DƯA TẾT NGÀY THƠ
Bà nội đặt trái dưa hấu lên
sàn nước, bà cầm gáo dừa vục vào ảng rồi xối lên trái dưa, kỳ cọ một lúc. Trái
dưa tròn trịa bóng lưỡng dưới tay bà. Với tay lấy nùi giẻ, bà lau khô nó rồi
bước vào để lên bàn. Bà lại quày quả bước qua cái sóng chén, một tay rút con
dao yếm, một tay đẩy nhẹ cái võng dây chuối, tiếng kẻo kẹt đang nhỏ dần lại kêu
lớn lên. Bà lấy thêm rổ tre, bỏ con dao và cái dĩa lớn vào đó rồi quay lại bàn.
Nãy giờ, tôi ngồi trên cái
ghế đẩu thấp kế bên cái võng im lặng nhìn. Nội biểu tôi đưa võng cho con Lẹ ngủ
yên, lát nữa xẻ dưa bà sẽ cho một miếng. Tôi nghe lời nội ngồi đúng chỗ đó,
nhưng đưa được vài cái thì tôi quên khuấy công việc của mình -tôi vẫn mãi nhấp
nhỏm nhìn bà với trái dưa to - Có lẽ bà cũng cho như vậy là đủ; thằng Nhỏ - em
tôi - và con Tí - con chú tôi - không có ai làm đầu trò hoặc quấy chọc đang tỉ
mẩn ngồi chơi bên đống gáo dừa. Bếp đã đỏ lửa, nồi cơm và ấm nước cũng gần sôi
rồi.
Nội xén đầu trái dưa rồi bổ
nó ra. Tôi nhổm dậy. Hai mảnh dưa lật ngữa bày ra lớp ruột đỏ thắm lấm tấm mấy
dãy hạt đen huyền ươn ướt. Bà bổ tiếp mấy nhát nữa, trái dưa đã biến thành một
dãy hình cung nhòn nhọn xếp đều trên bàn. Tôi chép miệng nuốt ực một cái, bàn
tay vô tình thò ra, chạm vào…cái võng.
Tôi kéo mạnh. Tiếng võng
lại kẻo kẹt vang lên.
Bà nội lượn lưỡi dao vào từng miếng dưa rồi bà xắt xắt. Con dao yếm sắc lẽm nhịp tới đâu từng lát dưa tam giác xinh xắn liên tiếp ngã vào cái dĩa to tướng tới đó, vài giọt nước mỏng mảnh ứa ra nghe ngòn ngọt trong cổ. Thoắt cái, bà đã xắt xong một miếng, mảnh vỏ xanh cong cong được bà cho vào rổ, chẳng mấy chốc mà cả dĩa, cả rổ đã đầy vun. Nội vẫn chưa ngó ngàng gì đến tôi !
Vị ngòn ngọt ở cổ dần dần
lạt nhách rồi trở thành cơn ấm ức, tôi khóc òa lên. Tôi thấy thằng Nhỏ và con
Tí trố mắt nhìn tôi. Qua màn nước mắt, gương mặt ngạc nhiên của tụi nó nhòa
nhòa mới đáng ghét làm sao.
Đám cháu chúng tôi đứa nào
cũng tự cho là nội thương mình nhất nhưng theo tôi hạng nhất ấy phải là tôi.
Này nha: chị Hai tôi và con Xèng - con lớn của cô - mỗi khi chúng tôi thức dậy
thì đã đi học mất rồi vì vậy họ sẽ không được củ khoai hoặc trái chuối lớn nhất
mà bà để sẳn mỗi sáng để phân phát cho lũ chúng tôi; có ở nhà thì họ cũng chẳng
tích sự gì, chỉ giỏi tài đánh đũa và nhảy dây, không đáng cho nội thương nhất.
Thằng Nhỏ và con Tí thì tổ khóc nhè, giành đồ chơi cũng khóc, té ngã cũng khóc,
kiến cắn cũng khóc; tụi nó còn có tật xấu là thỉnh thoảng lại són ra quần. Con
Lẹ - con nhỏ của cô - thì tệ nhất, chỉ biết bú rồi ngủ, lúc nào cũng nhóp nhép
cái núm vú màu vàng, nó lại hay cắn, tuy không đau nhưng ai trong chúng tôi
cũng từng bị nó cắn - bà tôi nói nó đang mọc răng - riêng chuyện són và bĩnh
thì nó là số một. Nó thật làm phiền cho nội biết bao!
Về phần tôi à? Tôi không hề
có những bê bối như vừa kể, tôi không khóc dù từng ngã từ cây chùm ruột phía
sau hay từ cây mận trước nhà; tôi giúp nội cả đống việc, việc bà nhờ cũng có,
việc bà không mượn cũng có. Này nha: đưa em, đập miểng gáo, chụm lửa, bày trò
chơi cho đám thằng Nhỏ, con Tí,…Cũng có khi nội rầy tôi, nhưng mà ít lắm, bà
mặc nhiên chấp nhận phần lớn những “trò khỉ khọt” của tôi. Chắc chắn nội cưng
tôi nhất!
Thế mà nội lại xắt hết trơn
trái dưa hấu. Bà nở dành hết nó cho bữa cơm mà không hề dòm ngó gì đến thằng
cháu. Tôi đâm ghét bà làm sao!
