Nguyễn Âu Hồng
Tôi học được cách đọc văn xuôi như đọc ca dao từ nhà văn Sơn Nam. Đó
là cách ông đọc truyện dài Nhốt Gió của nhà văn Bình Nguyên Lộc… “Chúng tôi đọc
Nhốt Gió để tìm một vài phút lâng lâng… Muốn thưởng thức Nhốt Gió thì nên lật
ra, đọc một vài hàng, hoặc vài chục hàng để rồi xếp lại… Cứ đọc Nhốt Gió khi
nào mình thấy thiếu thốn một chút hương vị quen thân… Nó giống như ca dao, những
câu ca dao bằng văn xuôi” (Tạp chí Thời Tập, Sài Gòn - 10-10-1974).
Hơn một năm trở lại đây, tôi thường đọc Đinh Cường, Phạm Cao Hoàng để
tìm “một vài phút lâng lâng”, đọc Trần Huiền Ân, Trần Hoài Thư “khi nào mình thấy
thiếu thốn một chút hương vị quen thân” của Phú Yên-Khánh Hòa và Nha Trang. Gần
đây tôi thường đọc Nguyễn Minh Nữu. Với truyện ngắn “Con Trai Của Thủy Thần”,
Nguyễn Minh Nữu đã làm tôi mê đắm ngay từ lần đọc đầu tiên; sau đó cứ mở ra đọc
“một vài hàng, hoặc vài chục hàng để rồi xếp lại… Nó giống như ca dao, những
câu ca dao bằng văn xuôi”.
Những câu ca dao bằng văn xuôi đó là:
“…
Cô gái ngước mặt lên, khuôn mặt trắng hồng và đôi mắt to đen ngạc nhiên:
-
Ông là ai? Một mình là sao khi ruộng lúa này là ruộng lúa của quê hương tôi,
chung quanh còn có xóm giềng làng nước, trên dưới còn có đất trời, trái phải
còn có thánh thần hai bên.
-
Vậy ta… có thể làm gì giúp nàng hay không?
-
Có chứ, chàng có thể làm cho cái nhìn của em thân thiết hơn bằng cách bôi chút
sình lên mặt để giống con trai vùng Núi Cấm, có thể trộn màu quần áo tinh tươm
kia với nước phù sa để đồng điệu với dân quê.
-
Nếu ta làm theo ý nàng thì…
-
Chưa đâu, vì chàng đã biết em tên gì đâu…
-
Nàng tên gì…
-
Chèng ơi… hỏi tên người ta dễ dàng vậy sao, vậy chàng tên gì?
… Họ quen nhau như thế.
Bát Lang (con trai thứ tám của thủy thần) thành anh Tám mộc mạc sống bên người
vợ hiền là cô gái nghèo mồ côi làm nghề gặt lúa mướn bên Núi Cấm… Họ sống trong
yêu thương, quấn quýt bên nhau cho đến một ngày cô gái già yếu đi, bệnh hoạn và
từ trần. Bát Lang chôn cất nàng dưới chân Núi Cấm và cam tâm chịu sống hiu quạnh
một mình cho thương nhớ vô vàn người phối ngẫu”.
Với đoạn văn vừa dẫn, hàng chữ nào cũng
đáng để đọc đi đọc lại như đọc ca dao, nhưng quan trọng nhất là câu nói của cô
gái: “Một mình là sao khi ruộng lúa này
là ruộng lúa của quê hương tôi, chung quanh còn có xóm giềng làng nước, trên dưới
còn có đất trời, trái phải còn có thánh thần hai bên”.
Đây không phải là một câu nói bình thường mà là một câu dân ca, một điệu
hò của miền sông nước đồng bằng sông Cửu Long được viết bằng văn xuôi. Đây là bản
hòa âm tuyệt vời về mối giao cảm giữa con người với mảnh đất mà họ đang sống.
Đây là chất keo thiêng liêng gắn bó con người với quê hương, bản quán. Phải thấm
đẫm tình tự dân tộc đến từng chân tơ kẽ tóc, phải yêu mảnh đất quê hương tha
thiết đến từng tế bào, phải thừa hưởng được sự thông tuệ của cả một nền văn hiến,
nhà văn mới có cơ duyên viết được một câu văn như thế.
