Thứ Hai, 24 tháng 2, 2025

233 . TRẦN HUIỀN ÂN TÍNH CỘNG ĐỒNG TRONG SINH HOẠT VÙNG THÔN QUÊ PHÚ YÊN (Phần 2)

 


 
RỪNG NÚI – GIỒNG ĐỒI

Cắt tranh – Lấy cây

Nhà ở vùng thôn quê miền núi Phú Yên mái tranh vách đất. Thời trước việc vận chuyển khó khăn, không thể chuyên chở gạch ngói, nhất là huyên chở cát từ đồng bằng lên, nên không thể xây nhà. Trừ các thị trấn La Hai (huyện Đồng Xuân), Củng Sơn (huyện Sơn Hòa) gần bên sông Cái và sông Ba, có đường đò dọc từ hạ bạn, bên cạnh là đường bộ rộng, đèo dốc thấp, về sau có đường xe ô tô, giao thông thuận tiện, mới có nhà ngói.

Khí hậu miền núi khác nhau từng khu vực nhỏ.

Có nơi nằm dưới thung lũng, núi chắn mất gió đông, núi che phía tây, nóng hừng hực. Có nơi buổi sáng mùa hè sương phủ đặc trắng, tầm nhìn hạn chế trong vòng năm chục mét. Có nơi ruộng đồng khá rộng, chung quanh xóm làng thoáng đãng. Đó là những nơi ấm lạnh tương đối ôn hòa. Nhà lợp tranh ở đây chịu được ba bốn năm, lợp diệc thật dày thật kỹ có thể hơn.

Cao nguyên Vân Hoà độ cao chỉ hơn 400m mà thật lạnh. Vùng tây Đồng Xuân gần núi cao cũng lạnh lắm. Buổi sớm mùa đông thức dậy đánh răng, rửa mặt, nghe tê buốt tận chân răng và khắp các ngón tay. Nhà lợp tranh chỉ chịu được hai năm là cao. Mưa dầm làm cho tranh mau đen, mục, lạt lợp đứt, gió quét xốc tấm tranh bay mất, chỗ này, chỗ kia năm nào cũng phải dọi. (Dọi: dùng một vài tấm tranh điền vào chỗ bị trống hay bị dột).

Vì vậy cần có sẵn một ít tranh tấm để kịp lúc dọi liền và cách năm cần đủ tranh để lợp lại. Tranh săn ngoài thiên nhiên không thiếu. Nhưng phải là tranh đất cát, đất sạn cốm, pha sỏi mới chắc. Tranh đất trân bở, mau mục, bất tiện. Những giồng tranh thuộc tổng Sơn Xuân,  những trảng tranh mút mắt trong vùng Thất Tân (bảy thôn tên bắt đầu bằng chữ Tân, thuộc tổng Sơn Bình), chung quanh núi Hòn Chuông vùng tây phủ Tuy An …  Lớp lớp tranh là tranh, dàn trải mượt mà như gợn tóc thiên nhiên. Thuộc tổng Xuân Phong tây bắc huyện Đồng Xuân liền với núi cao lại trùng trùng điệp điệp đồi tranh, trảng tranh.


Tháng sáu, tháng bảy… nắng nóng như lửa thiêu, tranh đế vàng vọt, xơ xác, thỉnh thoảng bốc cháy. Lúc đêm, từ xóm làng nhìn lên thấy một vùng sáng rực. Cũng có khi do người đốt. Ngọn lửa vùn vụt quét nhanh nên chỉ có tranh đế cháy rụi, những chòm cây thấp bị héo sém năm ba cành, một số lá, chẳng bao lâu được phục hồi. Tháng tám tranh đế bắt đầu nẩy “bón” (mầm nhọn), đến mùa mưa đua nhau lên, cao ngập đầu người. Tháng giêng, những giồng tranh, đồi tranh nhấp nhô sóng cuộn theo chiều gió. Ăn tết xong, rủ năm ba người, ít nhất là hai người đi “coi tranh”, tức là thăm dò xem thử chỗ nào tranh tốt chỗ nào tranh xấu. Nếu tranh tốt có thể “gút”, nếu tranh còn non, chờ thêm sang đầu tháng hai.

Gút tranh tức là đánh dấu sở hữu số tranh trong phạm vi diện tích ấy, ta sẽ khai thác, bằng cách cột bốn bó tranh lớn độ bắp chân treo ở bốn góc. Phải có ít nhất hai người khi gút tranh, người kia là nhân chứng. Nếu không có nhân chứng, việc gút tranh không có giá trị. Phần đất có tranh ấy, sau khi có người gút không ai được xâm phạm. Mà chỉ được gút một lần, không thể gút chỗ này xong đến chỗ khác thấy tranh tốt hơn bỏ chỗ cũ, gút chỗ mới. Đây cũng là lý do tại sao gút tranh cần nhân chứng. Vì vậy phải cân nhắc thận trọng trước khi gút tranh. Rủ năm ba người đi, có thể bàn bạc, ai cần nhiều hơn (nhà bị hư dột nhiều hơn), chia nhau, nhường nhau, nhân chứng đông càng thêm bảo đảm quyền sở hữu, lỡ khi bó tranh gút bị mất thì có bạn xác nhận cho ta. Đó là quy ước bất thành văn, ai cũng biết và tôn trọng.

Cuối tháng hai thì những giồng đồi bát ngát tranh xanh, đã được chia nhau cả. Đầu tháng ba, “đem công” ra cắt. Đem công, tức là dẫn những người đã và sẽ vần công cùng ta. Người chủ vạt tranh này có thể vì lý do nào đó vắng mặt, đã có các bạn nhân chứng chỉ rõ phạm vi được cắt. Cắt tranh tận gốc, rải ra phơi cho khô tại chỗ. Công việc cuối cùng khi tranh khô là giũ tranh cho hết “nhau” tức là phần rác vướng, bó lại, gánh về. Gánh tranh là những người khỏe mạnh, dùng đòn xóc (nhọn hai đầu) bằng cây săn chắc, lâu ngày lên nước bóng rạnh. Tranh bó được chất vào giàn, khi nào cần lợp sẽ dùng hom tre đánh thành tấm. Giàn tranh thường ở phía sân sau, cách mặt đất ít nhất một mét để tránh mối ăn và nước mưa văng lên làm dơ số tranh chất bên dưới. Và phải xa nhà bếp đề phòng lửa củi khi bất cẩn.

