(Đọc lại để nhớ 5 năm, ngày này, nhà thơ Nguyễn
Dương Quang đi xa)
Thế gian chết hết chỉ còn đêm
Và một mình ta với cây đàn
Rượu lẫn sương trào lăn chiếu đá
Trăng mờ nghiêng ngả phía đầu non
(“Đêm Cam Ly ôm đàn uống rượu một mình”, Nguyễn
Dương Quang)
1. Và một mình ta với cây đàn
Tôi đã nhớ mãi câu thơ hào sảng đậm chất nghệ sĩ mà
cô đơn tận cùng của tác giả Nguyễn Dương Quang ngay khi nhà thơ gửi tặng tập
thơ cùng tên này lần thứ hai gặp lại, ở toà soạn Quán Văn năm năm trước. Hôm
ấy, anh từ Đà Lạt xuống, sửa bản in cho tập văn thơ nhiều tác giả viết về Dran:
Tự tình cùng sương khói. Câu thơ mang tính ngoa dụ mở đầu “Thế gian chết hết
chỉ còn đêm” và loạt hình ảnh ấn tượng “một mình ta với cây đàn”, “rượu lẫn
sương trào lăn chiếu đá” nghiêng ngả cùng đêm dưới sương trăng mờ đầu non cứ ám
ảnh tôi, cuốn hút tôi vào thế giới nghệ thuật của cây bút miền sương khói này.
Bài thơ thất ngôn 5 khổ, vần gián cách khá chỉnh gợi lên một không gian tâm
trạng có gì uất ức dồn nén mà ngạo nghễ, tuôn tràn. Người thơ chỉ có rượu lẫn
sương trong tiếng đàn run rẩy độc hành chếnh choáng não nề bi phẫn “ngồi nghêu
ngao vỗ miết cây đàn”:
a ha! đời ta thanh gươm cùn
về đâu… về đâu… đâu hồng nhan?
“Thanh gươm” trong quan niệm truyền thống Đông, Tây
vốn là vũ khí quyết định, là biểu trưng của sức mạnh, của quyền lực. Nhưng ở
đây lại là một “thanh gươm cùn”… Nghĩa là trước khi ở trạng thái cùn lụt vô
dụng vứt đi này nó đã từng vung lên sáng loáng mạnh mẽ kiêu hùng… Những đêm xưa
Đặng Dung, đêm xưa Đường Minh Hoàng cổ kính kiêu bạt giờ đây “rượu nhạt trăng
tàn ta hóa đá” nghe chua chát dồn nén đến tột cùng cảm xúc mất mát đổ vỡ, tan
hoang:
ai hát cùng ta rừng chất ngất?
những vọng âm từ cõi thiên thu
trời với đất, ta và cây cỏ
còn hay tan? bờ bãi sương mù
Về đâu? Về đâu? Ai? Ta? Còn? Tan? Quá nhiều dấu hỏi
cho 6 dòng thơ này. Hình như chỉ có đêm biết dù đêm ‘không nói”, ta – “con
người: giọt sương trắng chờ tan”. Lớp lớp hình ảnh thiên nhiên cây cỏ đến vũ
trụ trăng sương câm nín dồn dập xuất hiện trong các khổ thơ bỗng làm bật lên
“mình ta”, “đời ta” nhỏ nhoi biết bao, vùng vẫy biết bao, ngậm ngùi đau xót
biết là bao…
Bài thơ viết năm 1978. Nghĩa là sau thời gian nhà
thơ đi cải tạo 2 năm…
Vâng. Thế gian chết hết chỉ còn đêm...
Ám ảnh cô đơn còn bàng bạc khắp các dòng thơ của
Nguyễn Dương Quang dù bề ngoài bao giờ mọi người cũng bắt gặp hình ảnh một
người bạn, một người anh đôn hậu, chu đáo, ân cần, phóng khoáng, nhiều bạn bè
văn chương, chiến hữu…
Thơ Nguyễn Dương Quang dày đặc đêm đen cả những sáng
tác ít ỏi trước 1975 lẫn sau này. Tần suất những từ “đêm”, “đêm mưa” liên tiếp
xuất hiện từ cách đặt tên bài thơ đến từ ngữ, hình ảnh trong bài. Ngẫu nhiên
hay hữu ý, đêm chuyên chở biết bao nỗi niềm chưa nói thành lời; đêm đồng loã sẻ
chia; đêm tri kỷ ân tình; đêm phóng sinh khổ luỵ; đêm lang thang trần ai… Thơ
anh là cả nỗi cô đơn có thể đúc thành khối, thành tảng, thành đêm, thành sương,
thành rượu, thành hoa…Thế giới của anh cô quạnh quá, người thơ chỉ có thể, và
cũng chỉ còn có thiên nhiên, mây gió, cỏ hoa. Nhưng thế giới của anh cũng giàu
có, phóng khoáng, hào sảng diệu kỳ, cả nàng trăng cũng được anh vời xuống “đất
bỏ trời buông” giãi bày bầu bạn…
Nàng trăng đẹp quá lại gần đây
Đất bỏ trời buông nhé! Đêm nay
Thế gian biết có còn ai thức?
Hồn ta sâu vắng quá trăng ơi.
(Đêm ôm đàn uống rượu một mình, NDQ)
Nhà văn Vũ Thành Sơn lần đầu gặp gỡ và đọc ngẫu
nhiên mấy bài của Nguyễn Dương Quang trong tập 3 tác giả Rằng từ ngẫu nhĩ (Nxb.
