Bốn đứa chúng tôi đang chụm đầu vào cái lu nước để coi hai con cá
lia thia đá nhau thì bà Tư đi tới và gọi:
- Mấy đứa bây tụm năm tụm ba làm gì đó?
Chúng tôi giật mình, quay đầu lại nhìn, thoáng qua, rồi lại tiếp tục
coi hai con cá dùng miệng cắn vào vây vào đuôi đối thủ. Thằng Tí Em, cháu nội của
bà Tư, nó chẳng thèm nhìn bà, đưa tay ra sau lưng và nói lớn:
- Tụi tui đang coi đá cá.
Có mua gì thì chờ tui coi hết trận này luôn đã.
- Tao không kêu bây. Tao
kêu thằng Nam. Nam, bây lại đây bà Tư nhờ
chút chuyện.
Ðang lúc gây cấn lại bị làm phiền, nên tôi giả vờ không nghe. Bà
Tư gọi lớn hơn:
- Nam!
- Dạ!
Bốn đứa chúng tôi, một lần nữa, cùng quay đầu lại nhìn bà Tư. Bà nói:
- Thằng Nam, qua đây bà Tư nhờ chút chuyện.
- Dạ, mà chuyện gì vậy bà Tư?
- Mày cứ đi theo tao qua bển rồi tao nói cho nghe.
Tôi đi theo sau bà Tư, dọc lối mòn nhỏ. Trong lòng không vui vì đang coi đá cá lại bị
bà Tư kêu. Ðây là lần đầu tôi đi lối này,
qua ngôi nhà lớn. Ngôi nhà ngói đỏ, tường
vôi xanh, viền vàng bên dưới. Ðây là
ngôi nhà to lớn và lộng lẫy nhất xóm chài.
Ngôi nhà nằm giữa khu vườn mênh mông cây trái, gió mát quanh năm thổi
lên từ con sông. Con sông Cóc bắt đầu từ
thượng nguồn núi Bạc băng qua quốc lộ rồi chảy ra biển. Tuy mấy đứa chúng tôi thường hay qua nhà anh
em thằng Tí chơi. Nhà của chúng nằm phía
sau ngôi nhà lớn, nhưng chúng tôi chẳng bao giờ đi theo lối mòn này. Mà chúng
tôi chỉ dám len lén đi bọc qua đám khoai mì bên hông nhà để đến. Ngôi
nhà lớn, nơi mà anh em thằng Tí cho là cấm địa, nên chẳng khi nào dám bén mảng tới. Khác với
ngôi nhà to lớn đồ sộ đằng trước, phía sau là nhà của gia đình Tí. Căn nhà
tranh rộng hơn hai mươi mét vuông. Ở giữa căn nhà là bộ bàn với hai băng gỗ
dài. Phía sau bộ bàn là cái tủ lớn để quần áo.
Bên phải có kê một cái giường tre thấp chỉ tới đầu gối của đám con nít
choi choi chúng tôi. Cái giường tre rộng lớn chiếm gần phân nửa căn nhà. Bên
trái che một bức màn may bằng vải thô màu trắng có điểm hoa đã ngả sang vàng đục, ám đầy bụi khói. Sau bức màn là cái giường
tre nhỏ hơn. Phía trước căn nhà không cửa.
Phía sau là cánh cửa nhỏ thông qua chái bếp bên dưới. Gia đình Tí có bốn anh em trai. Hai anh lớn của
Tí tên là Tôn và Tú hơn chúng tôi vài tuổi.
Còn thằng Tí Anh, Tí Em là hai anh em sinh đôi. Chúng tôi trạc tuổi nhau
chừng mười hai, mười ba.
Ở xóm chài này hầu hết mọi người đều làm nghề đánh cá. Số còn lại làm rẫy, trồng mía, trồng khoai và
hoa quả. Ðám con nít không đến trường,
có chăng chúng chỉ đi học vài ba năm để biết đọc biết viết vài chữ rồi ở nhà phụ
cha mẹ làm lụng. Buổi trưa, xóm vắng
hoe, chỉ có đám con nít chúng tôi thường hay tụ tập lại với nhau để coi đá cá,
đá dế, đánh trỏng, bắn bi, câu cá, bắt ốc...