Trường hợp một người cất nhà, nếu nhà giàu cần ngôi nhà kiên cố, cây gỗ lớn, phải xin phép qua Phó tổng Vệ lâm trình quan huyện xin khai thác một số trong lâm phần quốc gia. Nếu cất nhà đơn giản, cột kèo kiểu “chặt đầu lột vỏ” dùng cây thường thì xin phép Hương lâm khai thác trong lâm phần hương thôn.

Cây rừng, và tre cũng vậy, phải là loại sống trên đất cát, đất sỏi sạn mới tốt, cây đất trân dễ mục, dễ bị mối mọt. Phải lấy cây sau tháng hai âm lịch, để cho các mầm lộc nẩy vào dịp cuối đông đầu xuân kịp già, toàn cây đều có màu lá xanh đậm, cây không còn dành hết nhựa sống nuôi mầm lộc mà lo nuôi phần lõi và giác của thân.

Chỉ lấy một hai cây dùng thay cột bếp, thay bắp cày, mỏ cày, cái oải (ách) thì khai thác trong lâm phần hương thôn, tuy không nhất thiết bắt buộc, cũng cần rủ nhau vài ba người. Có thể một lúc gặp nhau, người này nói: “Bữa nào ba anh em mình vô Hòn Chai kiếm ít cây, cái bắp cày của tui muốn gãy rồi, phải thay…”. Hai ba người đi rừng, ít nhất phải hai người, chúng tỏ rằng ta không lấy quá số cây gỗ ta cần, ta không tham lam của rừng, không kẻ gian nào lợi dụng dịp tốt để đổ tội cho ta. Nếu vì một trở ngại bất ngờ nào ta chưa lấy được cây ấy thì vạt một miếng vỏ, đánh dấu, ngày mai ngày mốt sẽ đến lấy, có một hay hai bạn này làm nhân chứng. Nhưng không được đánh dấu cây khi chưa cần dùng, tức là không được xí phần, lấy về để dành. Một góc cạnh của việc chống tích trữ đầu cơ.

Quy ước bất thành văn về việc cắt tranh, lấy cây, không biết tự đời nào, có lẽ dần dần bổ sung mới có nhiều chi tiết rõ ràng và chặt chẽ, thật đúng với tính cộng đồng trong sinh hoạt thôn quê ngày trước. Khó thực thi chứ đâu phải dễ, nhưng không nghe nói các biện pháp chế tài khi có người bị vi phạm, cũng không nghe nói ai đã vi phạm. Mọi người tự giác chấp hành trong tinh thần tôn trọng tập thể, tránh tình trạng “khó coi”.

Khó coi, hai tiếng nghe đơn giản nhưng là một hình thức kỷ luật, tuy nhẹ nhàng mà rất xót xa ở thôn quê ngày trước. Người lớn dặn dò con cháu: “Đừng làm như vậy, khó coi lắm”.

 Chặt củi

Củi cần cho người dân thôn quê suốt năm để nấu nướng, dùng nhiều nhất là ngày tết, đám giỗ, cúng mừng. Vào mùa đông còn dùng để sưởi ấm, gọi là “ngồi ấm”, đi công việc bên ngoài, chạy về run lạnh, sà ngay vào bếp, hơ hai bàn tay lên lửa, vuốt mặt, nghe ấm áp dễ chịu. Củi dùng mùa đông là củi gộc, để nguyên cây lớn bằng bắp vế, bắp chân, sáng ra trong bếp than còn đỏ. Củi lấy từ những đám rừng thưa, cây thấp, trong lâm phần hương thôn.

Không riêng gì đồng bào các dân tộc thiểu số, đối với người Kinh vùng cao nguyên, miền núi, “bếp ấm” là một sinh hoạt gia đình vào mùa đông. Nấu cơm nấu canh xong, dọn ra ngay bên bếp. Quây quần bên bếp rang bắp, nướng bắp, lùi khoai chia nhau. Nhả bắp rang vừa chín, cho rào rổ, hơ lên lửa, rắc ít nước mắm hay nước muối, đã thơm càng thơm hơn. Nước mắm, nước muối có giã thêm vài lá ngò tàu đã thấm khô vào hạt bắp, ngại ngần gì không dùng mấy đầu ngón tay chúm năm ba hạt cho vào miệng. Bắp tươi mới bẻ ngoài đám vào, dẻo quá, ngọt quá!

Nếu chỉ dùng đun nấu thì thỉnh thoảng buổi chiều vác rựa ra chỗ nào đó, tìm những cây chết khô, chặt, trảy cho bằng nhau, bó thành bó vác về, đó là “quơ củi”. Quơ độ vài ba bó củi đã đủ chụm cả tháng. Gặp một cây lớn chết khô thì vác nguyên cây về làm “củi gộc”. Cây sầm cóc da xù xì, làm củi không tốt lắm, nhưng có nhiều, thường chết khô từng đám, dễ quơ lấy. Những cành nhỏ cũng lấy, gọi là “củi chà”, tiện lợi khi nhúm lửa.

Dùng suốt mùa đông tốn nhiều củi, lúc này mưa gió không đi quơ củi được, nhà nào cũng lo dự trữ, nên từ giữa mùa hè sang đầu mùa thu người ta phải “chặt củi tươi”.

Muốn chặt củi cũng rủ vài ba người đi coi trước, thấy nơi ấy nhiều cây dùng làm củi tốt, thuận tiện đường về nhà thì lưu ý. Coi củi, không phải gút đánh dấu như coi tranh nên chỗ ấy chưa hẳn là đã được ta chọn. Những cây dùng làm củi tốt là loại cây tốt như cây nen, cây chà rang, cây bút. Cây lành ngạnh khi cháy tiết ra chất nhựa dầu màu vàng, dẻo dẻo, thơm thơm. Cây giấy vỏ dày quá, nhưng cũng coi là được. Cây mua chậm bén lửa, không đượm than, loại bỏ. Cây trâm, cây sim, cây chòi mòi… thì để lại, đến mùa ăn trái chín. Cây múi dẻ, cây chim chim… thấp nhỏ quá, không chặt.

Bây giờ đang tiết nắng hè. Kêu công năm ba người tráng niên mạnh khỏe đi chặt củi. Trảy hết nhánh nhóc, đoạn củi còn lại độ ngang tầm người đứng, dựng thành từng cụm, gốc phía dưới ngọn phía trên, nơi một gốc cây nào đó. Đi chỗ khác chặt tiếp, lại dựng thành từng cụm. Trên khắp giồng đồi rải rác những cụm củi. Có thể cùng trên diện tích một vạt rừng có nhiều cụm củi của hai ba chủ khác nhau. Đôi khi người chủ không biết hết số củi của mình, hoặc không hề biết một cụm củi nào của mình cả.