HNV, 2019) - in chung cùng Cao Thoại Châu và Trần Minh Hưởng - đã tinh ý nhận
ra ngay: “Quả thật Nguyễn Dương Quang cô đơn quá. “anh cô đơn, biển cô đơn kinh
khiếp” (Biển trong ký ức kẻ du cư). Cái cô đơn đến như vậy thì thật kinh khiếp.
Cô đơn như một định mệnh ” (Quán Văn 70, tr.95). Ngược lên ít dòng, nói về ngôn
ngữ, cấu trúc, hình ảnh thơ, Vũ Thành Sơn nhận định thơ Nguyễn Dương Quang “Đến
những năm sau chiến tranh có những thay đổi về ý tưởng, giọng điệu, ngôn ngữ,
hình ảnh. Sự chắt lọc, tinh gọn đến mức gần như tối giản trong câu thơ mang
phong vị cổ điển” bởi theo ông “Những cấu trúc cô đọng như trên có nhiều trong
những bài thơ về nỗi cô đơn thân phận, ắt hẳn bởi vì một lẽ: chỉ có cô đơn mới
cần đến cái sắc lẹm mới thấu hết cái vết cắt sâu hoắm ấy ở trong hồn” (Quán Văn
70, tr.94-95).
Cái nỗi cô đơn mang mang thiên cổ về kiếp người ấy
còn bàng hoàng nỗi đau thời thế, ngậm ngùi nỗi quê hương đất nước buổi lòng
người ly tán, nghiệt ngã. Kín đáo ngậm ngùi mà xót xa thân phận “thanh gươm
cùn” trong dâu bể đảo điên. Thôi thì đành vậy. Thôi thì “ngồi nghêu ngao vỗ
miết cây đàn”. Thôi thì “rượu làng sàng chôn chửa ngàn năm”…
Tôi đã đọc và ám ảnh biết bao hình thức một bài thơ
nhỏ của Nguyễn Dương Quang mà thi tứ lẫn lời mỗi lần đọc tôi lại liên tưởng bài
thơ của Edgar Poe, người thi sĩ tâm hồn song sinh đồng điệu với Charles
Baudelaire từng được Bùi Giáng dành cho danh hiệu “thập nhứt bán thánh siêu ma
việt thánh Poe” (Sương Bình Nguyên, Võ Tánh xuất bản, lời tựa). Trong bài thơ
ngắn 11 dòng viết từ năm 20 tuổi: Alone, Poe thố lộ:
Từ suối nguồn đơn điệu nào không rõ
Nỗi buồn tôi thức dậy tự bao giờ
Trong tất cả những gì tôi yêu mến
Tôi yêu nỗi cô đơn!
(Nguyên tác:
From the same source I have not taken
My sorrow—I could not awaken
My heart to joy at the same tone
And all I lov’d—I lov’d alone)
Đó là bài thơ Một loài hoa của Nguyễn Dương Quang
được viết năm 2000. Vỏn vẹn chỉ có 6 dòng, ba dòng cuối lại chỉ có một từ Cô
Đơn được lặp lại hoàn toàn ba lần ngân lên như một điệp khúc khắc tạc vào núi
rừng vạn cổ, được viết hoa như một danh từ riêng, thành tên gọi của một loài
hoa đã có từ cõi nhiên nhiên nào đó. Cô Đơn đã trở thành một nhân vật. Cô Đơn
hay tiếng lòng thê thiết tự lên tiếng thầm thì… Edgar Poe không biết nỗi cô đơn
của mình đến tự suối nguồn nào, Nguyễn Dương Quang cũng ngợi ca Cô Đơn, không
giải thích được vì sao, đành nói theo kiểu xa xưa, gán cho nỗi buồn là bạn của
người thơ-kẻ mộng du từ vạn cổ:
Người thơ, như đã từ vạn cổ
Làm kẻ mộng du, bạn với nỗi buồn
Em ạ! Có một loài hoa rất đẹp
Là Cô Đơn…
Cô Đơn…
Cô Đơn…
(Đêm ôm đàn uống rượu một mình, tr.90)
Nỗi Cô Đơn. Loài hoa rất đẹp của anh. Cái “biển cô
đơn bao la kinh khiếp” của anh, giờ đây đã trọn vẹn cùng anh đến tận nấm mồ khi
anh một mình đi vào con đường miên viễn của riêng anh...
2. Hình như cây súng con lạ lắm
Làm thơ từ rất sớm, 1969, Nguyễn Dương Quang còn là
người lính làm thơ, không cầu kỳ làm dáng mà chỉ cốt trải lòng mình với chính
mình. “Thơ đến với Nguyễn Dương Quang như hơi thở. Mà tự nó đã nói lên được cái
tâm thiện của người lính trận” (Phạm Văn Nhàn, Quán Văn 70, tr.83). Nguyễn
Dương Quang cũng không tự nhận mình là nhà thơ bao giờ. Rất chân thành, anh tâm
sự với bạn đọc: “Trước 75, tôi làm thơ rất ít, thường chỉ ghép tặng hay đọc cho
bạn bè nghe trong những giờ rảnh rỗi của đời lính, ai gọi là “nhà thơ” thì
thường thấy hổ thẹn, không dám nhận. Thấy thơ mình “đơn giản quá”, nhẹ quá”,
tôi không dám gửi cho báo nào cả. Tuy nhiên có một trường hợp đặc biệt: Bài thơ
Đêm kích dưới chân đồi Pá được đăng trong Khởi hành số 29 (?) (Quán Văn 70,
tr.62). Bài này do bạn bè gửi đăng và cũng là bài thơ duy nhất của Nguyễn Dương
Quang được đăng báo. Một kỷ niệm mà cuối đời, tác giả vẫn còn nhớ lại trong Nửa
đêm chợt chớ bài thơ cũ- tản văn thứ hai trong 2 bài tản văn trong đời của ông
với tất cả niềm tri ân bạn bè yêu mến. Bao nhiêu năm chỉ chôn chặt trong lòng,
nhưng luôn đau đáu nhớ về... Ít nhất tôi đã dăm ba lần nghe anh kể về lịch sử
ấy trong hoài niệm.... Khoảng 2018, bất ngờ chúng tôi đọc được bài tản văn này
và gần đây hơn, là bài Nhớ, câu chuyện về chính lịch sử đôi miền chia cắt- đoàn
tụ-yêu thương của gia đình anh như biết bao gia đình Việt Nam thời ngày Nam đêm
Bắc và ngược lại ¼ thế kỷ đọa đày. Viết lần đầu cũng là lần cuối…Rồi anh đi. Đi
xa...