Trong xóm này, chỉ có gia đình chúng tôi là khác. Mẹ tôi trước kia là cô giáo dạy học, nhưng
sau khi ba tôi bị bắt vì tội chống lại chính quyền, nên mẹ bị đày xuống làm
công việc quét dọn và nấu cơm ngày cho các thầy cô giáo trong xã. Ngoài ra mẹ làm thêm việc buôn gánh bán bưng,
nên anh em chúng tôi bị mẹ bắt đi học chứ không như tụi con nít trong xóm. Vì vậy, anh em chúng tôi là những đứa có học
nhất xóm chài này.
Ði đến trước hiên nhà lớn, bà Tư dừng lại và nói:
- Nam, bây ngồi ở đây chờ bà Tư chút xíu.
Nói xong, bà đi vào nhà.
Tôi ngồi xuống bậc tam cấp. Thềm
xi măng mát rượi, cảm giác thật dễ chịu.
Gió từ con sông thổi lên dìu dịu của buổi trưa hè. Tôi lim dim mắt và cảm giác như cơn buồn ngủ
đang tới. Ðang mơ màng thì bà Tư trở
ra. Trên tay bà cầm vài tờ giấy và cây
bút nguyên tử. Bà nhìn tôi rồi hỏi:
- Bây giúp bà Tư viết thư gửi cho thằng
Tèo.
- Dạ, nhưng con đâu có biết.
- Thì tao đọc cho bây viết.
Tao nói gì thì bây biên đó. Biên
xong, tao cho một ngàn ăn bánh.
- Dạ.
Bà Tư ngồi xuống bậc tam cấp, cạnh tôi, và bắt đầu đọc cho tôi viết. Sau gần một giờ đồng hồ viết, xóa, rồi lại viết,
cuối cùng thì lá thư cũng xong. Bà Tư bảo
tôi đọc lại lá thư cho bà nghe một lần nữa rồi nhờ tôi viết địa chỉ trên bìa để
gởi đi. Cầm lá thư trên tay, bà lật qua
lật lại rồi bỏ vào bên trong túi áo. Bà Tư
vạch lớp áo Bà Ba hoa màu ở ngoài, móc cái ví bên trong lớp áo thứ hai. Cái ví
nhỏ có cây kim tây được ghim từ bên trong.
Bà lấy hai tờ tiền năm trăm đưa cho tôi.
Bà Tư, nói:
- Nam, bây nghe bà Tư dặn nè.
Bà Tư cho bây một ngàn mua bánh ăn, nhớ đừng cho tụi thằng Tí biết là
tao nhờ bây viết thư cho chú Tèo nó nhe.
Tụi nó biết nói lại với thằng cha tụi nó ồn ào lắm.
- Dạ. Con cám ơn bà Tư.
- Ừa. Thôi bây đi chơi đi.
- Dạ, con chào bà Tư… Con đi.
Tôi cầm hai tờ tiền, gấp lại rồi bỏ vào túi. Ðây là lần đầu tiên trong đời tôi có được một
số tiền lớn như vậy. Sau khi bỏ tiền vào
túi, tôi vỗ vài cái và mỉm cười rời khỏi ngôi nhà lớn. Tôi thấy ngôi nhà lớn của bà Tư không còn
đáng sợ như những lời anh em thằng Tí nói.
Tôi trở ra phía sau nhà để tìm anh em Tí. Hai anh em thằng Tí và thằng
Lượm bỏ đi đâu mất không có ở phía sau căn nhà tranh. Tôi nhìn quanh vườn cây ăn trái vẫn không thấy
bọn chúng. Tôi đi vào nhà bếp, rồi lên nhà trên, vào buồng ngủ, nhưng không thấy
bọn chúng đâu. Tôi đi ra bờ sông. Ở đó tôi thấy ba đứa đang chơi thả ghe bằng vỏ
trái dừa khô. Tôi gọi lớn:
- Ê! Ba đứa mày ra đây hồi
nào, sao không đợi tao? Ờ mà hồi nãy con
nào thắng?