Củi dựng ngoài giồng đồi, nắng mưa từng trải, sang đầu thu thì khô hết. Chẻ sẵn một mớ lạt tre tương đối dài, đem công ra, vài người ở lại bó củi, những người khác vác về. Bó xong hết các cụm củi, những người này sẽ cùng vác. Mỗi vác củi vừa đủ nặng cho sức người trung bình, có người khỏe, bảo bó lớn hơn để thời gian vác được nhanh. Trường hợp đường xa, người vác củi có thể tự động dừng nghỉ năm ba phút nơi gốc cây bóng mát nào đó. Trong số công vác củi có người trước đây đã chặt củi, biết rõ cụm củi nào là của gia đình nào, không hề lầm lẫn, cho nên chủ củi không cần phải đi theo, chủ củi nếu là người già hay phụ nữ hoàn toàn tin tưởng vào những người vác củi.

Củi đem về chất trên giàn, cách mặt đất, để phòng mối ăn và gặp lúc mưa nước văng lên dơ bẩn, gây cảm giác khó chịu khi cầm đến. Khác với giàn tranh phải cách xa, giàn củi ở gần nhà bếp, tốt nhất là liền mái, để tiện khi lấy, nhất là ngày mưa ra vào người không bị ướt.

Trong việc chặt củi, tính cộng đồng cũng rất cao. Người chủ củi không cần có mặt từ lúc đầu, không cần biết mình có bao nhiêu cụm củi rải rác, vẫn được tập thể tôn trọng quyền sở hữu, gom đủ, bó đủ vác về chất lên giàn.

Một nguồn cung cấp chất đốt nữa là củi rẫy. Sau khi đốt rẫy, người ta phài thu dọn hết cây lớn cành nhỏ không cháy hết còn ngổn ngang bừa bãi, để mặt đất sạch sẽ cặm trỉa. Số cây cành ngổn ngang này là “củi rẫy”. Vác củi rẫy có điều phiền là than lọ đen nhẻm dính lên mặt, lên vai, lên tay… Người ta cười nhau, chế nhạo là “Ông Táo”. Do đó lấy củi rẫy thường dùng công nhà, tức là chỉ người trong gia đình đi làm.

Củi rẫy cũng không thể hết sạch một lúc, còn lại những đoạn ngắn nhỏ, độ năm ba tấc, cũng đen thui. Thế nhưng chụm nấu rất tốt – đã được “thử lửa” mà! Muốn mặt đất rẫy thật sạch sẽ thì cho người ta vào mót. Thành phần đi “mót củi rẫy” là các bà luống tuổi còn khỏe mạnh, mang gùi, đem theo cây rựa nhỏ, vào rẫy lượm củi, tề trảy, cho vào gùi mang về. Công việc nhẹ nhàng hơn đi quơ củi, kết quả củi rẫy đem lại không thua kém loại củi nào.Vậy là chủ rẫy phải nhờ vào tập thể giúp cho việc làm sạch mặt đất rẫy để khi cặm trỉa không bị vướng vấp.

Một lần nữa, tính cộng đồng trong sinh hoạt của người dân quê tạo thuận lợi cho cả đôi bên.

 Chung miếng thịt rừng

Ấp Phước Hậu làng Vân Hòa tổng Sơn Xuân huyện Sơn Hòa, nay là thôn Phong Hậu xã Sơn Long huyện Sơn Hòa trên vùng cao nguyên có nhiều gò cỏ rừng thưa.   Những gò cỏ nối tiếp nhau chung quanh ngọn đồi thấp mang tên Hòn Lúp, như gò Đồn Ba Xã, gò Lớn, gò Dinh, sủng Song, suối Cầu… trong đó xen những vạt rừng nhiều loại cây thấp như cây sim, cây mua, cây chân bầu, cây lót…nổi lên đôi ba cây bút cao vút, liền với rừng Thâm Ung là rừng già và đoạn truông dài là truông Bà Viên. Nơi đây có nhiều dã thú. Loại nhỏ là cheo, chồn, sóc… Loại lớn có nai và mang.

Con nai mình thon, cổ dài, chân cao, đuôi ngắn, thân mình cao khoảng 1,2m, lông màu nâu sẫm hoặc xám. Nai đực có sừng (còn gọi là gạc) nhánh đều nhau. Nai đực già, sừng  nhiều nhánh cao, lớn gọi là nai chà. 

Hươu nhỏ con hơn nai, thường cao khoảng 1m, sắc lông vàng nhạt hoặc mịn hồng, lốm đốm những chấm trắng. Hươu đực có sừng bốn nhánh.

Con mang có cơ thể thon, mảnh, lông màu vàng đỏ, bụng trắng, đuôi ngắn, sừng có nhánh trước ngắn, nhánh sau dài. Những người đi săn ở đây gọi là “con đỏ da”, sợ gọi đích tên nó nghe được sẽ trốn tránh. Mang còn được gọi bằng tên khác như con xách, con quảy (động tác tương tự) hoặc con mển (hình ảnh chỉ sự nặng nề, mệt nhọc: mang mển).

Vùng Nam huyện Sơn Hòa, các xã Suối Bạc, Suối Trai, Sơn Phước, Sơn Hội thay vì gò cỏ rừng thưa là giồng đồi tranh đế, rừng chòm, suối khe, thung lũng… trước đây cũng có nhiều nai, hươu, mang, chồn, cheo, sóc… thêm cà tong sống từng bầy.  

Các loại dã thú nói trên ăn phá hoa màu nơi ruộng, thổ như lúa, bắp, còn vào vườn ăn trái thơm, một món lũ nai, mang rất thích từ lúc trái còn non. Người ta săn bắt chúng để lấy thịt đồng thời bảo vệ hoa màu.

Gia đình ông Lê Huân ở ấp Phước Hậu làm nghề săn. Chưa hẳn là nghề, nhà ông Huân vẫn làm ruộng, trồng thuốc lá, nhưng ông có đủ dụng cụ đi săn, nuôi chó săn, cùng mấy người em họp thành đoàn săn thú rừng một cách chuyên nghiệp. Họ có thể nhìn những vết xước trên ngọn cỏ nhỏ bé do chân con thú để lại biết được lối đi của nó, gọi là “theo dấu”.