Có lẽ vì thế, năm 2006, khi viết lời giới thiệu cho
cuốn sưu tập đồ sộ 854 trang, 263 tác giả Thơ Miền Nam trong thời chiến, nhà
phê bình văn học Đặng Tiến đã thích thú khi đọc Đêm cuối năm viết cho má của
Nguyễn Dương Quang và trích hai khổ thơ làm ông xúc động bất ngờ. Chỉ đọc thơ
thôi, chưa một lần gặp gỡ, cũng chưa hề trao đổi trò chuyện trực tiếp hay gián
tiếp (như khi gọi điện từ Orleans về Phan Thiết để hỏi Nguyễn Bắc Sơn một chi
tiết trong bài Thảo khấu), vậy mà “con mắt xanh” của nhà phê bình đã cảm được
cả hồn thơ, điệu thơ Nguyễn Dương Quang qua nhận xét rất gọn mà rất sâu: “Tác
giả ít được biết đến, nhưng bài thơ hay quá, chất trí tuệ quyện vào tâm huyết,
hồn nhiên mà điêu luyện. Tình cảm chìm chìm mà ý tứ lâng lâng. Trong sáng, sao
mà u uất? Thơ đích thực là điều đơn giản kỳ diệu “có nói cũng không cùng” (Thơ
Miền Nam trong thời chiến, xii-xiii). Tiếc là nhiều lần sau này, biết nhà phê
bình có dịp về nước, Nguyễn Dương Quang có nhờ tôi chuyển lời mời..., song cho
đến bây giờ, muộn màng..., nhà thơ và nhà phê bình mãi mãi đã không còn cơ hội
gặp mặt nhau...
Chiến tranh là chuyện của bom đạn, chết chóc, của
hận thù. Song thật lạ, những bài thơ trong Thơ thời chiến miền Nam đầy chết
chóc đấy, mưa rừng suối dữ đấy, mà cũng ngang tàng hào sảng, có cái gì ấm áp
trong veo đến lạ... Chất Người thật nhất quán và xúc động. Khát vọng hoà bình
và diễn ngôn kháng cự cái chết, kháng cự chiến tranh gần như là chủ đề trung
tâm xuyên suốt. Không ngoài mẫu số chung ấy, trong Đêm kích dưới chân đồi Pá,
viết năm 25 tuổi, Nguyễn Dương Quang tha thiết tưởng tượng, hy vọng:
Cỏ biết không, ta không lòng thù hận
lũ chúng ta một thuở thế thôi
ngày mai cỏ sẽ thành đồng lúa
cỏ sẽ thấy người nắm tay người
(…)
Lúa có nghĩ ngày mai sẽ khác
Súng sẽ dùng để đúc lưỡi cày
(Đêm ôm đàn uống rượu một mình, tr.18-9)
“Người khâu di sản”- Trần Hoài Thư đã chọn 2 khổ thơ
của Nguyễn Dương Quang trong bài thơ này để mở đầu và hình ảnh cây súng – biểu
tượng của chiến tranh trong Đêm cuối năm viết cho má để nói về “Tính nhân bản
trong thơ văn miền Nam thời chiến” (Tản mạn văn chương 1, Thư Ấn Quán). Sự chọn
lựa này hẳn là một khẳng định cho chủ đề loạt bài của ông, cũng là sự nhìn nhận
giá trị một mảng thi ca của Nguyễn Dương Quang.
Và dù bài thơ ra đời đã 51 năm qua rồi, hoàn cảnh
đọc hôm nay cũng khác, nhưng sao tôi vẫn rưng rưng xúc động mỗi lần đọc lại bài
thơ hay nhất, được nhắc đến nhiều nhất của Nguyễn Dương Quang: Đêm cuối năm
viết cho má.
Đêm nay con ngồi một nơi rất xa má
đếm tuổi con bằng nước mắt má đong
trong đêm thoảng giọng hiền má gọi
con vừa nghe, muốn khóc, rất bâng khuâng
(Đêm ôm đàn uống rượu một mình, tr.10)
Không một kỹ thuật cầu kỳ, bài thơ đi ngay vào cõi
nước mắt nhất của con người: Má. Những câu thơ bình dị xúc động mà vừa đọc đã
chạm vào điều nhức nhối băn khoăn như khi tôi đọc Chiều trên phá Tam Giang, Anh
hùng tận, Qua sông... của Tô Thùy Yên, như Chiến tranh Việt Nam và tôi của
Nguyễn Bắc Sơn, thơ Lữ Quỳnh, Phan X uân Sinh, Đoàn Văn Khánh..., hay Đường
kiến và nhiều truyện ngắn khác của Kinh Dương Vương... mà tôi có dịp đọc. Có
một mẫu số chung khó ai có thể phủ nhận: Tôi không thấy hận thù. Tôi không thấy
sự khát máu quyết tiêu diệt nhau. Chỉ có tâm hồn đầy yêu thương của những con
người với những con người cho dù mỗi người một biên giới. Và khát khao một
“ngày nao súng phải lạnh lùng, ngày nao súng phải thẹn thùng” (ca khúc Đa tạ,
Anh Việt Thu). Người lính trong thơ Nguyễn Dương Quang trước phút “đạn lên
nòng" với kẻ đối địch, phải tước đi một mạng sống đã tự vấn, trăn trở, đau
xót bao lần...