- Chờ mày lâu thấy bà cố. Tụi
tao ra đây chơi thả ghe nãy giờ.
Thằng Lượm trả lời tôi. Thằng
Tí Anh tiếp:
- Bà nội tao kêu mày làm gì vậy?
- Ờ... Ờ... Bả nhờ tao chút chuyện.
Tí Em hỏi tiếp:
- Mà chuyện gì? Bả nhờ mày
mua thuốc Jet cho bả hả?
- Ờ... Ờ….
Tôi không biết trả lời sao vì nhớ lời bà Tư dặn không cho tụi anh
em thằng Tí biết tôi viết thư giúp bà.
Tôi lấp lửng:
- Không, bả nhờ tao viết vài chữ trong giấy tờ...
- Tao nghi. Trong đám tụi
mình chỉ có mày là biết đọc biết viết, nên bả kêu mày là đúng rồi.
Thằng Lượm nói chen vào:
- Ðừng nói chuyện chữ nữa.
Chán lắm...
Thằng Tí Em tiếp:
- Mà nếu mà bả nhờ mua gì ngoài quán bà Hai thì bả kêu tao rồi. Còn bả kêu mày tao nghĩ chắc chuyện chữ nghĩa
y phóc.
Không muốn tụi nó hỏi, tôi sợ mình sẽ nói thật cho chúng biết, nên
giả lả sang chuyện khác:
- Mà hồi nãy con nào đá thắng?
Thằng Tí Anh trả lời:
- Con Thiên Ma cắn con Tể Tướng đến te tua, nhưng bất phân bại liệt. Con Tể Tướng ngáp ngáp gần chết, nên tao bắt
nó ra dưỡng thương trong cái lu bể.
- Bất phân thắng bại mày ơi...
- Thì bại liệt với thắng bại cũng là bại xụi thôi... Thằng Tí Anh
cãi bướng.
- Ờ... Uổng quá, tao không coi được.
Tí Anh nói tiếp:
- Hôm nào con Tể Tướng lấy lại sức tao cho nó đá. Mấy con cá lia thia này đá dai thiệt không
như cá Da Rắn hay Phi Tiễn, bảy màu.
- Ừa, mà nghĩ lại phải công nhận là mày đặt tên mấy con cá lia
thia hay thiệt. Mà tên đó mày lấy ở đâu
ra hay vậy Nam?
Thằng Lượm hỏi tôi.
- Thì tao coi trong sách.
- Trong sách cũng có tên nữa hả?
- Ừa sách có nhiều chuyện hay lắm.
Lần nào cũng vậy, khi nói đến chuyện sách vở là đám bạn trong xóm
đều chăm chú lắng nghe và khâm phục lắm. Những lúc rảnh rỗi, không việc gì để làm,
chúng nhờ tôi dạy cho chúng viết chữ.
Sau vài lần chỉ dạy, ba đứa nó cũng viết và đọc được vài chữ. Tâm đắc nhất là chúng có thể đọc và viết được
tên họ của mình để khoe với anh chị chúng.
Tôi chạy xuống bờ sông, xắn quần lên và cùng ba đứa nó chơi trò
chơi thả ghe. Chơi một hồi đói bụng,
chúng tôi trở vô nhà thằng Tí lấy khoai lang nướng ăn. Anh em Tí lựa những củ khoai nho nhỏ, tròn,
có vỏ trắng ngà bỏ vào bếp, đun dưới lớp tro.
Ðể cho chín đều, chúng bỏ một ít củi lửa lên trên. Ðợi củi tàn, chúng tôi khều khoai ra ăn. Củ khoai bùi, nóng hổi. Vừa thổi chúng tôi vừa ăn. Ăn hết mấy củ khoai lang lùi tro, chúng tôi
ra giếng múc nước uống, chia tay, rồi hẹn mai gặp lại.
Tôi theo thằng Lượm đi bọc ra phía hông nhà, cạnh bờ sông, đi về.
Ra đến bờ sông, chúng tôi thấy ông Tư đi rẫy về.
Thấy ông Tư bơi qua sông, thằng Lượm hối thúc tôi:
- Nam nhanh lên chứ ông Tư tới bờ ổng phang một guốc chừ.