Dụng cụ chính để đi săn là lưới và mác. Loại lưới đãy, hình vuông, mỗi bề độ 2m, đánh bằng sợi vỏ cây tra rừng, hai bên có hai cái khuyết bằng mây rắc khoanh léo lại, hình tròn cỡ bằng miệng tô. Một sợi dây tra xỏ theo đường viền luồn qua hai khuyết ấy. Một đoạn cây săn hay tre bằng ngón chân cái, uốn cong, hai đầu vót nhọn để mắc tay lưới khi cắm vào trổ. Cả lưới, dây và cây được nhuộm nước dây cổ rùa màu nâu sẫm, lâu ngày thành tím đen. Cây mác để hạ sát con thú khi đụng lưới, cán dài, chắc, lưỡi bén nhọn. Khi đi săn đem theo rựa để phát dọn cây nhánh làm hàng rào.

Chó săn hay là những con mũi thính, đánh hơi giỏi, chạy khỏe, theo sát con thú, sủa dai, biết cách dồn đuổi, chận đầu con thú. 

Khi biết con thú ở vạt rừng nào đó, chủ cuộc săn cùng những người có kinh nghiệm quan sát địa thế, nhận định khi bị truy đuổi con thú sẽ chạy theo hướng nào. Ở phía đó đóng các tay lưới tại lối chừa trống gọi là trổ lưới. Phần đất còn lại chặt cành cây rào kín. Công việc phân công cho mỗi người như sau:

Người hờ lưới: Cầm mác đứng cạnh trổ lưới.

Người hờ phé (hay hờ chao): Cầm mác đứng ở vị trí dễ tiếp cận người hờ lưới.

Mỗi trổ lưới đều có người hờ lưới và hờ phé.

Người đem muông: Xua chó vào chỗ con thú ần nấp, đuổi thú ra. Mỗi lần săn vài ba người đem muông. Chó của ai thì người ấy đem muông.

Những người đập đuổi: Dàn hình vòng cung phía sau, tay cầm cây để đập đuổi.

Sau khi đóng lưới xong, thả chó ra, xua vào đuổi con thú gọi là đem muông. Những người đập đuối la hét không cho con thú lui lại phía sau. Bị chó đuổi, thêm tiếng người la, nó chỉ có lối thoát phía trước, thấy khoảng trống chạy vào mong tìm đường sống, liền bị mắc lưới và bị người hờ lưới hạ sát. Nếu người hờ lưới hụt tay thì có người hờ phé sẵn sàng. Tiếng hô vang lên: Đụng rồi, đụng rồi… báo cho tất cả biết.

Một đôi khi con thú không chạy vào trổ lưới mà băng rào thoát được, người ta nói một cách thất vọng: Bét phé rồi! Bét phé rồi! (Phé là gì? Chúng tôi nghĩ là khóe chăng? Tức là chỗ gần bên, như khóe mắt. Hờ phé, là không đứng sát lưới mà đứng gần. Người dân thôn quê Phú Yên phụ âm kh phát âm như ph. Củ khoai = củ phai, đêm khuya = đêm phia. Một câu vui: Đêm phia phắc nấu nầu phai ăn cho phẻ!).

Con thú bị hạ sát gọi là “con thịt” được đưa đến một chỗ cao ráo, sạch sẽ. Cành khô sẵn gần đó, gom lại chất đống, lên lửa. Một mớ cành lá tươi trải kề bên. Đặt con thịt lên lửa thui. Mùi lông thú cháy khét lẹt. Người ta cạo lông ngay trên lửa và xẻ thịt. Hơi nóng từ mùi thịt tươi tỏa ra ngây ngây tựa hương rừng hương cỏ.

Hai trái thăng lớn trong con thịt được cắt ra, xắt miếng, vót cây rừng làm cây lụi, nướng chín, đặt lên lá chuối rừng hoặc lá cây rễ hòn mang lớn bằng cái dĩa bàn. Thịt sống sả ra từng khối lớn, đặt bên cạnh, người chủ cuộc săn đứng ra cúng vái.

Cúng xong, mọi người quây quần lại. Thịt rừng chỉ ướp muối ớt, xé ra còn nóng hổi những sớ hồng, mang cái ngọt ngào nguyên chất hoang đã. Thêm chút nắng, chút gió, sự phấn khích sau khi la hét đập đuổi làm người ta thấy thêm ngon.

Đã có một quy định bất thành văn quy định việc chia phần cho người chủ lưới, người hờ lưới, chủ chó… số còn lại chia đều cho số người đập đuổi, ít người thì có phần khá hơn, lúc nhiều người phần sẽ ít hơn. Số người này không hạn chế, trẻ con hay người đi đường ngang qua chợt gặp cuộc săn dừng lại tham gia đập đuổi đều  được chia phần. Những con chó cũng có phần và nhận được lời khen của chủ.

Sau đó, ai rảnh thì cùng đến nhà chủ săn. Người chủ nấu nồi cháo thịt cúng, mời mọi người cùng vui.

Tính cộng đồng được thể hiện rõ ràng trong các cuộc săn thú. Có tổ chức đội ngũ, có phân công trách nhiệm cho từng cá nhân. Ban đầu, từ lúc làm rào, đóng lưới… đến khi vào cuộc săn ai ai cũng cùng tuân thủ theo kỷ luật tự giác, trừ người đem muông phải theo bầy chó, không một ai tự ý rời bỏ vị trí được chỉ định, hăng hái làm tròn việc được giao. Nhóm đập đuổi là phụ nữ và trẻ con. Bọn chúng tha hồ gân cổ lên la hét, cọp nghe cũng kinh hãi bỏ chạy nói gì lũ nai, mang hiền lành, ngơ ngác. Khi nghe hô “đụng rồi, đụng rồi” niềm vui òa vỡ, xúm nhau chạy tới trổ lưới xem con thịt lớn hay nhỏ thế nào. Bữa ăn sau khi cúng lưới cũng thể hiện sự vui vẻ hồn nhiên trong cộng đồng. Gặp những lần săn tốn nhiều công sức thì giờ phút này là lúc nhắc lại để rút kinh nghiệm.

Tuy không mang tính quý phái như các cuộc săn của giới thượng lưu châu Âu hay các ông vua Tàu thời trước, từ sinh hoạt này có thể hình dung ra… đây là những dấu tích còn lại của một thời lượm hái, săn bắt xa xưa, những bữa ăn bộ lạc chung quanh đống lửa hồng. Gần hơn là khi lưu dân đến khai khẩn lập làng nơi này, thường bị dã thú ăn phá hoa màu, phải săn bắt để bảo vệ lúa bắp. Đồng thời có lợi là cải thiện bữa ăn ở thôn quê miền núi khó có cá thịt. Cách tổ chức và dụng cụ trong các cuộc săn hình như không thay đổi gì nhiều.