Hình như cây súng con lạ lắm
sao nó run lên khi đạn lên nòng
tâm hồn nó như tâm hồn con vậy
một kẻ nằm, kẻ đứng, xót xa không?
Cây súng con lạ, hay lòng con lạ...
Nhắm vào đối phương - những người dân Việt bên kia
chiến tuyến mà cuộc chiến đã đẩy họ thành những kẻ đối đầu, nhưng sao lòng con
cứ chùng xuống xót xa...
Con còn có ít giờ hưu chiến,
biết đâu chừng, thôi, nghĩ làm chi
Nghĩa là rồi ít giờ sau nữa đó, con băng mình vào
lửa đạn vô tình... Ôi cái ranh giới mong manh… Chết. Sống. "biết đâu
chừng..." Đúng vậy, làm sao biết định mệnh nào, số phận nào đang chờ đợi
người lính giữa chiến trường. Và anh chọn cách của mình: "Thôi. Nghĩ làm
chi". Thế nhưng, anh lại không muốn gieo bất hạnh cho đối phuơng... Tâm
thức của "con" vẫn hướng về đồng loại dù biết rất rõ rằng tất cả chỉ
là "phù vân". Tâm thế của người bên này khi nói về người bên kia
chiến tuyến sao cứ ngập những thương cảm lạ lùng, như thương chính phận mình...
Ừ, mà có phải ai xa lạ, anh mình, em mình, bà con ruột rà mình máu đỏ da vàng
một mẹ Âu Cơ đó thôi...
Trong nhiều bài thơ khác của anh viết trong những
phút đối mặt lẽ sống chết, từ "đồng loại" hết sức nhân bản này không
phải một lần xuất hiện, mà lần xuất hiện nào cũng đau đáu xót xa, thậm chí còn
thường trực thành tâm:
Lúc nào ta cũng nghĩ một ngày
bỏ súng về ôm những gốc cây
tìm hốt hết thịt xương đồng loại
ôm thật đầy trên những cánh tay
(Trong đêm mưa tiền đồn, Đêm ôm đàn uống rượu một
mình tr.13)
Điều này thật ra không lạ. Đó là cội nguồn yêu
thương dân tộc mấy ngàn năm tự nó thúc thôi. Và người má tuyệt vời của anh. Câu
chuyện gia đình được Nguyễn Dương Quang kể nhiều lần nhất là ký ức về một lần
theo má vô bưng biền ở Cà Mau để tìm gặp ba, tưởng để gia đình đoàn tụ, ai dè…
ba má anh bất đồng quan điểm và anh tuổi chưa lên 10 theo má về Dalat, còn ba
anh tiếp tục bưng biền kháng chiến theo lý tưởng của mình. Rồi chiến tranh chia
cắt đôi bờ Hiền Lương, mỗi người một cuộc đời… (Nhớ, Quán văn 70, tr.54). Trong
những dòng kể ấy, tháng ngày má vất vả nuôi anh khôn lớn luôn ánh lên những cảm
xúc ngưỡng mộ tự hào trìu mến. Má là cội nguồn thơ anh. Thơ lính ở chiến trường
mà nước mắt má chảy quanh..., mở ra cả một không gian miền Nam những ngày khói
lửa, chia lìa, tang tóc, loạn ly... Nhưng, giữa máu xương nghiệt ngã phù vân,
may sao, tim anh vẫn run lên thổn thức:
ôi, trái tim con mãi tôn thờ má
đã dạy con hai tiếng yêu thương
Cảm động làm sao tình mẹ, tấm lòng thánh thiện của
mẹ đã gìn giữ và cho anh cái tính "bổn thiện" quý báu vốn có cứ vời
vợi, cứ thao thiết những câu thơ hình ảnh ám dụ đầy sức gợi, đẹp đến rơi lệ:
dòng nước nào xa nguồn mà không đục
sợ một mai con lạc dấu chân mình
Ra trận, trước mặt là "những ngọn đồi cát
máu", đêm đêm "thì thầm cùng những nấm xương" và không biết bao
lần "con nghe những dòng sông kể chuyện, chuyện những xác cầu, xác người
chìm nổi"... Bức tranh khốc liệt ấy vẽ ra trước mắt từng ngày từng giờ như
một dự báo tiên tri của người cầm súng chốn sa trường... Vậy mà anh không cầu
nguyện gì cho bản thân mình, chỉ "cười rưng rưng" chấp nhận
'"con ngồi đưa chiếc võng rách quê nhà" chua chát phận mình, chỉ lắng
lo thao thức mong sao "má ngủ đêm nay ngon giấc", mong đạn cầu vòng
đừng đi trong đêm tối làm "lệ sẽ đầy giấc má nhớ con xa"...
Thôi, má ngủ đêm nay ngon giấc
con ngồi đưa chiếc võng rách quê nhà
đạn vòng cầu đừng đi trong đêm tối
lệ sẽ đầy giấc má nhớ con xa.
