Đỗ giật mình thức giấc. Ánh trăng mười
sáu vằng vặc sáng trên đầu. Chàng đã ngủ quên trên ghế bố ngoài ban công bao lâu rồi chẳng biết. Chàng nằm mơ
thấy mình hôn Thủy. Hôn say đắm, cuồng
nhiệt như những ngày mới yêu nhau. Lạ! Dễ thường có đến hơn mười năm họ không
hôn nhau. Họ không còn ý thức về sự hiện diện của nhau trong cuộc đời. Sao đêm nay mình lại hôn Thủy? Giấc mơ nói lên cảm xúc dồn nén bấy lâu
chăng? Mình vẫn còn yệu nàng? Mà Thủy đi
đâu đến giờ này vẫn chưa về? 11 giờ khuya rồi. Ăn sinh nhật gì mà trễ thế!
Thoảng mùi hương hoa sữa sộc vào mũi
chàng ngai ngái. Sao bỗng dưng thèm
một ly Irish coffee ở Art Café -Phố Hàng Chiếu thế không biết! Có lần chàng
đã uống đến hai
ly một lúc. Nhớ mùi
whisky pha cà phê thơm váng. Đỗ rút thuốc lá và châm lửa thả những sợi khói
vòng tròn vào hư không.
Thế mà đã xa lắm rồi một thời binh lửa
gian lao. Mẹ, ai bảo hào hùng! Vừa khát vừa đói vừa sợ nữa. Chiến tranh mà!
Nhưng là người chỉ huy, chàng vẫn phải “lên gân” hô hào anh em chiến đấu. Chàng
đã từng phê bình một anh lính trẻ viết báo khi anh ta mô tả cảm giác sợ hãi khi
nghe súng nổ lần đầu.
“Không, cậu không được viết giọng văn
yếu hèn thế! Cậu
phải viết là nghe
súng nổ lòng hăng hái muốn
xông lên ngay nhưng được lệnh chỉ huy chờ đợi. Phải căm thù địch đến tận xương
tủy, phải lấy chính nghĩa
làm đầu, vì đồng bào miền Nam đói khổ, cơ cực trong vòng vây của giặc mà quyết
chiến.” Chàng đã phê phán
anh ta trước đại đội, buộc anh ta phải viết lại cho đúng tinh thần tiến công ngày ấy.
Thế mà đã xa lắm rồi những ngày lang thang
trên con đường Lê
Lợi ở Huế, ngày chàng và Thủy mới
quen nhau sau khi chàng từ
giã quân đội về học Sư phạm, ôm ấp
giấc mộng trở thành nhà giáo.
Ngày ấy sao đẹp vậy, những
đêm không ngủ, lửa trại, bên ánh lửa
bập bùng, Thủy đẹp lạ! Nàng có nét đài các, có
vành môi hơi chìa ra phia
trước, nửa như nũng nịu, nửa như mời mọc, khiến Đổ trong một đêm ngồi phía sau giảng đường đã hôn bừa và nàng
rùng mình nhưng yên lặng chấp thuận. Từ đấy họ là đôi uyên ướng lý tưởng dù chàng hơn
nàng đến hơn một con
giáp. Cô gái gốc Phú Yên ra Huế học, còn chàng bộ đội phục viên bỏ Hà Nội vào xứ Huế thơ mộng gặp nhau làm thành
một đôi tình nhân gắn bó. Cháng giỏi viết văn, làm báo. Nàng giỏi hát ca, nhảy
múa. Họ làm nên những trang báo tường, những cuộc hội diễn để lại nhiều tiếng vang trong trường đại học. Chàng nghiêm trang chỉn chu trong đời sống bao nhiêu thì nàng hồn nhiên nhí nhảnh bấy nhiêu
trong mọi sinh hoạt. Nhiều lần chàng phải kéo nàng ra khỏi cơn phấn khích “văn nghệ “ khi bắt nàng phải về phòng nghỉ ngơi chứ không thể đàn ca hát xướng
cả đêm được nhưng Thủy luôn là con
người của “cảm
xúc”, nàng thả hồn theo tiếng hát và những điệu múa cho đến gần sáng mối chịu về phòng. Thậm chí nàng còn “nốc” bia thi với đám con
trai! Đối vối Thủy, đoan trang hay thủy mị là thứ đức
hạnh lỗi thời của người
phụ nữ thưở xa xưa. bây giờ
là người phụ nữ của thời đại mới, sống hết mình, xả láng cho bõ
một đời. Đỗ thường lý
luận theo sách vở,
viện dẫn chủ thuyết Mác trong
nhiều tình huống nhưng Thủy
thì bất cần lý luận. Nàng sống như thể ngày mai không còn nữa trên cõi đời này. Vậy mà họ gắn bó với nhau suốt những năm dài đại học.