Ngoài ra phải kể đến tính giải trí. Một cách thư giãn rất tự nhiên, niềm vui tập thể được nâng cao, mọi người cùng hòa đồng, thoải mái sau những lúc làm việc mệt nhọc. Nói chung là tính cộng đồng trong việc săn thú rất đáng phát huy và phải nói không kém phần “sống vui, sống đẹp”, sống theo tinh thần thể thao.

 Đào khoai núi

                Ai ơi chớ phụ môn khoai

                Những năm thân dậu lấy ai bạn cùng…

Người dân vùng thôn quê miền núi, cao nguyên Phú Yên biết vậy, nhắc nhau vậy, họ không phụ hạng môn khoai, mà luôn biết quý trọng nó. Người ta cũng không phụ các loại khoai củ của núi rừng, không trồng mà mọc, từng giúp đỡ con người qua cơn đói khổ.

Sống gần gũi với thiên nhiên, người ta đã được thiên nhiên cho những dự báo:

                Tháng giêng động dài

                Tháng hai động tố

                Tháng ba nồm rộ

                Tháng tư nam nom

                .  .  .

                Ngó lên mây phủ Hòn Chuông

                Suối Chình đổ sấm mưa tuôn ba ngày

                .  .  .

                Ông tha mà bà không tha

                Cũng cho cây lụt hăm ba tháng mười…

                Vân vân…

Nhưng năm 1952, năm Nhâm Thìn, không phải năm Thân năm Dậu, mưa nắng điều hòa, trời đất không báo động gì hết mà Phú Yên đói ngắc ngư! Một số gia đình đói kiệt, ăn rau và củ chuối, hàng vạn người bữa rau bữa cháo. Do một… “nhân tai”. Cuối tháng 5 và đầu tháng 6 năm 1952 không quân Pháp đánh sập hai cầu máng ở Kênh Bắc và Kênh Nam đập Đồng Cam. Cầu Máng như một máng nước bắc ngang qua bên trên suối để dẫn nước theo kênh về xuôi, bị sập, cả hệ thống đập Đồng Cam bị vô hiệu, đồng bằng Tuy Hòa mất mùa, nạn đói xảy ra. Dân Tuy Hòa đang nhàn nhã thụ hưởng kết quả của hai chục ngàn héc-ta ruộng, vựa lúa Miền Trung, nhà nào cũng đầy bồ đầy lẫm, phải bung ra chạy lên miền núi cắt lúa lấy công trên những đám ruộng nhỏ hẹp. Dân Sơn Hòa sợ đói vừa dành dụm lúa bắp sắn khoai vừa kéo nhau vô núi đào củ rừng.

Mỗi nhóm đi đào khoai khoảng trên dưới mười người, mang gùi, đem theo xà beng nhỏ, xuổng nhỏ, rựa, thức ăn trưa. Sáng sớm rời xóm vào rừng, chiều tắt về lại tới xóm.

Khoai núi có hai loại, một loại ngon hơn là khoai mài, ăn giòn, thường sống ở chỗ đất đá, củ dẹp, oằn oại, phải xắn moi từng tí đất để không bị bể vỡ. Một loại nữa là khoai ngang, sống chỗ đất thịt mềm, củ suôn, dài, dễ đào, khi củ mẹ đã già mọc bên cạnh một củ con, truyền bột cho củ con. Củ con hơi lớn thì vùng đất chung quanh củ mẹ có khoảng trống, cầm chỗ gốc rút lên được, gọi là khoai rút. Khoai ngang mềm, ngọt, không bùi như khoai mài, đến độ khoai rút củ chứa nhiều nước ăn đã nhạt lắm, nhưng năm đói thì chẳng ai khen chê. Hai loại khoai đều dùng ghé cơm, nấu chè và luộc, hấp ăn. Có bạn đến chơi, bưng ra cái rổ nhỏ, trong đó đựng mấy khúc khoai mài núi và ít miếng đường đen, cả chủ khách đều vui vẻ.

Chuyện đào khoai chắc là “theo dòng lịch sử truyền thống” từ xưa lắm. Đừng nói chi thuở kéo nhau đi lượm hái, thời lưu dân đến đây khai canh lập ấp có lẽ khoai rừng cũng là thức ăn bổ sung khi ruộng vườn chưa kịp cho ta trái già lúa chín. Từ đó phát sinh tục lệ để tránh cho tập thể những chuyện cãi vã không đâu, khỏi mất lòng nhau.

Nhóm đào khoai khi ra đến rừng thì tản mác đi tìm dây khoai để đào. Của rừng là của chung, trời đất dành cho mọi người, không ai được xí phần làm của riêng. Có thể ông A thấy được hai dây khoai, ông cứ đào một dây, xong ông đào tiếp dây kia. Nếu ông đào chưa xong, mặc dù ông có nói lên là ông đã thấy dây khoai đó, nó chưa thuộc về ông, người khác có quyền đến đào. Cho nên khi ta thấy hai ba dây, ta chọn một dây, còn lại kêu các bạn đến chỉ cho họ. Ai tham lam thì cứ giữ im lặng, coi như không thấy gì, để dành trong bụng.

Lần ấy tại một làng quê có ông M., so với trong thôn cũng là người có học, lúc Nam triều làm Hương kiểm, ăn nói hoạt bát, thường bàn về nhơn nghĩa đạo đức, lại có năng khiếu tiếu lâm, khiến cho nhóm ưa thích. Ông M. đang đào, có vẻ vội vàng, thì ông Th. phát hiện một dây khoai, lần theo, ông Th. chưng hửng la lên:

-Có dây khoai đây mà ai dứt gốc rồi.

Ông M. nói:

-Chắc con chồn con cheo gì mang đứt chớ ai dứt gốc.

Ông Th. đáp:

-Lá còn mới tinh mà chồn cheo gì mang. Cha nào chơi xấu quá!

Ông Th. đáp rồi đi chỗ khác tìm, tất cả không nói gì. Ông M. đào xong dây khoai, mầy mò tìm và reo lên:

-Tui kiếm được rồi đây. Hồi nãy Bảy Th. dở quá!

Mọi ánh mắt gần đó đổ dồn về ông M. một cách khẳng định. Hôm đó số khoai ông M. khá nhiều. Ông rất vui, gợi chuyện hết người này đến người khác. Nhưng suốt buổi đến chiều không ai nói với ông M. câu nào. Ngày hôm sau và ngày hôm sau nữa. Ông M. vẫn bị tẩy chay vì dân xóm quyết đoán ông đã dứt gốc dây khoai để xí phần, phạm vào điều khuyên không nên (không hẳn là cấm) của tục lệ. Không ai lên tiếng trách móc hay kết lỗi ông, họ chỉ tách ông ra khỏi cái tập thể thân tình mọi người đang cùng sống.