Và đây là lời Bát Lang thưa với cha (Thủy Thần):
“… Con yêu em Lành không vì nhan sắc, không vì
dục vọng, không vì những lời nói phù phiếm bên nhau, mà vì tự trong tâm hồn của
con và tâm hồn của em Lành là những phối nhịp dịu dàng của một hòa âm. Ở bên em
Lành con được sống trong hoan lạc và an bình. Em Lành chết đi, nhưng cạnh mộ của
em, vẫn là những an ủi sâu lắng, là những tình cảm thiết tha không ngừng trao đổi
với nhau”.
Đoạn trước tác giả có viết: “Bát Lang chôn cất nàng dưới chân Núi Cấm
và cam tâm chịu sống hiu quạnh một mình cho thương nhớ vô vàn người phối ngẫu”.
Người đọc hiểu được tình cảm này của con người. Lác đác đây đó trong cuộc sống
đời thường, ta vẫn gặp những người một mực thủy chung với nghĩa đá vàng như vậy.
Nhưng “cam chịu sống hiu quạnh” bên cạnh mộ của người phối ngẫu mà “vẫn là những
an ủi sâu lắng, là những tình cảm thiết tha không ngừng trao đổi với nhau” thì
đã vượt ra ngoài tình cảm thông thường của con người bình thường. Có thể tạm lý
giải - ông Tám Rắn vốn là con trai của thủy thần, là Bát Lang. Nhưng đó là tình
cảm, đúng hơn phải gọi là cảm ứng, của con người xuất thân là thần, mà tác giả
là người trần mắt thịt, làm sao biết được? Nhưng lạ lùng ở chỗ đọc lên thấy
khác thường mà không thấy chõi, mà vẫn muốn cùng tác giả khám phá một miền tâm
thức mới lạ của những cảm ứng siêu nhiên! Biết đâu có sự mầu nhiệm khiến một
người trần tục có được linh giác! Biết đâu cái tâm vô lượng của nhà văn đã làm
cảm động hồn thiêng của chín con sông, bảy ngọn núi khiến hiển linh lên ngòi
bút mà hiển thị thành chữ, thành câu văn!
Giới thiệu truyện ngắn Con Trai Của Thủy Thần trên Blog của mình, Phạm
Cao Hoàng viết: “Dựa vào truyền thuyết dân gian về nguồn gốc sông Cửu Long và
phong cảnh thiên nhiên ở vùng núi Thất Sơn (An Giang), Nguyễn Minh Nữu viết
truyện Con Trai Của Thủy Thần. Truyện ca ngợi tình yêu, lòng chung thủy, và đạo
làm người”.
Lời giới thiệu thật ngắn gọn, súc tích. Đúng mạch, đúng nguồn. Đúng cốt
lõi.
Tôi phát hiện ra văn tâm của Nguyễn Minh Nữu từ niềm tin của tác giả
vào lòng người, bất chấp vật đổi sao dời, bất chấp mọi thể chế… “Tình yêu, lòng
chung thủy, và đạo làm người” vẫn luôn được tác giả ca ngợi.
Tôi không đặt mình vào sự
hiển linh của Tản Viên Sơn Thánh hay của Liễu Hạnh Công Chúa hay của một vị thần
nào khác. Bởi vì tôi hiểu rằng sự hiển linh của một vị nào đó bất kỳ đều là kết
tinh của một niềm tin rộng lớn nhưng thầm kín của cả một thế hệ, của cả một dân
tộc.
Anh TRẦN SĨ HUỆ trích lời người
xưa cho rằng “trí huệ nhân sĩ có được là nhờ ân sủng mầu nhiệm”. Với văn tâm
nhân hậu, NGUYỄN MINH NỮU đã tiếp nhận nguồn ân sủng mầu nhiệm đó và đã rộng lượng
truyền hết cho người đọc. Cái văn tâm được nuôi dưỡng, rèn đúc rồi ra sẽ hiển
linh thành văn tài, nào ai ngờ được, nào ai đoán được.
June 3-2013