HỒN QUÊ ĐẤT QUẢNG
Đã nhiều lần, tôi có ý
định viết chút ít về thi sĩ Hoàng Lộc.
Sở dĩ tôi dùng chữ “chút
ít” vì đã có quá nhiều người viết về
ông, nhận định về thơ
ông. Tôi sợ thừa thải hoặc mang tiếng
“phủ binh phủ, huyện
binh huyện” hoặc có kẻ cho là “áo thụng
vái nhau”.
Tôi đã bị cái mặc cảm
nầy ám ảnh bấy lâu, dẫu biết tôi và ông cùng là quê Quảng Nam, nhất là khi nhắc
tới nhữngngười tôi quen biết hay có chút thâm tình từ thời niên thiếu, như
Nguyễn Nho Sa Mạc, Đynh Trầm Ca, cùng đơn vị như Thái Tú Hạp, quan hệ gia đình
như Thành Tôn hoặc xa hơn như Luân Hoán v. v…Đây cũng là lý do khiến tôi chần
chừ, e ngại…
Mới đây thôi, vào đầu
tháng 2/2021 tôi đọc trên Facebook có hai
câu thơ của Hoàng Lộc
làm tôi bàng hoàng:
Em khoe được một nhà thơ
Cái đồ yêu nớ bây giờ
hút chi
"Cái đồ yêu nớ và
hút chi" mà dân Quảng Nam thường dùng có nghĩa là con người hay vật dụng
nào đó, không có gì quan trọng, bình thường thôi và chữ hút chi, ý nói rất
nhiều, không thiếu, ở đâu cũng có. Chữ hút chi cũng đồng nghĩa như hiếm chi, khối
chi, trấu chi, thiếu chi…Tất cả đều chỉ số nhiều, quả thật tiếng Việt rất đa
dang và phong phú…
Mấy chữ nầy, nghe ra
bình dân, giản dị, nhưng đem vào thơ là cực kỳ trí tuệ, phải điêu luyện, chỉ
những cao thủ thượng thừa mới dám sử dụng và tạo cho chữ nghĩa một cái hồn- mê
hoặc lòng người…
Hoàng Lộc đã làm được
điều nầy và chỉ với hai câu lục bát trên, ta đã cảm nhận được cái hồn quê đất
mẹ của ông luôn gắn bó, thủy chung…
Thú thật, với tôi, hai
câu nầy rất hay, một sự so sánh giữa đời thường, trong cõi nhân gian, nhưng lại
đầy lý sự uyên bác…
Tự nhiên tâm hồn tôi lại
bảo hòa, cộng hưởng vào cái “chất keo” nhiệm mầu nầy từ đất Quảng, cái giọng
Quảng Nam đâu phải (ăn cục nói hòn) như người ta lầm tưởng mà chất chứa trong
ấy vô vàn tinh hoa của đất mẹ và chỉ có người Quảng Nam mới hiều thấu đáo cái
hào sảng, cái độc đáo, cái cựu tình chân lý, cái phong cách và cái trọn vẹn, dở
hơi của thói đời…
Trở lại với Hoàng Lộc,
từ hai câu thơ trên tôi lại liên tưởng tới tập thơ “Cho Dẫu Phù Vân” mà ông đã
ký tặng tôi gần mười năm trước (7-2012).
Trong bài “ Chổng mông
trông người” có một đoạn như sau:
Quần thủng đít ngó trời,
trán vùi xuống gối
Mẹ phá lên cười thấy anh
nằm chổng mông
Bảo: chỉ mình mi mẹ còn
nuôi chưa nổi
Em út làm gì- đừng con,
đừng trông !
Con một, nhà nghèo- anh
quá cô đơn
Quá lắm thứ cần tới
người chia sẻ
Cứ nằm chổng mông từng
khi vắng mẹ
Nhưng chổng kiểu nào, mẹ
cũng chẳng sinh thêm…
Cái trò (trông em nầy)
mấy bà mẹ đã có con nhiều thì sợ lắm. Ai sinh ra tại Quảng Nam chắc chắn sẽ
hiểu điều nầy, nhất là giai đoạn chiến tranh.
Lại nữa, trong bài “
Thiên thu lảo đảo” cũng có câu:
Đau cái bụng cái đầu
thôi đã mệt
Huống chi đau tới cả một
tấm lòng
Em chẳng biết, cơ hồ em
chẳng biết
Nổi sầu tình mỗi bữa cứ
sầu hung?
Cái "hung" ở
đây hàm ý là nhiều lắm, đầy ắp, không phải là hung dữ như có lúc ông muốn đốt
luôn nhà của người tình như ở một câu thơ khác trong tập.