Nước mắt người đọc nào, người có con ra trận nào
thời ấy, thời này,thời nào… có thể chẳng tuôn rơi?
Với Nguyễn Dương Quang, chiến tranh vẻ như một màn
kịch ai đó dựng lên, kéo màn từ xa còn người lính chỉ là những vai diễn bị xô
đẩy vào hứng những viên đạn đồng, mìn claymore vô tình nghiệt ngã. Và anh đớn
đau cho mình, cho đồng đội, cho cả người anh em bên kia:
lòng mặc áo suơng nên lòng quá lạnh,
mắt mở từng đêm nên mắt quá sâu
(…)
Kịch đêm qua trên đồi đã dứt
ai kéo màn từ một rừng xa
có tim người ứa một dòng sông máu
chảy âm thầm suốt cõi hồn ta
(…)
Hỡi người anh em đêm qua nằm xuống
Lửa ta nhen xin ấm hồn người
(…)
Hỡi bếp lửa trên đồi hoang vắng
Làm sao soi từng ngõ ngách mơ hồ
(Lửa trên đồi, Đêm ôm đàn uống rượu một mình,
tr.25-6)
Cảm ơn những vần thơ rất thực, rất đời, chạm vào
từng ngõ ngách tâm hồn người đọc. Quá bình dị nên quá thật, quá thương. Những
câu thơ đầy vẻ đẹp nhân văn đã giúp cho thế hệ sinh sau đẻ muộn ngác ngơ chúng
tôi hiểu thêm về cuộc chiến rất gần, còn đầy ngộ nhận mà nỗi đau không chỉ
riêng ai... Bên này, bên kia...? Không, chỉ có nước mình, dân mình...bao nhiêu
nước mắt và máu rồi, vẫn chưa hết khổ đau…
Đừng ai khoét thêm nữa những hố thẳm cách ngăn…
3. Khúc rong ca của kẻ lãng du
Không gian mênh mông của núi rừng và bao la của biển
cả càng làm cho con người bé nhỏ và đơn độc. Thơ Nguyễn Dương Quang lại dường
như chỉ xoay quanh những giới hạn quen thuộc biển Phan Rang quê cha, núi Dran
quê mẹ nên cái đơn độc nhỏ nhoi cứ như nhân rộng, đào sâu hơn gấp nhiều cung
bậc. Những năm sau 1975, thơ anh đi vào nhiều chiều kích của đời thường. Đầy
hoài niệm. Đầy suy tư. Và cũng đầy nước mắt ngược vào trong trước biển dâu
nghiệt ngã của đời mình, đời người đến mức anh tự “quên mình đang sống”. Gia
đình đề huề, ấm áp yêu thương, nền nếp, con cháu thành đạt. Hạnh phúc luôn đong
đầy trong ngôi nhà cổ kính hơn 70 năm mà tôi có dịp lưu lại trong tình thân mến
khách ân cần của anh chị. Không phải khốn khó cơm áo gạo tiền như thời làm rẫy,
đi buôn xác mắm, phe phẩy độ nhật. Không phải lao đao lận đận bon chen với đời
mà sao thơ anh vẫn xót xa mình vật vờ sống giữa biển mê:
có lúc ta ngơ như một anh hề
tình tỉnh điên điên nắng chợ gió quê
có lúc ta si như thiền sư lẫn
quên lời kinh quên ta giữa biển mê
(Đêm ôm đàn uống rượu một mình, phụ bản tr.107)
Bài hát Khúc rong ca của kẻ lãng du anh viết năm
1990, có lẽ là bài anh yêu thích và thường nghêu ngao. Trong tập thơ duy nhất
của anh và các tuyển tập sau này anh đều chọn đưa vào. Đọc lớp vỏ ngôn từ và
ngữ nghĩa văn bản tôi cảm nhận là một bài thơ hay, thủ pháp trùng điệp và nghệ
thuật so sánh liên tưởng khá điêu luyện. Tôi rất thích và bị cuốn hút vào cách
nhà thơ ám dụ ví von trong từng hình ảnh. Song đến khi nghe anh cầm guitar đàn
hát say sưa như dồn tất cả nỗi niềm sâu kín trong khi bạn bè rầm rì trò chuyện
giữa đêm trăng mờ Phan Rí Cửa, tôi chợt nghẹn ngào nhận ra lâu nay chúng tôi
vẫn chưa hiểu hết về người thơ này. Phải chăng đó mới chính là tâm trang sâu
kín của Nguyễn Dương Quang? Anh như quên tất cả chung quanh, lặng lẽ chìm trong
tiếng hát chính mình, ngập trong nỗi đau hồn mình. Có cái gì như uất nghẹn
trong từng ca từ, hình ảnh. Có cái gì như cam chịu đớn đau. Con người còn không
đáng sống bằng cây cỏ, côn trùng. Có cái gì như muốn vượt thoát thực tại để
thênh thang tự do cùng gió mây đất trời bao la. Như một khát khao thường trực…
Bao cảnh đời đen trắng. Bao bất công lọc lừa. Bao chen chúc thị phi nỗi đời.