Bà G. nói bâng quơ: “Lịch sự thầm dễ ở, hổ ngươi thầm biết thuở nào nguôi”.

Ông D. cũng nói bâng quơ: Làm chuyện khó coi. Ông M. đành sang xóm khác nhập đoàn.

Bao nhiêu năm rồi, chúng tôi hỏi thăm thì ông M. ông Th. ông D. bà G. đều đã ra người thiên cổ! Nếu có một cõi âm, họ có gặp nhau không, có làm lành với nhau không?

Tính cộng đồng trong việc đào khoai núi với những khẩu ước thành tập tục rất hay, không tỏ vẻ ràng buộc nhưng khá chặt chẽ để giữ cho tập thể cùng sống bên nhau trong niềm cảm thông hoan hỉ. Tuy vậy, có quá cứng nhắc máy móc không? Thật sự, nếu nói lý thì chưa đủ chứng cứ kết lỗi ông M. Thế nhưng bằng cảm tính mọi người tin chắc và đồng thuận rằng ông đã làm chuyện “khó coi”, buộc ông nhận hình phạt “hồ ngươi thầm”. Nghe nhẹ hều mà nặng trĩu. Những năm tháng sống ở thôn quê, chúng tôi rất sợ mắc lỗi làm chuyện “khó coi”.  

                                         Cọp dữ lúc sa cơ

Thiên hạ đồn Khánh Hòa nhiều cọp, Bình Thuận nhiều ma. Hồi đầu thế kỷ XX chỗ đường Nguyễn Trãi thành phố Nha Trang còn là rừng mai, đêm đêm cọp xuống thưởng mai. Ma Bình Thuận là “ma Hời”, những oan hồn của con dân Chăm Pa trước và sau khi Đất Nước một thời rộng rãi đẹp đẽ còn lại một trấn “Thuận Thành”.

Miền núi Phú Yên không thiếu cọp, cũng có những con cọp ba chân hung dữ, những địa danh nổi tiếng là xứ sở của cọp, như “Cọp núi Lá, cá sông Hinh”, cọp “Truông Bà Viên”, cọp “Cây Gáo Quào” . Nay núi Lá thuộc huyện Sông Hinh, truông Bà Viên thuộc huyện Sơn Hòa và cây Gáo Quào thuộc huyện Đồng Xuân.

Giữa cọp và người ban đầu ắt có một thời gian chung sống bên nhau, dần dần người lấn rừng phá núi, đất sống của cọp bị thu hẹp, thức ăn thiếu hụt, cọp bắt gia súc, có con hung dữ bắt người, mối thù hận nảy ra, con người tìm cách giết cọp để bảo vệ bản thân và tài sản.

Mấy người già ở Xóm Đá kể rằng:

Hồi nẳm… con đường quan báo từ dốc Đá Mài đến dốc Đá Trong người và cọp đi chung. Hai bên đường tranh săn lên cao, dày và rậm, đêm trời mưa, sáng mù sương… cọp không đi trong đó được, bị ướt lông, khó chịu. Cho nên người đi từ lúc mặt trời mọc đến lúc mặt trời lặn, cọp đi từ lúc mặt trời lặn đến lúc mặt trời mọc hôm sau. Thỏa thuận với nhau như vậy. Có những buổi sớm đi trên đường này, thấy những chỗ phân cọp còn bốc hơi, rõ ràng cọp mới đi trước không bao lâu, nhưng mọi người cứ nói: “Chẳng sao hết, ổng đi chuyện ổng, mình đi chuyện mình, ổng lo việc ổng, mình lo việc mình, đừng chọc ghẹo nhau thì cứ đi”.  (Ổng là biến âm của ông ấy, ông cọp).

Con người với con người sống chung hòa bình, đến một lúc nào đó thấy các hòa ước bất tương xâm không cần nữa thì xé bỏ, đem quân đánh nhau, chiếm đất, bắt tù binh làm nô lệ… huống hồ người với cọp. Chuyện thỏa thuận ấy con người phịa ra, cọp đâu có lăn chân điểm chỉ, người lấy cớ cọp bắt bò bắt heo để hủy hợp đồng, kết án tử, diệt trừ.

Có hai cách diệt trừ cọp beo phổ biến ở miền núi là làm cũi nhử và gài bẫy cần.

Cũi nhử hình chữ nhật, rào bằng cây săn cỡ bắp chân, bắp vế chôn sâu xuống đất, có hai ngăn, ngăn hẹp cột một con chó suốt đêm kêu la, ngăn rộng bên ngoài một cánh cửa chắc bằng ván, cọp vào là cửa sập xuống, bên trên gác cây chất nhiều tảng đá lớn. Người ta dùng sợi dây mây thắt thòng lọng, thò vào cũi siết cổ giết chết ác thú. Cách giết này nhanh hơn, có hiệu quả hơn, nếu dùng lưỡi nhọn đâm nó sẽ chống cự, vùng vẫy, có khi bẻ gãy giáo mác, ở nông thôn bảo rằng cọp beo chỉ sợ “ông thần vòng” mà thôi. (Ông thần vòng tức là dây thòng lọng treo cổ, không rõ Miền Bắc gọi là gì. Nam Bộ cũng gọi thần vòng).  

Cũi chỉ nhử được beo, gấm. Cọp không chui vào cũi, không thèm ban đêm mò mẫm tìm bắt chó. Cọp bắt bò, trâu cái, trâu nghé… Cọp dữ bắt cả trâu đực.

Để giết cọp phải gài bẫy cần. Bác Mười ở Xóm Láng là người chuyên gài cọp bằng bẫy cần, nơi nào có “động” thì rước ông. Là người vóc dáng tầm thước, râu dày ngắn, lông mày rậm, đôi mắt luôn mở lớn, dư luận bảo rằng tướng tinh của ông khiến cho muông thú đều sợ, cọp beo đánh hơi biết ông vội vàng lảng tránh. Những chiếc bẫy của ông có một ma lực kêu gọi cọp đến để tìm cái chết.

Gài bẫy cọp tốt nhất là chọn chỗ có một cây sống làm cần, người đánh sợi dây   bằng nhợ gai, gọi là sợi đỏi, phải có tuổi cao đức lớn sợi đỏi mới không giãn, không bị đứt vì lỡ con cọp đã mắc bẫy mà vuột sổ thì kết quả nguy hại không sao lường được. Sợi đỏi đã một lần dính cọp càng tốt, hồn con cọp chết sẽ xui khiến kêu gọi con cọp sống thế chỗ.

