nguyễn
Du đã trả lời bài Nhân tặng của Xuân Hương bằng bài Ký hữu, rồi Xuân Hương gửi
Nguyễn Du bài Thu dạ hữu hoài trong Hương Đình Cổ Nguyệt thi tập. Nguyễn Du
phúc đáp bài Thu da hữu hoài bằng bài Thu dạ I. trong Thanh Hiên thi tập. Xuân
Hương đã phúc đáp bài Thu dạ I của Nguyễn Du bằng bài Thu vũ (Mưa thu). Nguyễn
Du trả lời bài Thu vũ bằng bài Thu dạ II. Rồi mùa thu sau, Xuân Hương lại gửi
đến Nguyễn Du bài thơ chữ Hán Cố kinh thu nhật, Nguyễn Du phúc đáp bằng bài
Khai song. Xuân Hương lại gửi một bài thơ khác, bài Thu nhật tức sự, Nguyễn Du
lại trả lời bằng bài thơ Thu nhật ký hứng…
Thư
đi tin lại như thế sẽ còn nhiều lần cho đến khi Nguyễn Du vì bỏ vào Nam theo
Nguyễn Ánh thì bị quân Tây Sơn bắt bỏ tù. Nguyễn Văn Thận nể tình bạn với
Nguyễn Nể nên chỉ cho “học tập cải tạo” ba tháng. Sau khi ra tù, ban đêm Nguyễn
Du đi bộ trốn ra Thăng Long. Năm đó 1796, có lẽ mối tình sẽ chấm dứt khi Hồ
Xuân Hương được mẹ gả cho một anh thầy lang xóm Tây, làng Nghi Tàm. Phạm Đình
Hổ có viết bài Hoài cổ để tả chuyện Xuân Hương đi lấy chồng như sau:
Năm
xưa hoa đào nở
Em
tôi học cài trâm
Năm nay hoa đào nở
Mẹ gả xóm Tây gần.
Năm nay hoa đào nở
Gió xuân sao lạnh lùng
Em nhìn hoa mà khóc.
Sầu vương nét mi cong.
Năm nay hoa đào nở
Cỏ xuân mượt trời mơ
Bên hoa em cười nụ
Ngâm thành tự đề thơ.
(Nhất
Uyên dịch)
Và rồi Xuân Hương viết bài
thơ cuối cùng cho Nguyễn Du:
Vài hàng chữ gấm
chạnh niềm châu
Nghĩ tưởng năm canh nguyệt
hé lâu
Lá nhuộm thức lam thêm vẻ
thẹn
Sương pha khói biếc rộn
thêm sầu.
Thẩn thơ trước viện, nhà
khoe gió
Đồng vọng bên tai, địch
thét đâu
Ướm hỏi trăng già khe khắt
bấy
Trêu nhau chi những sợi cơ
cầu.
(Họa
nhân, thơ chữ Nôm Hồ Xuân Hương,
Lưu
Hương ký)
Năm
sau 1797, Nguyễn Du cũng lấy vợ là Đoàn Nguyễn Thị Huệ, cô em út của Đoàn
Nguyễn Tuấn.
Phải
hơn mười năm sau (1804) khi được triệu vào kinh đô Huế thăng chức Đông các Học
sĩ, Nguyễn Du hằng ngày dâng sách cho vua đọc, cùng bàn luận việc nước, thảo
các chiếu biểu cho vua…, nhân ra hồ sen Tịnh Tâm ông nhớ lại kỷ niệm xưa với
Hồ Xuân Hương rối viết bài thơ “Mộng đắc thái liên” (Chiêm bao được
hái sen) gồm 5 bài tứ tuyệt như sau:
I. Khẩn thúc phù điệp
quần Thắt chặt quần
cánh bướm
Thái liên trạc tiểu
đĩnh Hái
sen thuyền nhỏ bơi
Hồ thủy hà xung
dung Nước
hồ sen trong vắt
Thủy trung hữu nhân
ảnh. Trong
nước có bóng người.
(Đào
Duy Anh dịch)
II.Thái, thái Tây Hồ
liên Tây
Hồ, hái, hái sen,
Hoa thực câu thướng
thuyền Hoa, gương chất mạn
thuyền,
Hoa dĩ tặng sở
úy Hoa
tặng người mình kính,
Thực dĩ tặng sở
liên. Gương
tặng người mình thương.
(Nhất
Uyên dịch)
III. Kim thần khứ thái
liên Sớm
nay đi hái sen
Nãi ước đông lân
nữ Hẹn
với cô nhà bên
Bất tri lại bất
tri Đến
lúc nào chẳng biết
Cách hoa văn tiếu
ngữ. Cách
hoa nghe cười lên.
(Đào
Duy Anh dịch)
IV. Cộng tri lân liên
hoa Hoa
sen ai cũng ưa
Thùy giả lân liên
cán Cuống
sen nào ai thích
Kỳ trung hữu chân
ti Trong
cuống có tơ mành
Khiên liên bất khả
đoạn. Vấn
vương không thể dứt.
(Phạm
Khắc Khoan - Lê Thước dịch)
V. Liên diệp hà thanh
thanh, Lá sen màu xanh
xanh,
Liên hoa kiều doanh
doanh. Hoa sen đẹp xinh
xinh,
Thái chi vật thương
ngẫu, Hái
chớ làm lìa ngó,
Minh niên bất phục
sinh. Năm
sau sen chẳng sinh.
(Nhất
Uyên dịch)
Mối
tình thắm thiết giữa Hồ Xuân Hương và Nguyễn Du như thế có lẽ không chỉ có ba
năm. Họ yêu nhau qua những vần thơ đượm tình, bóng bẩy trao đổi cho nhau với
tất cả say mê. Với cả hai người, tình yêu rồi cũng chỉ như một giấc mộng đẹp
trôi qua trong trí tưởng, rộn ràng trong từng nhịp đập con tim, tưởng chừng như
bềnh bồng trong một ảo ảnh diễm lệ của thiên thu bất tuyệt.
Nguyễn Phú Yên