Mùa thu năm 1949 khi tôi chưa ra đời, cha tôi đã chết.
Mẹ
kể: "Tây ruồng bố, cha leo lên cây đa. Cành lá không đủ che thân, cha bị bắn,
rơi như sung rụng". Mẹ tôi 18.
Làng quê tôi ai cũng nghèo như nhà ngoại,
tôi sinh ra ở đó, ngôi nhà không có đàn ông. Thời ấu thơ tôi chẳng nhớ được gì
ngoài cây đa già, có am thờ cha tôi cùng các ông bình vôi, nồi đất vất đi, qua
nhiều thế hệ. Nơi đó linh thiêng, tôi sợ người chết.
Một đêm mùa đông – khi tôi đã năm, sáu tuổi,
có bóng đàn ông đi vào nhà tôi, mẹ tôi thì thầm những gì tôi không nghe rõ. Tôi
nằm co ro trong cái bao tời rách, rồi ngủ lúc nào không hay.
Ngày xưa, khi đứa trẻ được 6 hay 7 tuổi
người ta chọn ngày lành, tháng tốt để làm lễ khai tâm. Lễ Khai tâm được coi trọng
vì nó bắt đầu cuộc đời mới của đứa trẻ, cuộc đời của một nho sĩ học đạo Thánh
hiền để thành người quân tử, noi theo con đường "tu thân, tề gia, trị quốc,
bình thiên hạ", giúp ích cho nhân quần xã hội. Vì đạo Nho lấy "tu
thân" làm gốc nên phải “Tiên học lễ, hậu học văn” tức là trước hết dạy đứa
trẻ cách cư xử đối với mọi người trong gia đình và xã hội (hiếu, đễ, nhân,
tín), vun trồng cội gốc bằng đức hạnh, rồi sau mới tới phần đào tạo tài năng bằng
Thi, Thư... Mẹ đội trên đầu con gà trống, dắt tôi đến nhà thầy giáo Khải. Thầy
mặc áo dài đen, râu dài, ngồi trên phản gỗ, tay cầm roi mây nhịp nhịp. Lũ học
trò khoảng mươi đứa, đều lớn hơn tôi. Tôi khóc ré lên chạy vù ra cổng, mẹ luống
cuống làm con gà sút dây chạy ra ngoài vườn vỗ cánh kêu quác quác…
Mẹ
gọi, tôi nghe nhưng tôi muốn về với ngoại. Mẹ dỗ dành rồi khuyên nhủ không đi học
phải chăn trâu, chăn bò. Bà ngoại nói:”Ấu bất học, lão hà vi” không biết chữ
như bà. Học giỏi mai mốt làm ông thông, ông phán “tối rượu sâm-banh, sáng sữa
bò” (TTX)
Rồi tôi cũng phải đến trường, cuốn vở, bình
mực, cây bút lá tre. Ngày đi học đầu tiên, mực nhoè cả bàn tay lẫn chiếc áo mẹ
mới mua. “O tròn như quả trứng gà
Ô
thì đội nón Ơ thì thêm râu“.
Thầy tôi mặc quốc phục, áo dài lương đen
quần trắng, đầu đội khăn đóng. Ở buổi giao thời “vứt bút lông đi, giắt bút chì”
nên thỉnh thoảng thầy dạy tam tự kinh thỉnh thoảng xen vào vài tiéng Pháp:
“Nhân chi sơ, Tính bản thiện, Tính tương cận, Tập tương viễn. Cẩu bất giáo,
Tính nãi thiên, Giáo chi đạo, Quí dĩ chuyên” (1)
“Ngọc
bất trác, bất thành khí,
Nhân
bất học, bất tri lý.”(2)
One,
deux, trois...
Ngày tôi lên trung học ngoại tôi mất, mẹ để
lại ruộng vuờn cho dì tôi, dắt tôi vào Saigon. Mẹ đi làm thuê, nuôi tôi ăn học.
Thỉnh thoảng mẹ bảo tôi viết thư về thăm dì :
“Từ
miền Nam, viết thư về thăm xóm làng. Sắt son gửi trong mấy hàng. Thăm bà con
dãi dầu năm tháng. Từ Tiền giang thương qua đèo Cả thương sang. Đêm đêm nhìn vầng
trăng sáng. Thương những già khuya sớm lang thang... Em thơ ơi có còn học hành
sớm tối. Áo nâu tươi gái làng còn che môi cười Và đàn bò còn nghe chim hót lưng
đồi. Nhớ nhưng rồi thương qua lắm bé thơ ơi!
Ruộng
đồng yêu ơi! Thôn làng ruộng đồng yêu ơi! Đường về làng tôi. Lúa đồng rạt rào
đón mời. Và người yêu quê. Đau sầu từ ngày anh đi. Có sớm anh về. Mừng mừng ướt
má hoen mi” (3)
Trước ngày thi tú tài 1, mẹ tôi bị tai nạn
giao thông qua đời. Tôi đưa mẹ về quê, an táng dưới gốc đa, để gần cha tôi. Mẹ
tôi vừa mới 34.
Vào lại Saigon, tôi ôn bài vở, thi lại kỳ 2.
Tôi làm đủ thứ nghề, vừa học vừa làm. Căn nhà trọ ở đường Cống Quỳnh quá nhiều
kỷ niệm của mẹ con tôi, dáng tất bật của mẹ, nơi mẹ ngồi chải tóc bên cửa sổ những
đêm về muộn, khi tôi thức dậy, mẹ đã đi làm. Ngày nào mẹ cũng mua sẳn tô bún
kèm ổ bánh mì để tôi điểm tâm trước khi đến trường. Mẹ tôi làm lao công.
Thi rớt tú tài 2, tôi vào quân đội. Dọc đường
hành quân, có lần về lại quê tôi, cây đa xưa không còn bóng dáng, am thờ cha
tôi, nấm mồ ngoại tôi, mẹ tôi, đã tan theo gió bụi chỉ còn lại hố bom sâu hoắm,
đục ngầu. Cũng tại quê nhà, tôi đã mất một bàn chân.
Sau chiến tranh, tôi về. Dì tôi sau thời
gian tản cư đã về trước đó.
Tôi ngớ người, nhà dì có người đàn ông lạ,
tôi chưa từng gặp bao giờ, chân cụt đến bẹn. Tôi định chống nạng quay lui. Dì
đi đâu về hớt hải:
-
Anh Ba, thằng… Minh! Minh là tên tôi. Người đàn ông nhào tới, suýt ngã. Tôi
dang hai tay đở quên mình cũng đã mất một bàn chân.
Người
đàn ông ấy - Cha tôi, người đã chết từ rất lâu trong tôi bỗng hiện về bằng
xương bằng thịt giữa cảnh đời tàn phế cả hai thế hệ, cũng đã từng quay súng ngược
về nhau.
Nguyễn
Châu