Thế mà đã xa lắm rồi những ngày đầu bỡ ngỡ sống tập thể ở trường Cao
đẳng sư phạm Nha
Trang, ngày hai vợ chồng Đỗ - Thủy dắt díu nhau tìm đến nhiệm sở sau khi ra trường. Họ cùng chung khoa chung tổ, nên
giúp đỡ nhau qua lại rất nhiều từ soạn gíáo án đến thảo luận phương pháp. Đỗ có nhiều kinh nghiệm hơn, lại là một
nhân vật trong giới văn chương và chàng đã cho ra đời vài tác phẩm nên rất có
uy tín trong khoa. Uy tín
ấy giúp Thủy dễ thở hơn trong giao tiếp vì nàng không hề giữ gìn ý tứ gì cả.
Lúc nào cũng sẵn sàng “sổ toẹt” mọi
suy nghĩ trong đầu. Sau này khi đã là mẹ
của hai cô cậu sinh viên
trên 20 tuổi rồi nàng
vẫn sống như thế. Tuy nghiêm nghị nhưng Đỗ
rất chìu vợ vì chàng nghĩ tuổi trẻ nó phải sống thế mới là “trẻ”, để rồi sau này chàng phát hiện không còn trẻ nàng cũng vẫn sống như thế!
Được một quan chức Bộ
Văn hóa, là cấp trên trong
quân đội tín nhiệm đề nghị
chàng một công việc có chức sắc thuộc Bộ. Chàng
từ bỏ thân phận ông giáo quèn ra Hà Nội nhận nhiệm
vụ mới. Phải mất một thời gian khá lâu Thủy mới thích nghi được lối sinh hoạt ngoài này,
mà nàng cho rằng họ hay
soi mói dòm ngó
hơn ở Nha Trang hay Huế. Chàng gọi đùa nàng là “cô nàng hiện sinh”, dù có
hôm giận vì nàng sống tập thể mà bất chấp dư luận quá, chàng bảo, “Họ gọi em là
con hiện sinh đó , vì em mặc váy ngắn
đánh cầu lông giữa sân khu tập thể trong khi quý bà toàn kín cổng cao tường hết”. Nàng sổ toẹt: “Kệ cha họ đi anh. Chắc
chồng mấy bả bắc ghế ngồi xem chứ gì!” Nhưng riết rồi cũng quen. Thời gian
khiến người ta cũng cởi mở hơn, thoáng hơn. Những đứa trẻ tốt
nghiệp xong đều nhờ bố mà làm
toàn những chỗ ngon lành. Con bé thì làm cho một
công ty quảng cáo nước ngoài, còn
thằng út thì vào Thông
tấn xã. Chúng cũng cũng
đã lớn và tư duy độc
lập, ít trao đổi hay tâm sự với bố mẹ. Mạnh ai nấy đi từ sáng đến tối chẳng hỏi han
nhau câu nào. Đỗ cũng
thấy buồn, nhưng chúng đâu mãi là trẻ thơ.
Thế là
chàng hay nhớ về những năm tháng cũ, chiến tranh khốc
liệt nhưng tâm hồn
con người giản dị dễ hiểu
hơn. Ngày ấy chẳng ai
thắc mắc tại sao phải ra
chiến trường vì ai cũng nghĩ sứ mệnh mình cưu mang là
vĩ đại ghê gớm lắm.