Tấm lòng nhân hậu của anh, tính cách của anh - một “mẫu người cương trực, thẳng
thắn, nhanh nhẹn, tháo vát, sống đàng hoàng và đặc biệt chơi với bạn rất tốt”
(Phạm Cao Hoàng, “Duồng, một thời biển mặn”, Quán Văn 70, tr.90) - làm sao
không đau đớn bế tắc khi phải chấp nhận làm “thanh gươm cùn”, khi phải “tỉnh
tỉnh điên điên”, lặng câm như đá, chỉ còn khóc cười với đêm và cây cỏ, gió
trăng… Bài thơ Điều rất khó của anh phải chăng cũng là trăn trở của con ngươi
cương trực, thẳng thắn, nhân hậu phải trơ mắt bó tay, tự mâu thuẫn với cái tâm
lương thiện, bí bách bức bối mắc kẹt giữa những lẽ thiệt hơn, thiện ác của đời.
Khúc rong ca của kẻ lãng du gồm 7 điệp khúc như 7
lần chối bỏ thực tại, khước từ làm kiếp trần ai nhọc nhằn, khao khát hoá thân
vào thiên nhiên trời đất Langbian yêu dấu của anh. Từng hình ảnh, nhẩm đọc thật
chậm ca từ của bài hát cứ nghe cắt cứa biết bao…
Có những lúc ta say như ngọn gió chiều
lướt thuớt trên sông hát cùng đám lau
Có những lúc ta vui như làn mây trắng
bên đồi kia ta quên ta là mây
Vui. Say. Quên. Nhưng nào có vui, có quên được. Nỗi
bơ vơ lạc lõng kiếp người liên tiếp được Nguyễn Dương Quang đặc tả qua hình ảnh
“con dế buồn” “lủi thủi nghêu ngao đêm rừng cỏ non” hay lẻ loi như “vầng trăng
khuyết” bên trời kia cô đơn trong chiều sương”. Chạnh lòng quá đỗi nỗi khát
khao nhân quần sưởi ấm trái tim đơn giá. Có khi nhà thơ ví von nỗi niềm lặng lẽ
hồn mình như tượng, như đá vô tri. Nhưng không, “sỏi đá cũng cần có nhau”
(TCS), cho dẫu có là kiếp đá Nguyễn Dương Quang cũng mong chờ những “con sóng
ấm đôi bờ vai”, để sóng xoá đi chăng những dấu chân còng kiếp nhân sinh mệt
mỏi:
Có những lúc ta ngồi như đá
chờ con sóng ấm đôi bờ vai
bờ cát trắng chân còng mệt mỏi
còn lang thang suốt đêm trần ai
Ở hai hình ảnh so sánh cuối, cảm giác như anh đang
tự chua chát giễu nhại mình. Tự nhận làm một “anh hề “ tỉnh tỉnh điên điên giữa
thế gian điên đảo. Thiền sư là những bậc đạo cao đức trọng, công phu tu luyện
thượng thừa có thể an nhiên tĩnh tại trước mọi nghịch cảnh trần ai, thì giờ
đây, con người thông tuệ ấy cũng chỉ còn là một thiền sư lẫn, quên lời kinh,
quên cả bản thân mình.
Có những lúc ta ngơ như một anh hề
tỉnh tỉnh điên điên hát cùng đám lau
Có những lúc ta si như thiền sư lẫn
quên lời kinh quên ta giữa biển mê
(Khúc rong ca của kẻ lãng du, Đêm ôm đàn uống rượu
một mình, tr.106)
Dường như, nhà thơ đã phải trải qua những đấu tranh,
giằng xé âm thầm ghê gớm trong nội tâm, và cũng nhẫn nhục chịu đựng ghê gớm để
chấp nhận bản thân, chấp nhận tồn tại ở một cách thế sống bất như ý trong thực
tại. Cũng may là ngoài thi ca, anh còn có sở thích và năng khiếu âm nhạc từ
thời học sinh, thời lính và trở thành thú tiêu khiển đêm đêm khi đối diện với
mình. Hay giữa nhiều cuộc vui họp mặt, không nhiều lời… tiếng đàn và tiếng hát
thay anh bộc bạch bao điều. Thơ ca và âm nhạc như một lối thoát, một sự trốn
chạy khỏi hiện thực nghiệt ngã của đất nước, cho Nguyễn Dương Quang đi vào bản
thể nỗi cô đơn của anh, thăng hoa cùng nỗi đau thân phận kiếp người…
Anh Nguyễn Dương Quang, suy cho cùng, tất cả chúng
ta, ai mà không đang chếnh choáng nổi trôi giữa biển mê đời…
Bất chợt, tôi lại nhớ nụ cười rất hiền hoà, cách rít
thuốc rất điềm tĩnh của nhà thơ như ngồi trước mặt tôi đây, thật khó nghĩ đây
chính là tác giả nhiều bài thơ đầy cô đơn trăn trở có khi bi phẫn ấy. Lan man
nhớ lại kỷ niệm lần đầu gặp Nguyễn Dương Quang. Đó là ngày anh một mình chạy xe
đổ đèo Gia Bắc từ Đà Lạt về Phan Thiết kịp đến buổi Quán Văn giới thiệu Nguyễn
Bắc Sơn- nhà thơ Đông Phương (7.2014). Và, kịp hát một bài tự biên tự diễn tự
đệm đàn vô cùng xúc động:
Chiều ngang qua Tà Dôn
bóng mây theo cũng buồn/
tao quên mình đang sống
làm sao quên mày? Sơn!
(“Chiều qua Tà Dôn nhớ Nguyễn Bắc Sơn”, tr.87)
Tình bạn của họ đẹp làm sao. Quên cả mình đang sống
mà vẫn nhớ bạn phương trời… Giai điệu da diết lẫn lời thơ đã mang địa danh Tà
Dôn và nghĩa tình đồng đội hai anh theo tôi suốt chặng đường Phan Thiết-Sài
Gòn.