Cũng cái giọng Quảng Nam
đặc sệt như trong bài “ Nhớ Đynh Trầm Ca” có mấy chữ mà tôi thích nhất, đó là “
tán trớt cha”.
Khổ thơ năm chữ như sau:
“ Có cô bé khuynh quốc
Học trò cưng của ta
Nuôi mới vừa nhón gót
Ông đành tán trớt cha”
Chữ “tán trớt cha” bao
gồm hai ý, một: tán có nghĩa là ve vãn, chọc ghẹo. Cũng có khi người ta dùng
chữ gò ( gò gẫm, tán tính).
Trớt cha: có thể hiểu là
phổng tay trên, đi trước một bước, (qua mặt không bóp còi) …
Những chữ ( đồ yêu ấy –
hút chi - chổng mông – sầu hung – tán trớt cha ) và không biết bao nhiêu cái
giọng Quảng Nam chất phát mà ông đã đưa vào thi ca như chùm hum, nói phỉnh,
chướng…một cách tài tình, có duyên, hóm hỉnh nhưng vô cùng phong phú..
Ngày xưa, khi tôi còn
nhỏ, lúc có lỗi lầm gì thì cha tôi hay dọa: Tau cú (gõ) cho một cái, hoặc mẹ
tôi mắng: lớn ngồng rồi mà còn mắc tịt (mắc cỡ).
Ôi, cái chất keo Quảng
Nam sao mà nó keo sơn quá vậy, nó gần gũi, thâm tình biết chừng nào, chỉ có
người Quảng Nam mới cảm nhận được cái miên man bất tận trong ngôn ngữ bao la
nhưng gần gũi của xứ sở “chưa mưa đà thấm”…
Đọc lại những bài thơ
của Hoàng Lộc, chúng ta không ngạc nhiên tìm thấy một trời tình réo gọi, từ
bằng hữu, tình nhân, tình người, tình quê…và gần như cái chất keo Quảng Nam
luôn bám theo ông.
Điểm nầy, cũng có một số
nhà thơ gốc Quảng Nam, như ông Luân Hoán, Uyên Hà, Hoàng Thi Bích Ni, Thành
Tôn… cũng đã thành công trong việc sử dụng tiếng mẹ đẻ từ nơi chôn nhau cắt rốn
của mình. Nhưng có lẽ nhà thơ Hoàng Lộc là người tiêu biểu nhất.
Tôi hoàn toàn không có
tham vọng bình, giải, chữ, nghĩa bề bề, như sợi tóc chẻ làm đôi như những nhà
nghiên cứu hay ngôn ngữ học, điều nầy phải nhờ ông Nguyễn Hưng Quốc ở tận bên
Úc thì mới chắc ăn.
Chữ nghĩa trong thơ
Hoàng Lộc có khi đầy triết lý, uyên bác nhưng lai gần gủi đời thường, cận kề,
thiết bách trong cõi nhân sinh, như những mạch nước ngầm nuôi sống, điểm tô cho
dòng thơ của ông thêm sắc màu quê mẹ…
Với trên dưới mấy ngàn
bài thơ mà ông đã sáng tác, vẫn lãng đãng sương khói quê nhà, thấp thoáng bóng
tình trên những dặm hồng quá khứ, bùi ngùi trước mỗi cuộc chia ly, có khi là
một sự tổng hòa trong cái nghịch lý bát ngát đẫm tình như những câu trong bài
Mùa Khô:
Không thể rồi em, đời
cạn kiệt.
Không còn những thứ để
nuôi nhau.
Để nuôi ta- nuôi tình
một thuở.
Để xanh em khi ta bạc
đầu
Nắng rát mặt mùa- đất đã
nứt.
Cây ta duỗi thẳng những
cành trơ
Cả những mạch ngầm- nước
cũng tắt.
Chỉ mắt em còn mấy giọt
khô…
Trên đây chỉ là ngẫu
hứng, khi bất chợt, chỉ đọc hai câu thơ lục bát của Hoàng Lộc mà viết đôi điều
về ông, không biết tác giả có phiền hà chi không, còn việc đi sâu vào những thi
tập khác của nhà thơ Hoàng Lộc, xin nhường lại cho những bậc thức giả hay các
nhà phê bình nhận xét…
Nói cho cùng, gần ba
mươi năm xa xứ, Hoàng Lộc vẫn mang theo cái chất keo quê mẹ, da diết tình
người, tình quê, nhưng lại độc đáo, chịu chơi… trong cái biển dâu chìm nổi nòi
tình…và sẽ mãi mãi cận kề, thủy chung, ăn nằm với ông trong hồn thơ cho đến
cuối đời…
XUYÊN TRÀ