Đỗ thấy mùi hoa sữa đêm nay hơi nặng. Thôi thì
cố gắng sống vui những đêm cuối ở Khu tập thể này. Tháng tới chàng đã quyết định từ giã dù đây
là khu tập thể dành cho cán bộ trung cao cấp. Không giống như khu Nguyễn Công Trứ hay Trung Tự hay các
khu khác..., nơi có
những căn nhà tập thể đúng “format” xã hội chủ
nghĩa ngày xưa, chật hẹp, chen chúc, bếp chung, toilet chung, chẳng ai có cái gì riêng cả, tài sản cũng thế. Họ
phơi cái nghèo ra trước mắt nhau, đến cấp vụ trường cũng chỉ có 36 mét vuông
mà! Những năm ấy, cái bàn là Liên
Xô hay cái xe đạp Phượng Hoàng là ước mơ
cao quý nhất của
một anh chàng trí thức.
“Một thương anh có may ô. Hai thương anh có cá khô ăn dần...” Ôi, một thời!
Bây giờ thời đại thay đổi nhiều. Cách đây vài năm các ông bà cán bộ
ở Khu tập thể này dù có nhà cao
cửa rộng ở Nha Trang, Đà
Nẵng hay Sài Gòn vẫn phải
lui cui cặm cụi sống tập thể để “gỉả
chết” theo thuật ngữ thường dùng
trong giới. Họ cho thuê những căn nhà cao cao cấp của mình lấy rất
nhiều tiền nhưng luôn
phải giả vờ tằn tiện.
Nhưng cũng qua cái thời
giết gà phải bịt mỏ, chôn lông
xuống đất, ăn xong không
dám xỉa răng… Nay thì người ta cũng hiểu nguồn cơn sự giàu có
của các ông các bà nên
cũng chẳng cần che giấu. Ngược lại, họ cũng
tập tành phô trương một chút.
Đỗ quyết định ra ngoài đến căn nhà 4 tấm ở Ô Cầu Giấy mà chàng đang cho người ta thuê. Chàng bảo sống sướng một lần rồi chết cũng được. Chẳng bõ như nhà thơ Quang Dũng tài hoa là thế mà cả đời chỉ mơ ước được một bữa no. Thủy vẫn muốn ở lại vì nàng không có nhu cầu di chuyển, về
nhà mới, quá cao quá
rộng, nghĩ đến cảnh lau nhà cũng
đủ mệt. Nhưng Đỗ đã quyết định: mình
ở 2 tầng cho thuê 2
tầng, làm cầu thang riêng.
Thêm nữa hai đứa con cũng
đã lớn rồi, chúng
sẽ lập gia đình. Cho nó về ở cả thì vui chứ sao, tam đại đồng đường. Sao lúc này tư duy phong kiến lại len lỏi vào tâm hồn
mình nhiều thế? Chàng
tự hỏi? Rồi còn tư
duy “thực dân kiểu mới” nữa chứ! Chàng hay ghé quán café
cuối đường ngồi nghe nhạc
boléro. Thứ nhạc mà
ngày xưa chàng lên án kịch liệt. Chàng bảo. Lính miền Nam nghe nhạc này không thua
mới lạ! Lính tráng gì mà hát nhạc ủy mị, ướt át đến thê lương. Nhớ chuyện
Trương Lương
trong Hán Sở tranh hùng không?
Nhưng rồi chàng lại nhớ sau ngày thống nhất, một quan chức cao cấp mắng các cán bộ dưới quyền, trong đó có chàng: “Cái văn hóa mình bưng vào cho họ không bằng cái văn hóa họ “hắt” ra ngoài này! Các đồng chí suy nghĩ đi!”.