Tôi nhớ lần đầu gặp ông Tư, ông cũng lội về từ bên kia bờ
sông. Một tay ông ôm quần áo và đôi dép
cao su đưa lên cao cho khỏi ướt, tay còn lại ông bơi. Lần đó, tôi tò mò, đứng lại coi. Khi qua đến bờ bên này, tôi thấy người ông trần
truồng như nhộng. Ông Tư cao và gầy nên chỗ
đó nó cứ đung đưa theo bước chân nhìn mắc cười và ngộ lắm. Ðến bờ, ông lắc người, nhảy lên nhảy xuống
cho nước rơi ra, điệu bộ như những con chó đang rũ bộ lông của nó. Rồi ông thủng thẳng mặc quần áo, mang dép cao
su, vào. Tôi đứng trân người nhìn mặc
cho thằng Lượm kéo lấy tay tôi về hướng cổng vườn.
Ðám con nít chúng tôi, kể cả anh em nhà thằng Tí, đều rất sợ ông
Tư. Mỗi lần chúng tôi thấy ông đi rẫy về,
là co chân chạy. Sau này tôi mới biết lý
do vì sao.
Nhà ông Tư có vườn trái cây rộng lớn chạy từ cuối xóm qua đến bên
kia bờ sông. Vườn trồng rất nhiều trái
cây như mận, mãng cầu, khế, sapochê, ổi, cóc, chùm ruột... Mùa nào cũng có trái
cây. Trái cây nhà ông trồng, to, ngon và
ngọt nhất làng nên chúng tôi thường hay hái trộm để ăn. Mỗi lần hái trộm, ông bắt gặp là ông dùng đôi
guốc gỗ đang mang để ném chúng tôi. Ðám
con nít đứa nào cũng sợ ông cả.
Ông bà Tư có bốn người con, hai trai hai gái. Người con cả là ông Toán, ba của Tí. Kế tiếp là Tèo, Tâm, và Bé. Chú Tèo và cô Tâm nghe thằng Tí nói đang ở Mỹ. Người mà bà Tư nhờ tôi viết thư. Còn cô Bé thì theo chồng trên thành phố. Cách vài tháng, cô Bé dắt con về thăm ông bà
và ở mấy tuần đến hơn tháng trong ngôi nhà lớn.
Mỗi lần cô đi về xe ô tô đến ngã ba đầu xóm đón rước mẹ con cô. Ông bà Tư thuê người gánh trái cây, khoai củ
ra tận xe cho cô mang về thành phố.
Riêng về ông Toán, ba của Tí, không biết vì lý do gì mà vợ chồng ông Tư
chẳng giúp đỡ cho người con trai trưởng của cải, vật chất như cô Bé. Căn nhà tranh của họ, chỉ cách vài bước chân
nhưng nhìn trống trơn. Có lần tôi thắc mắc
hỏi thằng Tí Em, nó nói:
- Bà Nội tao nói: “cháu quại thương dại thương dột còn cháu nội
không tội gì thương nên bả không thương tụi tao.” Bả nói mai mốt bả chết thì của đó cũng bị ba
tao lấy hết, nên bả không thèm cho.
Lúc mới biết anh em nhà thằng Tí, tôi tưởng đâu gia đình nó là người
làm công cho gia đình ông bà Tư. Ba má
Tí ít khi có mặt ở nhà. Họ lên núi Bạc
làm rẫy và đốt than.
Ðường từ nhà đến núi Bạc hơn năm giờ đồng hồ, nên họ ít khi về nhà
trừ khi những lần họ gánh than, trái cây về làng bán và đổi lấy gạo muối. Quanh năm chúng tôi ít khi nào gặp mặt họ.
Chỉ những khi bệnh sốt rét hoành hoành
họ mới ở nhà. Còn không họ ở miết trên rẫy, núi. Hai
anh lớn của thằng Tí thì đi về thường xuyên hơn. Tí Anh và Tí Em ở nhà tự chúng lo cơm nước nấu
nướng nuôi lấy thân.