Trên đường về, chủ biên Nguyên Minh cho biết Nguyễn
Dương Quang là một nhà thơ xứ núi - xứ thơ Đà Lạt, cũng là một tác giả quen
thuộc cộng tác khá sớm với Quán Văn tuy không thường xuyên. Anh em văn nghệ Sài
Gòn hay hải ngoại về, có đi Đà Lạt đều ghé nghỉ lại khách sạn Bông Hồng của gia
đình anh tại Đà Lạt. Search vài trang mạng, tôi biết anh sinh năm 1945 (có
trang ghi 1944) tại Dran, Đồng Nai Thượng (Tuyên Đức, Đà Lạt). Bảy năm đời lính
1968-1975, làm Đại đội trưởng tác chiến, đánh nhau hà rầm với sĩ quan cố vấn
Hoa Kỳ. Tôi tò mò hỏi: “Vậy anh có bị kỷ luật không?” “Không, tụi nó hay lắm.
Hễ có xung đột giữa sĩ quan VN và cố vấn, chỉ 24 tiếng đồng hồ là có trực thăng
bốc anh cố vấn đi đơn vị khác ngay. Cái máu văn nghệ, như nhà thơ tự kể, cũng
làm thơ, mộng mơ đàn hát, đá banh…như nhiều anh em đồng đội khi rảnh, mà có đi
hành quân cũng… văn nghệ nốt:
Đi hành quân rượu đế vẫn mang theo
mang trong đầu những ý nghĩ trong veo
Sau này, đi cải tạo về, anh tự nhận “tôi cũng vẫn
“trong veo” khi phải vô rừng phát rẫy, làm tiều phu:
Súng đạn thua rồi, nay trận rựa
chiến chinh, chinh chiến ta coi thường
Đặc biệt, ở Nguyễn Dương Quang, tình yêu Đà Lạt mà
anh “trải hồn” bên từng con dốc nhỏ, cho dù “đời thôi, quên nhớ đã nhiều” vẫn
“còn thương vạt nắng bên đèo hôm nay” luôn hiện diện trong từng câu chữ, hình
ảnh đậm nhạt. Thẳm sâu hơn nữa, tình yêu đối với Dran còn hơn cả mối tình si,
thậm chí anh còn muốn hóa thân thành sương sớm sương chiều, thành thác mộng,
hồn thông bên đèo vắng, lối mộng đầu lãng đãng chiêm bao:
Tôi yêu Dran hơn yêu tôi, Dran làm sao biết được!
tôi là giọt sương Dran sớm, giọt sươngDran chiều
(…)
mai xa, hồn nhánh thông bên đèo vắng
một đời vi vu khúc nhạc tình Dran
Mặc dù, chưa bao giờ anh hết thương nhớ “Biển trong
ký ức kẻ du cư”:
Biển đã thấm vào anh tình yêu, nỗi đau và niềm yên
ủi
anh ra đi, lạc vào cõi sương mù
anh vẫn mơ ngày cuối cùng trở về chốn cũ
mãi mãi là con sóng nhỏ biển thiên thu
(Đêm ôm đàn uống rượu một mình, tr.93)
Nguyễn Dương Quang, kẻ lãng du giờ có đã dừng chân…?
3. Bờ cát trắng chân còng mệt mỏi…
Cuối năm 2019, đáp lại nỗi khát khao bằng hữu của
anh, Quán Văn đã hẹn và đã có chuyến gặp gỡ giao lưu ở khách sạn Bông hồng 2-
Phan Rí Cửa. Đã có một chuyên đề Dran miền sương khói và tác giả Nguyễn Dương
Quang tháng 12 ở Sài Gòn, tháng 1.2020 ở Dran trên đồi Đa Nhim. Đã kịp hát
những khúc hát của người con Dran về miền đất “thiêng” của anh, của Trịnh Công
Sơn, của Đinh Cường… Đã nghe nữ sĩ Kiều Minh Mạnh, Hồ Thuỵ Mỹ Hạnh nói về Dran,
về anh, về con đường xe lửa răng cưa đã mất… ngay trên nắng sương của mảnh đất
cổ tích chôn nhau cắt rốn thấm đẫm ân tình. Mới đó… Tôi cũng đã hẹn và đã có
một đêm nghe anh ôm đàn hát những khúc tình ca đau đáu: Ngộ nhận (phổ thơ
Nguyễn Bắc Sơn), Khúc rong ca của kẻ lãng du (thơ Nguyễn Dương Quang), Chiều
tháng ba (Thơ HKO), nhưng không phải đêm Cam Ly mà đêm Phan Rí Cửa. Lần đó, anh
và con trai đón tôi ở ga Sông Mao. Cái sân ga nhỏ bé một thời đã đi vào văn
chương qua câu thơ ngang tàng của Nguyễn Bắc Sơn: “Mai ta đụng trận ta còn
sống. Về ghé Sông Mao phá phách chơi…”. Những kỷ niệm một thời ngang dọc cũng
được cái tên Sông Mao nhắc nhớ suốt đường về Phan Rí Cửa. Nhưng tôi nhớ nhất
chuyện anh cùng đồng đội uống rượu say khướt, lái xe Jeep có…2 bánh nghiêng hẳn
1 bên để… chạy trên đường rầy xe lửa ở chính ga Sông Mao này… Chuyện đánh nhau
như cơm bữa với sĩ quan cố vấn Hoa Kỳ. Chuyện anh quen cô gái Chợ Lầu xinh đẹp
đảm đang - chị Nguyễn Dương Quang bây giờ. Và chuyện trại cải tạo cũng chính là
cơ quan hành chính ngày trước…, cũng như quãng đời lầm lụi ngày sau… Và, nhà