Vâng cái văn hóa “hắt” ra đang làm chàng xao xuyến, dù chàng cố
che giấu cảm xúc thực trong các cuộc họp, chàng vẫn kiên định lập trường. Nhưng con người ai chẳng có những lúc yếu đuối, những lúc nửa đêm về sáng suy ngẫm về thân phận. Ngày còn ở chiến
trường, có những đêm trăng sáng như đêm nay, chàng thường nằm, tự hỏi mình là ai trong cuộc
chiến này? Sau chiến tranh vào giảng đường đại học, chàng gặp một số sinh viên miền Nam, khi chàng mạnh mồm phê phán chủ
nghĩa hiện sinh. Họ trả lời
rằng họ không chối cãi
rằng chủ nghĩa
ấy dẫn đến phản ứng “nổi loạn”, “tận hưởng cuộc
đời” của nhiều thanh niên không tìm thấy lẽ sống hay đường đi trong chiến tranh. Nhưng nó gợi lên những suy tư, trăn trở
về thân phận con người, ý thức trách nhiệm trước tình cảnh đất nước và chọn lựa
thái độ ứng xử cũng như hành động nhập cuộc vì tha nhân. Nên nhớ chính
Jean Paul Satre xuống đường chống Mỹ can thiệp vào Việt Nam. Mặt
nào đó, chủ nghĩa hiện
sinh đã đáp ứng nỗi ưu tư của con người và khao khát tự khẳng định khuôn mặt
tinh thần của mình trong hoàn cảnh chiến tranh, đòi hỏi người trí thức không
thể đứng “bên dòng lịch sử”. Và rồi
những người trí thức, sau
ngày "Đổi mới", họ được dịp quay
trở lại với triết
học hiện sinh, trong bối cảnh một nền kinh tế thị trường gây phân hóa xã hội. Trong một cưộc nhậu sau Hội nghị khoa
học, một đồng nghiệp trẻ
hơn chàng người miền Nam đã
nói trong cơn say
rằng con người hiện sinh là con người tỉnh ngộ, dám nhìn thẳng vào sự thật với đôi mắt
mình. Anh nói
rằng tôi nhìn cuộc đời
này không bằng đôi mắt của Thượng Đế, cũng chẳng phải là của thần linh, của các
bề trên, của vua chúa đời xưa, của lãnh đạo, lãnh tụ đời nay, của ông thầy hay
của bất cứ ai ban bảo. Mà là đôi
mắt của chính
tôi, cá nhân tôi. Thế
nên tôi có tự do. Anh ta hỏi Đỗ
anh có tự do không hay trước giờ anh
chỉ nói bằng môi kẻ khác, nghĩ bằng cái đầu người
khác. Anh phụ trách tư tưởng trong quân đội hay Hội nhà văn hay trong Bộ, tôi
không cần biết, nhưng sau
chiến tranh người lính nghĩ
gì anh biết không?
Họ có buồn không? Có bức xúc phẫn nộ không, hay luôn luôn
vui, luôn luôn hài lòng,
không được buồn? Nghĩa là họ cần tự do trong suy tư. Đỗ chợt nhớ những
điều anh ta nói
đêm nay khi vợ con mình thì rất “tự do”, còn
mình thì như gã giữ nhà, anh bảo vệ già nua, ngồi chiêm nghiệm “tự do” của người khác. Đỗ nhớ khái niệm tự do mà anh chàng đó nói. Tự
do ở đây là tự do hiện sinh, tức là tự do bên trong, tự do phát xuất từ bản
thể. Tự do lựa chọn, tự do quyết định. Tự do ở đây là dám là mình. Là câu hỏi
“To be or not to be” của
Shakespeare ngày xưa. Anh
ta hỏi chàng:
“Nếu tôi cứ sống như cái máy, ở trên bảo sao tôi làm vậy, người ta bảo sao mình
làm vậy, thì tôi mới chỉ sống như một sinh vật, chưa sống cái kiếp người của
tôi. Cuộc sống ù lì đó, sống chỉ để sinh tồn, sống như cây cỏ đó, Sartre gọi là
buồn nôn, Camus cho là phi lý, Heidegger gọi là tầm thường, và con người muốn
vượt khỏi cuộc sống tầm thường, buồn nôn, phi lý, thì phải vượt lên trên mình,
phải sống một cách độc đáo (unique), phải là một chủ thể độc đáo. Độc đáo ở đây
không có nghĩa lập dị mà chỉ có nghĩa là tự do chọn lấy một lối sống riêng,
không bắt chước người khác và cũng không chịu sự sai bảo, kiềm chế của người
khác. Độc đáo là tự xác định nhân vị của mình. Nhân vị và tự do là nội dung của
hiện sinh.