Năm ấy, một ông vằn tàu cau xuất hiện ở Bằng Chàm, gần Xóm Đá, hạ một con bò cái lớn. Dân miền núi gọi cọp beo theo sắc lông. Trắng là ông bạch, đen là ông mun, trên lưng có vằn đen nhỏ bằng lá cau là ông vằn tàu cau, vằn đen lớn bằng bắp tay là ông vằn vắt khăn.

Thôn xóm sai người ra Láng rước bác Mười. Ngay buổi chiều chiếc bẫy hoàn thành. Người ta dùng phần con bò còn lại làm mồi nhử. Trên một chòi cao ba thanh niên lặng lẽ theo dõi.

Trăng đêm mười bốn sáng vằng vặc. Mãi đến lúc gần sáng ông vằn tàu cau khoan thai bước ra, tỏ vẻ khôn ngoan nhưng chắc chắn do kiêu căng, khinh địch, nên năm lần bảy lượt quanh quẩn ngửi nhìn, bỏ đi, cuối cùng quay lại. Chiếc bẫy được ngụy trang rất khéo léo, không có gì đáng nghi ngờ, ông vằn tàu cau thò chân trước vào khối thịt – có lẽ để thăm dò. Chỉ cần một tích tắc ấy, cây máy rơi xuống, cây cần bật lên, một chân ông bị siết chặt. Ông tung mình lên. Ba thanh niên vội xuống chòi chạy về xóm báo tin.

Con cọp to cao, khỏe mạnh, ra sức vùng vẫy, chạy ngược chạy xuôi gầm gừ, cố sức cắn táp nhưng sợi đỏi buộc chặt cổ chân nó được chiếc cối giã đục thủng đáy che chở, nó chỉ cắn táp làm sứt mẻ chung quanh vành tai cối. Phía ngoài cây cần có đóng một hàng cừ và một sợi đỏi khác cũng đã buộc sẵn vào sợi đỏi đang siết tay con cọp. Bây giờ đông đảo dân làng đứng sau hàng cừ đánh trống gõ mõ khua chiêng hô hoán la ó thị uy làm cho con cọp mất tinh thần, phần tất cả trai tráng cùng nhau ra sức kéo nó áp sát vào hàng cừ.

Ông Mười nhường cho vị lão làng việc đưa thần vòng qua khe cừ kết liễu cuộc sống của cọp vằn tàu cau. Con ác thú tận lực dãy dụa nhưng toàn thân bị ép vào hàng cừ, một chân bị buộc chặt câu thúc trong khối gỗ, ba chân hơ hỏng ngoài không khí chẳng bấu được vào đâu, cổ bị sợi mây rắc siết chặt, giương đôi mắt căm hờn nhìn cụ già Xóm Đá, trong đó như có ẩn niềm hối hận sơ hở, rùng mình mạnh một cái rồi ngoẹo đầu tắt thở. Việc đầu tiên là phải bật lửa đốt cháy hết những râu cọp, sợ có kẻ ác tâm lén nhổ đem về nuôi thành những con sâu, dùng phân sâu làm thuốc độc hại người.

Gài được con cọp là công lao của cả tập thể. Ban đầu người chặt cây, người vác về, người bứt mây, người lấy mấy bó mây để dành đem ngâm nước cho dẻo, người đào đất, dựng cây, vịn giữ, người cột riết v.v… để dựng hàng cừ chắc chắn, khi con cọp mắc bẫy thì trai tráng chung sức kéo nó áp sát hàng cừ, tất cả có mặt cùng đánh trống đánh mõ la ó thị uy cho nó hoảng sợ giảm bớt sự mạnh mẽ và hung dữ. Trên hết là công của ông Mười người thực hiện chiếc bẫy thật khéo léo.

Sức mạnh ở đây là sức mạnh tập thể, không có lực lượng tập thể sẽ không làm được. Lực lượng ấy, sức mạnh ấy tạo thành do tính cộng đồng đã thành nếp tập tục trong mọi sinh hoạt của người dân thôn quê.

 Hai đoạn vĩ thanh

Mai sau, có phải chuyện mơ hồ?

Chúng tôi đã trình bày những sinh hoạt bình thường nơi vùng cao nguyên, miền núi Phú Yên từ công việc trong làng xóm, đến công việc nơi ruộng đồng, sông nước, rừng núi. Thời điểm chúng tôi sống để quan sát, để biết là từ năm 1960 về trước. Nay hơn nửa thế kỷ trôi qua, biết bao nhiêu thay đổi.

Đọc lại các đại danh tiền bối.  Lỗ Tấn kể thời ông trai trẻ xem hát ở Bắc Kinh cũng chỉ thấy hay ở vài ba chi tiết không nằm trong chính tuồng. Lớp đàn anh ở Miền Nam thì có vị kể hồi thanh niên xem hát bội tại quê nhà Bình Định cũng chẳng khác chi chúng tôi, tức là chỉ vớ vẩn bên ngoài với bè bạn, toàn chuyện buồn cười.

Nhưng điều chính yếu của chúng tôi không phải là đi tìm những kỷ niệm ngày xưa. Chúng tôi ôn lại chuyện cũ để thấy tinh thần tập thể ở thôn quê ngày ấy rất mạnh, tạo cho trong mỗi sinh hoạt có tính cộng đồng cao, xây dựng nên tình nghĩa làng xóm vững chắc, mọi người biết nhau, hiểu nhau, thương yêu quý mến nhau. Xóm ấp ở thôn quê miền núi xa cách, nhưng khách xa đến có thể hỏi thăm người trong một làng, một tổng dễ dàng, được chỉ rõ tường tận.

Nơi chúng tôi ở hiện nay cũng hơn nửa thế kỷ rồi. Một khu nhỏ ven bìa thành phố, trước năm 1975 gồm một số người đã sống lâu tại đây và một số người vùng mất an ninh chạy về. Có những nhân vật, đến giờ lũ trẻ con hồi ấy (nay đã trưởng thành) vẫn nhớ mãi.

Như ông Bảy Xe Lam, mỗi chiều chạy xe về còn cách nhà độ vài trăm mét dừng lại cho lũ trẻ đang chơi gần đó trèo lên xe ông chở về nhà ông, chạy thẳng vào chỗ để xe, lũ trẻ xuống xe lại ra chơi chỗ cũ. Mấy phút thôi, nhưng thành một nếp quen, trong đầu óc lũ trẻ và cả ông Bảy việc dừng lại cho chúng đi một đoạn vài trăm mét là chuyện đương nhiên như vậy.