Vợ chồng ông bà Tư là hai hình ảnh hoàn toàn trái ngược nhau. Ông Tư gầy gò, nhưng rất khoẻ. Một mình ông có thể vác cả con heo rừng đi một
mạch từ trên núi Bạc về. Nhà ông bà tuy
khá giả nhất làng, nhưng ông ăn uống rất cơ cực. Ông chỉ thích ăn cơm với muối mè và rau luộc
hái ngoài vườn. Áo quần ông mặc chỉ có
vài bộ đồ Bà Ba. Khi đi rẫy ông mang dép
cao su quai nón. Lúc ở nhà ông đổi qua
đôi guốc gỗ tự làm. Những lúc nghỉ ngơi,
ông uống trà tim sen và hút thuốc rê quấn bằng đọt chuối non mà ông tự phơi, ủ
sương. Trái ngược với ông, bà Tư có một
thân hình đẫy đà, phốp pháp. Ở nhà bà Tư
không làm việc gì, kể cả nấu cơm cho chồng.
Buổi sáng bà đi bộ ra đầu xóm ăn phở hoặc bánh mì bò kho, uống cà
phê sữa, mua vài điếu thuốc Jet. Sau đó
bà đi dò số và bàn đề cho đến trưa. Khi
nào tới mùa trái cây, bà thuê người đến hái hoặc bán khoán cho đầu nậu. Tiền bà bán trái cây, nông phẩm, bà tiêu vào
việc ăn chơi, lô đề. Dạo gần đây bà thua
số nhiều lắm, nên mới nhờ tôi viết thư gởi cho cậu con trai bên Mỹ để xin tiền
gởi về cho bà. Trong thư mà bà nhờ tôi
viết, bà kể về việc bệnh đau của ông Tư mà xin tiền con trai.
Từ hôm tôi giúp bà Tư viết thư gởi cho con trai bà đến nay cũng được
hơn một tháng. Kể từ lần viết thư đó, bà
Tư luôn coi tôi là báu vật. Mỗi lần vườn
trái cây nhà bà tới mùa, khi bà kêu người tới hái bán, bà cũng đều ghé lại nhà
tôi gọi tôi hái phụ. Sau khi hái xong,
bà trả thù lao cho tôi và còn cho tôi những quả ngon nhất. Những lần như vậy, hai anh em thằng Tí đều trố
mắt nhìn. Có lần tụi nó nói với tôi:
- Nam… Tao không biết mày bỏ bùa mê thuốc lú gì mà bà Nội tao
thương mày còn hơn tụi tao. Bả mà thấy tụi
tao là bả nguýt, bả ngoáy, ghê lắm. Còn
mày thì khác, không những cho tiền mày còn cho trái cây ngon nữa. Tụi tao cũng phụ bả hái thí mồ mà chỉ được có
năm trăm một đứa. Còn mày được cả ngàn.
- Ừa tao cũng không biết.
Chắc là bà Tư thấy tao biết viết chữ, nên thương.
- Chắc là vậy. Biết hồi đó
tụi tao cũng đi học như mày. Biết chữ để
khỏi bị bà nội tao khinh.
Nhờ viết thư cho bà Tư mà dạo này tôi có tiền ăn quà vặt. Cách vài ba tháng, bà Tư gọi tôi đến trước
hiên nhà để giúp bà viết thư gởi cho hai người con. Nội dung của những bức thư cũng na ná giống
nhau. Ðầu thư bà hỏi thăm sức khoẻ của
con cháu sau đó là than bệnh đau hoặc ông Tư bị vô nhà thương vì bệnh sốt rét cấp
tính cốt để xin tiền con gởi về lo thuốc thang cho cha già. Mỗi lần bà Tư nhận được tiền, bà đều thưởng
thêm cho tôi vài ngàn. Tôi dùng số tiền ấy mua bánh kẹo và truyện để đọc. Có hôm, tôi cầm mấy quyển truyện tranh ra
khoe và đọc truyện cho anh em nhà thằng Tí nghe. Tụi nó thích lắm.