Vậy thì hiện sinh bây giờ Đỗ hiểu cũng
không phải là đồng nghĩa với đồi trụy và sa đọa như mình thường nghĩ trước đây. Và
chàng phát hiện có lúc mình cũng nghĩ suy như “máy” thiếu tỉnh táo, dù lý luận lắm khi
rất hùng hồn nhưng chợt nhìn ra mình quen
ăn nghĩ làm việc tập thể.
Đến khi viết cũng theo đường lối nên chàng cũng thấy bí bách. Có lần
Đỗ tình cờ đọc trên mạng một tay nhà văn hải ngoại viết đại khái là nghề viết
lách hay cái gọi là nhà văn hôm nay không thể là một nghề nghiệp vì chẳng ai có
thể sống bằng viết văn cả,
cũng chẳng là một danh phận, mà viết
lách suy cho cùng là cuộc giao hoan đau đớn của một kẻ bất lực! Đỗ thấm thía
khi có lần thấy tác phẩm
của mình tặng một nhà văn lớn tuổi cấp trên được nằm trong quang gánh của bà
đồng nát khi bà ấy ghé khu tập thể thu mua.
Chẳng thà
cứ vui chơi như Thủy! Nàng chẳng theo trường phái nào dù cũng là cô giáo dạy
văn. Nàng sống
như mình thích. Vui chơi tới bến. Trường phái Carpe diem. Tận hưởng
hôm nay “Cổ nhân bỉnh chúc dạ du”. Người xưa thắp đuốc
chơi đêm còn nàng không cần
đèn đi đâu khuya khoắt vẫn chưa về. Chàng bắt đầu thấy sốt ruột. Đồng hồ điểm 12
giờ. Hay mình đi tìm cô
ấy? Điện thoại thì ngoài vùng
phủ sóng. Nghe nói Thủy ghé nhà cô bạn nào
tên Đào. Chàng quay trở lên lầu, tra cứu trong sổ tay của nàng số điện thoại hay địa chỉ cô Đào nào đó, nhưng tìm mãi
chẳng thấy. Chỉ thấy rớt ra tấm carte visite tên Vũ Quốc Quân - Phóng viên Đài truyền hình. Chàng giựt mình. Sao lại có gã này trong sổ tay của nàng. Đỗ từng nghe kể
rằng thời trung học ở Tuy Hòa,
Thủy và Quân đã có mấy năm gắn bó. Sau đó họ chia tay vì Quân vào Sài
Gòn học, còn Thủy, gia đình bắt phải ra Huế vì quê ngoại ở đó. Sau đó họ gặp lại tại Nha Trang khi Quân về Đài
Truyền hình, còn Thủy theo Đỗ từ Huế vào trường Cao đẳng. Quân lại kết hôn con một quan chức trong tỉnh nên sự
nghiệp thăng tiến vùn vụt, nếu không vì sự cố “mèo mả gà đồng” tòm tem “với mấy
cô ca sĩ của Đài,
bị nhà vợ trừng phạt thì hắn còn lên cao nữa. Đỗ không mảy may nghi ngờ gì dù giờ giấc Thủy khá
bất thường trong thời gian cả hai còn ở Nha Trang. Cũng có lời ong tiếng ve
nhưng Đỗ không chấp vì tin vào vợ mình. Cô
ấy phải biết thế nào là giới hạn vì là gái có học, chứ không phải là
“con hiện sinh” như
người ta bêu riếu... Đến khi ra Hà Nội. Đỗ lại càng yên tâm. Hôm nay chàng bất
ngờ. Té ra họ vẫn còn liên lạc? Không, mình nhớ
rồi. Thủy có đi họp Ngày Thành lập
trường ở Nha Trang cách đây mấy tháng. Chắc gặp
trong ấy thôi! Chuyện
không có gì mà ầm ĩ!