Nhà ông Năm có chiếc xe tải, ông thường đi chở hàng xa, khi về mua ít chôm chôm, măng cụt, bưởi… Bà Năm Xe Tải kêu bọn trẻ vô cắt măng cụt, chôm chôm, gọt bưởi cho chúng ăn, cũng thành thông lệ đương nhiên. Mỗi đứa vài ba miếng nhưng đứa nào cũng vui vẻ, cười giòn.

Không ai đặt một câu hỏi nào: vì sao, tại sao, do đâu… vân vân. Tính cộng đồng đã thấm sâu trong đầu óc ông Bảy, bà Năm truyền cho lũ trẻ lúc nào không hay. Không ai nghĩ khác.

Sau năm 1975 những người lánh cư trở về quê, một số ngôi nhà được những người mới đến thay thế. Khối người này coi trọng cá nhân và gia đình hơn. Bây giờ nhà cửa xây cao, nhà nào cũng khép kín im lìm, ở sát vách nhau không hề biết mặt nhau, chưa một lần chào hỏi. Họ có thế mạnh của tiền bạc, của sự quen biết, không cần tập thể gần gũi, tính cộng đồng nếu nhắc đến nghe thật mơ hồ.

Có lần một đồng nghiệp đàn anh tâm sự: “Đời sống tiến tới, biến cải. Sự đào thải cái cũ… thời xưa chậm chạp, thời nay thật nhanh. Kỹ thuật truyền thông tiến mạnh, cách viết, cách xem văn thơ, cách thưởng thức các thể loại nghệ thuật đổi khác vùn vụt, quan niệm thẩm mỹ nhảy từng bước dài. Những cái mình đang hì hục thực hiện lúc này sẽ chịu sự đối xử kiểu nào mai sau?  Mai sau, không phải là vài ba thế kỷ tới, e cũng không phải một thế kỷ tới đâu. Nó gần gũi, ngắn ngủi hơn nhiều. (2012)”.

Nhà cửa, làng xóm ở vùng thôn quê miền núi ngày nay cũng được quy hoạch lại. Sắp hàng ra hai bên đường, phân lô xây dựng nhà tầng, mái đúc. Điện sáng ngày đêm. Tủ lạnh, ti vi, quạt máy. Xe máy phân khối lớn. Nhu yếu phẩm được giao tận nhà. Không có tiếng chim tu hú giục giã gọi bình minh. Không có những bầy chào mào xao xác tìm nơi đậu buổi hoàng hôn. Cách ăn ở thay đổi thì tâm tính con người cũng thay đổi. Cá nhân được đề cao.

Đặt qua một bên điều gọi là kỷ niệm một thời thường gặp trong các trang tạp bút, nói riêng về mặt tình tự dân tộc, tìm hiểu lối sống của người dân vùng thôn quê miền núi, không khỏi băn khoăn: Tính cộng đồng trong các sinh hoạt tự ngàn xưa có còn được? Còn bao nhiêu?

Ôn chuyện cũ, nghĩ điều mới

Phú Yên, từng là vùng đệm, là đất ki mi, không biết ai là vua, ai là chúa. Là vùng tranh chấp giữa hai quốc gia, hai thế lực nội chiến. Dưới sâu chưa đầy ba tấc biết bao nhiêu xương đã tàn rụi, bao nhiêu máu đã thấm khô. Trên cành thị, bên gốc da còn biết bao oan hồn uổng tử, chết già chết trẻ, không ai thờ phụng, không nơi nương nhờ, nếu có kiếp sau không đủ điều kiện đầu thai…

Cư dân nơi đây gồm đủ thành phần, định cư, phân phối qua nhiều giai đoạn, bắt đầu khi mang ngưu canh điền khi dắt dìu theo sau vó ngựa Phù Nghĩa hầu Lương Văn Chánh đến chung sống với dân bản địa còn lưu lại, đồng hóa, rồi những đợt bổ sung rải rác mãi đến ngày nay. Đã bao nhiêu thế hệ nối tiếp nhau sinh trưởng, kế tục tài bồi xây dựng. Hiện giờ ruộng vườn phì nhiêu, biển nhiều tôm cá, nhưng bước đầu quá cam go, phá sơn lâm, đâm hà bá, trong ca dao nghe nhiều lời than khóc, thiếu hẳn vẻ khinh khoái của lưu dân vào Nam Bộ:

                Ra đi gặp vịt cũng lùa

                Gặp duyên cũng kết hặp chùa cũng tu…

Trong hoàn cảnh như thế, với thành phần cư dân phức tạp như thế, có kẻ xét người xét ta, ăn ở rộng rãi, đem lòng bao dung trang trải khắp đều, có kẻ trở thành ích kỷ vụ lợi, chỉ bo bo muốn đạt lấy cho riêng mình. Nhưng muốn sống còn người ta phải dựa vào nhau, nhà này thân với nhà kia, xóm này giao hảo với xóm nọ, nhất là khi làng mạc được hình thành, có cấp chủ trương từ trên xuống dưới. Tình lân lý, nghĩa đồng bào qua các sinh hoạt ngày càng đậm đà, tạo thành tinh thần tập thể sâu sắc và tính cộng đồng thêm vững mạnh.

                Một cây làm chẳng nên non

                Ba cây chụm lại nên hòn núi cao.

Lời ca ấy lưu sẵn trong hành trang Nam tiến. Người ta hiểu rằng mỗi cá nhân dù giàu mạnh đến mấy cũng sẽ bị triệt tiêu khi đánh mất tính cộng đồng, vượt ra ngoài tập thể. Cho nên việc chung làm chung hưởng, tay mạnh giúp tay đau, lá lành đùm lá rách… đã là tự nhiên mà có, sự suy bì tất nhiên không tránh khỏi, nhưng chỉ là nhỏ nhoi không đáng kể. Niềm vui khi vần công nhau cày bừa cấy cắt, khi chặt củi, cắt tranh, khi giã gạo trên sân trăng, khi tát cá suối, bắt cá trôi, chung miếng thịt rừng, đào củ khoai núi, khi quây quần nghe hô bài chòi, nghe nói thơ… đã là chất keo tinh thần gắn kết cùng nhau.

Thời gian trôi qua, Đất Nước biết bao biến cố. Những tàn phá, hủy diệt cả vật thể và tinh thần không khỏi gây ảnh hưởng tiêu cực nặng nề. Nhưng Đất Nước – Xứ Sở vẫn tồn tại, ngày thêm phát triển, Ông Bà vẫn luôn luôn bên cạnh con cháu lúc vui, lúc buồn. Dĩ vãng chưa mất hẳn trong lòng Hiện tại.

Nhớ về Chuyện Cũ, cần phải suy nghĩ những Điều Mới, cho Mai Sau.