Gia đình chúng tôi bấy giờ
làm ăn không xuôi chèo mát máy, ấy là việc sau này lớn lên tôi mới biết, chúng
tôi phải dọn từ chỗ chợ búa về trú ở vùng ven, rồi ông nội mất - Bà vẫn nói như
vậy mỗi khi thắp nhang cho ông. Chúng tôi biết ông chính là qua lời kể của bà, theo đó, ông là người
giỏi vắn, lanh lợi và thương lũ tôi không kém gì bà; hầu hết chúng tôi ít nhiều đều được ông nội
bồng ẳm nưng niu, lo lắng cho từ lúc còn đỏ hỏn. Tôi thực sự không còn nhớ gì
về ông nhưng mỗi khi thấy bà vừa buồn buồn, vừa thành kính nhìn lên bàn thờ có
đặt di ảnh của người đàn ông đứng tuổi với khóe miệng như cười, bất giác chúng
tôi cũng im lặng, kính cẩn xá xá theo bà nội.
Ba má, chú thím và cô tôi
đều ra đi từ sáng sớm, mọi việc ở nhà bà quán xuyến hết; cũng có lúc tôi nghe
ba tôi biểu má hoặc thím nghỉ vài bữa để phụ bớt công việc cho bà nhưng hầu như
không lúc nào có được việc ấy. Nội nói thời buổi củi quế gạo châu, phải chịu
khó làm ăn - có bươi mới có cái mà mổ - và rồi suốt ngày, chúng tôi lại chỉ đối
diện với mình bà…
….Nội cũng trố mắt nhìn tôi
như bọn thằng Nhỏ, con Tí. Chợt hiểu, bà phì cười :
- Mồ tổ cái thằng láu ăn! Không có mất phần
đâu! Nín đi! Con Lẹ thức dậy là nội không nấu cơm được à!
Con Lẹ ngọ ngoạy, nhóp nhép
cái núm vú rồi lại thở đều. Bà xắn cho chúng tôi mỗi đứa nửa miếng khá lớn. Thì
ra nội vẫn có dành phần, phần ấy bị cái rổ che khuất. Tôi bị một phen tẻn tò.
Tay cầm miếng dưa, miệng thì thút thít, tôi ù chạy núp vào kẹt cửa.
Bà lại tiếp tục công việc:
đưa võng, xới cơm, bớt lửa, nướng khô,châm nước…
Nhắm mắt, tôi cũng biết nội
làm tiếp những gì! Bà sẽ lại gọt tiếp đống vỏ dưa, gọt bỏ phần vỏ xanh ở ngoài
cùng ấy. Mớ vỏ biến thành những mãnh cong cong trắng muốt. Nội lại xắt chúng
thành những cọng dài dài để bóp gỏi...
Bà sẽ xé mớ khô sặc, trộn vào đám cọng dưa đó. Cuối cùng một dĩa đầy tú ụ, ngon
lành sẽ xuất hiện; Nội tận dụng được tất cả những thứ mà nếu là trước đây thì
đã quẳng vào mương rác
…Nhiều món ăn nhà nghèo
kiểu đó đã nuôi chúng tôi ngày một lớn lên; gian bếp ám khói gáo dừa luôn đỏ
lửa đó vẫn sưởi ấm chúng tôi suốt cả một quảng ấu thơ chật vật; trái chuối xiêm
đen hay chuối lá chín vàng, củ khoai lang Dương Ngọc tím, cây mận Hồng Đào sọc,
cây chùm ruột sần sùi với những chùm ruột khi còn non thì chát, lúc đã xanh thì
chua và khi chín vàng thì ngọt ái vẫn theo tôi từ đó đến nay. Hình hài của Bà
Nội giờ chắc cũng đã chan hòa vào đất nhưng hình ảnh người bà với bộ bà ba lam
lũ vẫn luôn lồng lộng, đầy ắp trong lòng tôi, vẫn luôn nâng đở, dìu dắt tôi
trong cuộc mưu sinh giữa chợ đời. Bây giờ mùa nào cũng có thể ăn dưa hấu nhưng
lúc nào cầm một miếng dưa tôi lại nhớ dưa Tết ngày xưa và Bà Nội vẫn từ tốn
hiện diện bên tôi mỗi khi tôi định giở ra một “trò khỉ khọt” gì đó.
Ôi, Bà Nội thân thiết của tôi!..
… Đi đâu rồi tôi cũng quay
về đô thị quê hương hiền hòa ở ngã ba sông này, nhiều lúc bâng khuâng khi nhớ
thời thơ ấu đã từng trải qua nơi đây. Thành phố đã nhiều thay đổi còn tôi thì
đã bước vào độ tuổi của bà tôi ngày ấy, nhìn hàng bần ven sông, bài thơ THỦY
LIỂU như vang lên tự đáy lòng với thật nhiều cảm xúc
...Phố sông mấy dáng kim tiền
Có nhành thủy liễu vào miền
nhớ quên!
Phố sông chợt…có cây bần
Khách ngang qua đó tần ngần
ca dao
Vọng về cổ tích lao xao
Vọng đêm đèn đóm rì rào
dáng gie
Thương hồ vọng kiếp xuồng
ghe
Tồng ngồng vọng những trưa
hè chát chua
Vọng cười cội rễ từa lưa
Ngày xa vọng những nắng mưa
đời bần
Ven sông khách cũ tần ngần
Tìm đâu dấu cũ – bông bần
lưu niên
Vai nghiêng chạm giấc mơ
hiền
Gánh mùa thơ ấu vào miền
trăm năm.
NGỌC HÙNG