Chàng rút thuốc ra, đã lâu rồi chàng tự
đề ra kỷ luật cho
mình, ngày tối đa10 điếu Marlboro đỏ nhưng hôm nay đã
đến điếu thứ 15. Vượt
khung rồi. Mà thằng Quân cũng nghiện hút Marlboro đỏ như mình. Có
lần bắt gặp hắn trong phòng
mình ở Khu nội trú giáo viên trường Cao đẳng, hắn tự nhiên xin
thuốc hút tỉnh bơ.
Mặt trông rất “playboy”, trắng
trẻo, đẹp trai, tóc chải
bóng mượt, bồng bềnh. Chàng thầm nhủ,
thằng này là một tay “sát” gái kinh
hồn. Tay run run chàng châm thuốc lá
tìm xem còn có địa chỉ nào nhưng
đành chịu!!
Đỗ nhìn lên trời. Trăng tròn. Một vầng trăng huyền ảo và lạnh lẽo thế nào đêm nay. Bỗng chàng nhớ tới mấy câu thơ của Xuân Diệu:
Trăng nhập vào đây cung nguyệt lạnh
Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần
Đàn
buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm!
Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân
(Nguyệt cầm)
Những ngày đi qua Trường Sơn, trăng là người bạn soi bóng mình đi nhưng đêm nay sao trăng có vẻ lạnh lùng xa cách quá. Tâm hồn một thầy giáo dạy văn sống lại trong lòng chàng. Bỗng dưng chàng
nhớ những ngày trên bục giảng.
Có lần khi nói về Truyện Kiều, chàng đã giảng về những vầng trăng trong đời
nàng Kiều. Nhất là phân tích câu thơ: Vầng trăng ai xẻ làm đôi // Nửa in gối
chiếc, nửa soi dặm trường” Chàng đã sử dụng chiết tự trong tiếng Hán. Một chữ
nguyệt là trăng, nhưng hai chữ nguyệt là bằng
nghĩa là bạn. Phải chăng
cụ Nguyễn Du chơi chữ? Gíá mà bây giờ còn được đứng lớp dạy học cũng vui! Làm quan chức cu ky ngày 8 tiếng chán phèo.. “Nói khẽ bước nhẹ” như người ta vẫn bảo, thậm
chí cười cũng không
thành tiếng. Sống gần hết đời, phấn đấu giữ gìn mọi phẩm hạnh khí tiết để lo cho vợ cho con mà cuối đời bỗng dưng thấy buồn. Các con cũng sống hời hợt, cả ngày không nói với bố
một câu. Giờ này chưa đứa nào về .
Vợ thì chu du “phương
lai địa hồ” nào ai biết?
Chàng thấy lạc lõng ngay trong gia đình.
Ngày xưa trong quân ngũ,
nói sao lính làm vậy.
Khi lên bục giảng,
nói sao học trò làm vậy.
Bây giờ làm quan
chức, gia đình không ai “buồn” nghe, quần chúng chắc cũng “gỉả vờ” nghe vì chàng hiểu xã hội đang diễn tiến khôn lường. Họ có nói những
gì họ nghĩ không? Như chuyện ca nhạc, mình có chỉ đạo
được hát bài
này cấm hát bài kia thì
họ vẫn cứ hát, cứ nghe qua
youtube, google thì
sao? Chàng lại chạnh
nhớ câu nói của Nietzsche
mà tình cờ chàng đọc
được gần đây, quần chúng tuy đông về số nhưng không có ai là người hết, họ chỉ
là những bóng vật vờ, bảo sao nghe vậy. (Còn nghe xong có làm không thì chịu!)