Một buổi nọ chúng tôi đang chơi tạt lon thì thấy vài người quen
trong xóm đang khiêng gì đó vội vã đi về hướng chúng tôi. Ban đầu chúng tôi cứ tưởng ba của Tí bẫy được
heo rừng. Khi đoàn người đến gần, chúng
tôi mới thấy ông Tư nằm co ro trong cái võng ni lông xanh màu lá cây. Mặt ông bê bết những vết máu đen. Quần áo rách bươm. Chúng tôi bỏ trõng và cù xuống đất chạy theo
đám đông, vào nhà. Mọi người nhốn nháo cả lên. Thằng Tí Anh hỏi:
- Chú Ân, ông nội tui bị gì vậy chú?
- Ổng bị gấu chó tát... Bà nội mày đâu?
- Tui không biết. Chắc bả
đi lên chợ thị xã chưa dìa.
- Tụi bây chạy đi tìm bà nội dìa nhanh lên.
Thím Gái, một người hàng xóm, cạnh vườn nhà ông bà Tư, tặc lưỡi:
- Trời đất! Tội nghiệp ông
Tư quá. Ổng ra sao rồi anh Ân?
- Chết rồi chứ trăng sao chi nữa.
Gấu chó tấn công ở gần bờ suối Ràng, trên núi Bạc. Lúc tui tới thì thấy ổng nằm dài ở đó. Tui chạy qua rẫy thằng Tám kêu nó cùng nhau
chặt cây để cột khiêng ổng dìa.
- Mô Phật! Sao xui vậy
không biết.... Còn bà Tư đi đâu mà chưa dìa vậy nè trời...
Nghe chú Ân giục, bốn đứa chúng tôi chia nhau thành hai nhóm để
tìm bà Tư. Tôi với Tí Em một nhóm chạy
lên chợ thị xã. Còn Tí Anh và Lượm chạy
xuống bến cá để tìm bà Tư. Khi chúng tôi
chạy ra đến ngã ba đầu đường thì thấy bà Tư hớt hải, nước mắt đầm đìa, chân thấp
chân cao vừa đi vừa chạy về hướng chúng tôi.
Thấy bà, anh em thằng Tí hổn hển gọi:
- Bà... Nội... Ông... Nội...
- Ừa... Tao mới nghe thằng cu Cườm nói...
Chúng tôi chạy theo sau bà Tư về đến nhà. Tới trước hiên của ngôi nhà lớn, đám đông vây
kín. Tiếng khóc, tiếng thì thầm bàn tán
về cái chết của ông Tư vang dậy cả một khu vườn. Người hỏi gạo để nấu ba vắt cơm. Người chạy mua trứng về luộc cúng ông
Tư. Họ để ông Tư nằm trên chiếc chiếu
trước hiên nhà. Bà Tư ngồi bên ông Tư
khóc gào và dùng khăn lau những vết máu đã khô trên mặt ông. Chúng tôi ngơ ngác nhìn nhau vì sự việc xảy ra quá đột ngột, không biết làm gì...
Ðám tang của ông Tư đến ba ngày đêm, có rước rất nhiều sư thầy từ
chùa Áo Vàng trên quốc lộ về. Có cả đoàn
kèn đám ma thổi liên tục không ngừng, nghỉ.
Tiếng kèn ò e, tiếng khóc than tru tréo của bà Tư và cô Bé làm mọi người
nao lòng. Chỉ có ông Toán còn bình tĩnh
để lo đám tang cho cha.
Từ ngày ông Tư chết, tôi với thằng Lượm không dám ra nhà anh em thằng
Tí chơi. Tôi nghe người ta nói ông Tư chết
bất đắc kỳ tử nên ai phá là ổng hiện hồn về kéo chân. Sợ quá nên chúng tôi không dám ra vườn nhà
ông Tư.
Mấy tháng sau, tôi theo gia đình đi vượt biển. Sau này, qua bạn bè, tôi nghe nói bà Tư vì
đam mê số đề nên đã bán hết nhà cửa vườn tược rồi trốn đi Sài Gòn. Còn gia đình thằng Tí cũng bỏ xứ đi tuốt. Mọi người trong xóm không có ai biết được gia
đình bà Tư trôi giạt nơi đâu.