thờ dòng họ, mộ phần ba anh vừa hoàn tất…
Vậy đó, mới đó, còn nguyên đó… có ai ngờ sau chuyến
ra mắt ở Dran, anh chị em QV 22 tết về lại SG, tết nhứt bận bịu, tiếp đến cơn
đại dịch Coronavirus Vũ Hán bùng phát từ Trung Quốc lan ra toàn thế giới khiến
tôi bặt tin anh. Bất ngờ, anh Sông Ba và Kim Chi cho hay anh đang nằm bệnh viện
vì viêm đường hô hấp. Rồi anh được chuyển xuống bệnh viện Chợ Rẫy, bệnh viện
lao Phạm Ngọc Thạch. Có lẽ từ tháng 3. Không, tháng 4. Cách ly đang giai đoạn 2
nghiêm ngặt toàn thành phố và nhiều địa phương. Anh em hay tin chỉ còn biết hỏi
nhau qua fb. Tôi hỏi thăm, Mỹ Lệ băn khoăn: Không thăm được đâu chị ơi, anh
Quang nằm phòng chăm sóc đặc biệt không có ai ngoài 01 người trong gia đình
được vào nuôi. Thêm nữa là dịch Covid-19, bệnh viện lao… không cho ai vô thăm
đâu…
Và, ai cũng bàng hoàng, chiều 29.4.2020. Tin dữ. Anh
đang trên đường trở về Dalat… Chuyến đi cuối cùng trong đời… Chị Thái Hồng đang
ở Oregon, Hoa Kỳ đã đóng cửa tất cả các chuyến bay quốc tế. 23.3.2020 Hàng
không quốc gia Việt Nam cũng bay chuyến quốc ngoại cuối. Không có chuyến bay về
Việt Nam. Trời. Làm sao chị chịu nổi…
Một mình cả lúc đến. lúc đi.
Ôi những ngày tháng tư. Chưa bao giờ tôi áy náy tự
buồn trách mình nhiều như vậy. Sao tôi không cương quyết đến bệnh viện một lần
thăm anh, dù chỉ để đứng ngoài nhìn anh vật vã giữa dây nhợ, ống thở, bình oxy
các kiểu… Coronavirus là cái gì mà có thể khiến người ta mất mọi liên lạc thân
sơ như thế? Cuối cùng cũng là cái chết thôi mà. Nhưng vấn đề không dừng lại ở
cái chết của một con người. Con người đang mất dần nhau.
Thế gian chết hết. Chỉ còn đêm…
Đêm những ngày cuối 2020 Sài Gòn. Tôi đang một mình
hát theo anh đây. Khúc rong ca của kẻ lãng du. Cái clip hát hò đêm Phan Rí Cửa
2016 chập choạng ánh trăng vẫn còn đây, tiếng guitar bập bùng sao bỗng tha
thiết …
Có những lúc ta say như ngọn gió chiều
Lướt thướt trên sông hát cùng đám lau
(…)
Có những lúc ta ngồi như đá
Chờ con sóng ấm đôi bờ vai
Bờ cát trắng chân còng mệt mỏi
Còn lang thang suốt đêm trần ai…
Anh đã trở về chốn cũ. Đã gặp Má, gặp Ba, gặp Nội.
Gặp những đồng đội, bè bạn yêu thương mà anh luôn hết lòng gắn kết. Những con
sóng yêu thương sẽ ấm đôi bờ vai người lãng tử… Không còn lang thang những đêm
trần ai. Không còn đêm ngày. Không có buồn vui. Thênh thang tự do hát cùng đám
mây, hát cùng gió núi đại ngàn lồng lộng, tiếp tục đắm say si tình cùng nàng
thiếu nữ Dalat, cô gái Dran “trăm tuổi má vẫn hồng” của anh. Vâng. Thôi thì
thôi nhé, có ngần ấy thôi. Dù sao anh cũng đã sống đẹp với mình, với người, với
anh em bầu bạn. Hào sảng ung dung tự tại góc trời một kiếp lãng du.
Và… anh sẽ lại làm thơ. Sẽ lại ôm đàn đêm Dran, đêm
Cam Ly… anh nhỉ!
Để kết thúc bài viết tản mạn về người và thơ Nguyễn
Dương Quang mà tôi đã lỗi hẹn với anh đúng một năm trước này, xin gửi anh một
lời tạ lỗi muộn màng. Và xin mượn lời của một người bạn trẻ mới quen nhắc về
anh: “Đà Lạt thiếu Nguyễn Dương Quang trở nên bớt thân quen, nhưng trong lòng
bạn hữu, Nguyễn Dương Quang vẫn còn trong những câu thơ, tiếng đàn, để mỗi lần
vô tình ghé quán ăn, tiệm cà phê cũ lại nhớ tiếng cười hào sảng của ông nhà thơ
già…” (FB Mai Hương, 24.5.2020).
Đúng vậy Mai Hương, cảm ơn em đã nói hộ…
Đà Lạt hôm nay thiếu Nguyễn Dương Quang. Nhưng
Nguyễn Dương Quang mãi còn đây trong mỗi chúng tôi, trong nắng gió chốn cao
nguyên sương mù này, trong những lời thơ nốt nhạc thiết tha một đời anh đã hóa
thân…
Anh Quang ơi!
Đọc lại thay nén nhang tưởng nhớ ngày giỗ thứ 5
Sài Gòn,29.4.25
hko
(Đã đăng trên tập san VHNT Quán Văn số chủ đề “Dran
miền sương khói”)