Nietzsche viết: "Ở ngoài công trường, ta nói với hết thảy mọi người mà kỳ
thực không nói với người nào hết.. Quần chúng thực là một cái máy khổng lồ và
vô hồn". Hay "Ta
thấy ta như lũ trẻ con ngày ngày nhai đi nhai lại những lời lẽ của thánh hiền,
coi đó là những bùa hộ mệnh, tưởng chừng như những lời kinh hoa mỹ kia có phép
màu để giải quyết cuộc nhân sinh của ta, mà ta không biết rằng ỷ lại như thế là
sống thêm nô lệ". (Zarathoustra đã nói như thế) Chàng chua xót
khi thấy có những cái hữu ý và hữu lý
trong những câu
“loạn ngôn” của Nietszche "Anh
đã đi con đường từ giun lên làm người, nhưng vẫn còn rất nhiều giun dế trong
anh. Xưa kia, anh là khỉ, và ngày nay, loài người vẫn còn khỉ hơn bất cứ con
khỉ nào." Đúng
là một liều thuốc đắng mà những tâm hồn muốn vươn lên phải nuốt để thoát kiếp
nô lệ, để sống kiếp người. Sao hôm nay mình lại
nhiễm tư tưởng của bọn
tư sản thế nhỉ? Hay
mình thấy những niềm tin
hôm qua không còn đủ
mạnh để vực dậy sự thất vọng khi đối diện thực
tại hôm nay?
Phải chi mình sống được như Thủy, bất chấp dư luận, bất chấp mọi thứ. Nàng muốn vui là đi tìm vui, muốn chưng diện là
chưng diện, ai dị nghị mặc kệ. Nàng sống cho mình. Nhưng cũng
đã lâu rồi chàng không hôn nàng. Sao đêm nay? Đấy là ước
mơ thầm kín sao, nói theo
Sigmund Feund, ông tổ phân tâm học. Không, cảm xúc tính dục trong chàng nguội lạnh lạ lùng. Chàng
biết mình đang ở tuổi mãn
dục. Không, bọn
đồng vai phải lứa trong
cơ quan vẫn kín đáo kéo nhau đi massage, bia ôm suốt. Chúng nó vẫn bù khú, thậm chí còn chê mình “Ông cụ ơi, khi ông chết. Người ta sẽ ghi Ngài Đỗ chết năm 64 tuổi và chôn năm 84 tuổi dấy. Vui chơi đi. Không đâu rẻ và: ngon “như xứ ta nhé! Thái, Hàn thua
xa!” Con người bây
giờ xuống cấp vậy sao? Mình
đang trở thành phán quan
hay ngự sử của thời đại này hay chỉ là một gã ngốc!
Củng may tích cóp bao
nhiêu năm được bạn bè giúp sức xây được cái nhà to ra ngoài khu
Tập thể. Thành quả cuối đời. Sang năm chàng sẽ thôi hết mọi chức vụ. Lẽ ra thì hưu rồi
nhưng được các sếp thương
tình cho giữ chân thêm
mấy năm vì không
tìm ra người ngồi vào cái ghế “hữu danh vô thực” này! Khi trên không gian mạng bây giờ lắm thằng ăn nói văng mạng, liều mạng, bỏ
mạng cũng chẳng
hãi! Cái vòng kim cô trở nên chật chội. Bùa chú
cũng bớt linh đi nhiều!
Trừ vài cái Hội diễn văn nghệ to to một tí, họ hỏi thăm ý kiến về các
tiết mục cho chắc ăn
thôi! Còn tác phẩm văn chương bây giờ thì không tìm ra ngọc, toàn cát. Ngay bản thân tác phẩm của chàng, cũng thấy nhạt nhẽo, mất hứng! Sau
những gì đọng
lại từ thời trong quân ngũ còn có cái để viết để xem, còn sau này chàng thấy tâm hồn
mình khô mực, khô máu không viết được. Nói gì đến tư duy! Hết đề tài. Con gà đẻ hết trứng rồi. Trạng thái “vô sinh” trong văn
chương không chỉ chàng mà nhiều
tay viết lách có số
má cũng mắc phải, sau
một vài tác phẩm là đứt hơi!
Sao Thủy vẫn chưa về? Chàng nhớ có lần
thằng Phấn, giáo viên cùng trường Cao Đẳng, gọi điện từ Nha Trang hỏi mình sao không vào Nha trang với vợ, bà Thủy đêm nào cũng say khướt! Uống với bạn cũ à?
Nhưng nó không nói là có thằng Quân không? Ừ nhỉ sao mình không gọi điện hỏi nó xem có tin tức gì của thằng Quân không? Ghen à? Khuya rồi gọi giờ này nó cười
cho! Chàng thở dài. Mình đang tuyệt vọng sao? Lại nhớ đọc ở đâu đó. Tuyệt vọng, trong chủ nghĩa hiện
sinh, thường được định nghĩa là mất hy vọng, khi đối diện với sự đổ vỡ ở một hoặc nhiều phẩm
chất xác định của bản thân ví dụ, một ca sĩ mất khả năng ca hát có thể tuyệt
vọng nếu họ không còn gì để quay trở lại, không có gì để danh tính của họ có
thể dựa vào. Họ thấy mình không thể là cái tạo ra bản sắc của họ. Chừng nào
danh tính của một người phụ thuộc vào những phẩm chất có thể vỡ vụn, họ ở trong
trạng thái tuyệt vọng vĩnh viễn, Hình như
Kierkegaard nói rằng "Chúng
ta đều biết rằng sự bất hạnh của một người không bao giờ nằm trong sự thiếu
kiểm soát của anh ta đối với các điều kiện bên ngoài, vì điều này chỉ khiến anh
ta hoàn toàn bất hạnh."
Một nhà văn mất cảm hứng sáng tạo, một cán bộ lãnh đạo
văn hóa mất khả năng phán xét, lại thấy quyền lực bị thu hẹp có nên tuyệt vọng
không? Đỗ thấy chàng không kiểm soát được mọi thứ chung quanh. Tất cả đều xoay theo trục riêng của nó. Đỗ mang cảm giác bất lực như cơ thể từ lâu nguội lạnh, cả một nụ hôn cũng không cần, nói gì những chuyện khác. Thủy lại đang bừng bừng sức sống. Nàng hồi xuân sao? Họ đang lệch pha
với nhau trong cuộc sống,
hai con đường song song sẽ gặp nhau ở đâu? Vô cực ư? Và nàng lại rất “hiện
sinh”!
Bỗng có tiếng rít của xe hơi thắng gấp. Chàng nhìn xuống, cửa xe mở ra, hai gã đàn ông đang dìu một người phụ nữ vào khu tập thể.
Chàng chạy vội xuống. Lại
gần, chàng bàng hoàng. “Trời ơi, Thủy! Em có sao không?” Tóc xõa dài,
gương mặt tái nhợt, Thủy lả người trong vòng tay hai gã đàn ông dìu vào. Một trong hai gã đàn ông có râu riu xồm xoàm lên tiếng: “Không sao, xỉn quá thôi!. Anh dìu chị ấy lên nhà giùm!” Đỗ gắng hỏi: “Cậu là ai?” “Em là Quang”. “Quang làm ở đâu?” “Không em hành nghề tự do. Em là em anh Quân, bạn chị Thủy thôi.” Xong hai gã
chào từ biệt quay lưng đi.
Đỗ kề vai
dìu Thủy sát vào người. Mùi rượu bia nồng
nặc. Nàng lảo đảo đi không
nổi. Chàng suy nghĩ giây lát rồi bế thốc nàng lên. Anh bộ đội ngày
xưa vẫn còn đủ sức lực ẵm nàng nhưng cũng may chỉ phải lên một tầng thôi.
Chàng đặt
Thuỷ lên giường. Nàng nôn
thốc nôn tháo. Đỗ vội lấy thau.
Chàng nhăn mặt. Mùi hèm
thực khó chịu. Dọn dẹp xong. Đổ lấy khăn ấm lau mặt cho Thủy. Bỗng nàng quờ tay
ôm cổ chàng, vít đầu chàng xuống, Đỗ cảm động không biết nói gì. Nàng thì thầm “Anh nhớ thay đồ cho em như hôm
ở Nha Trang nhen.” Xong, nàng buông mình
xuống giường, mắt nhắm nghiền, hai vành môi he hé. Nàng như mỉm cười, một nụ
cười tràn trề hoan lạc.
Tóc nồng mùi thuốc lá Maxlobor .
“Con hiện sinh” chìm sâu vào giấc ngủ. Ngoài kia trăng rất lạnh!
Nguyên Cẩn