Nguyễn
Tường Nhung sinh năm 1936, là trưởng nữ của nhà văn Thạch Lam (tên thật là
Nguyễn Tường Vinh). Bà là phu nhân của Trung tướng Ngô Quang Trưởng, người
từng giữ chức Tư lệnh Quân đoàn IV, Quân khu IV rồi Quân đoàn I, Quân khu I của
Miền Nam Việt Nam cho đến tháng 3 năm 1975.
Cuộc
đời bà trải qua nhiều thăng trầm, từ những ngày sống tại trại Cẩm Giàng của
dòng họ Nguyễn Tường sau khi cha mất, đến khi kết hôn với Trung úy Ngô Quang
Trưởng và sau đó lưu vong sang Hoa Kỳ. Bà đã ghi lại những ký ức này trong hồi
ký Tháng Ngày Qua.
Bài viết này trích từ tác phẩm "Tháng Ngày Qua" Hồi ức về những ngày đầu tiên lưu vong trên đất Mỹ của gia đình Ông Tướng và mô tả rất thực đời sống của các Sĩ Quan Cao Cấp Hoa Kỳ trong đời sống thường nhật. Người thật và việc thật.
Bà năm nay 86 tuổi, vẫn khỏe mạnh minh mẫn, dù không còn cầm bút viết được nữa, nhưng vẫn rất tỉnh táo vui vẻ nhắc chuyện ngày xưa với những kỷ niệm khó phai mờ.
BẮT ĐẦU CUỘC SỐNG MỚI
Anh đã có việc làm cho Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ để viết về
kinh nghiệm trong cuộc chiến Việt Nam, tiền lương một ngàn ($1,000) một tháng
phải tự đóng thuế. Chúng tôi thuê một căn phòng trong chung cư hai phòng ngủ
giá $180 một tháng ở đường Patrick Henry. Anh
vừa đi làm vừa đi học thêm ở NOVA (Northern Virginia Community College). Út Lỳ
đã đi học, ba con khác vẫn ở với bà Tull trong DC, con lớn vẫn ở với ông bà
Trung Tướng Cushman.
Trước khi rời nhà ông bà Trung Tướng Cushman để về
Virginia, ông liên lạc với Trung Tướng Cooksey từng là cố vấn Vùng 1 và mấy ông
nữa đã từng tham chiến ở Việt Nam để họ giúp đỡ nếu cần. Tôi nhờ một ông Đại Tá
đưa đi mua một miếng thảm để trên sàn làm chỗ ngủ và vài món đồ linh tinh, mua
một xe hơi cũ của ông tướng về hưu giá $700 chạy khá tốt. Chuyện vui vui, có xe
chúng tôi đến Fort Belvoir thăm ông bà Cooksey. Qua cổng lính gác nối theo xe
có hai xe đang trình thẻ, anh tính ngừng lại để nói cho họ biết mình đi thăm
người nào, tự nhiên mấy chú lính Mỹ đứng chào nghiêm chỉnh theo kiểu nhà binh.
Tôi hơi ngạc nhiên vì tưởng ông Cooksey nói cho họ biết anh là Trung Tướng. Thấy
cũng thú vị lắm! Rồi một lần nữa đến trại nhà binh ở Occoquan thăm một anh đại
úy, anh này đóng cho một cái tủ bằng gỗ. Vào cổng lính gác cũng nghiêm chỉnh
chào không thấy hỏi giấy tờ gì. Không nhớ khi nào và không biết ai tìm ra dấu
hiệu chiếc xe của ông Tướng về hưu. Té ra họ chào ông Tướng chủ cái xe, nhưng
mình cũng là Tướng ba sao Việt Nam chứ bộ.
Tướng Cooksey ghé thăm chỗ ở mới của chúng tôi thấy nhà
chưa có đồ đạc gì. Vài ngày sau ông trở lại cùng một ông tướng khác. Hai ông
vác một tấm thảm to rất dày làm tôi rất ngạc nhiên và cảm động vì hình ảnh những
ông tướng oai quyền bên cạnh luôn có tùy viên và tài xế mà vẫn cư xử như thường
dân.
Tướng Richard Stilwell cho một bàn bằng sơn mài là cái
bàn nhà thờ làm lễ của Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình tặng cho ông. Mấy bạn
của bà Tull cho một bộ lư đồng có đủ hai chân đèn, một cái chuông. Tôi thỉnh một
bức tượng Quan Thế Âm dùng cái bàn để thờ Phật. Thế là đã hoàn thành bàn thờ Phật,
gia đình cảm thấy ấm áp.
Nhiều quận hạt miền Bắc tiểu bang Virginia có mở trung
tâm dạy Anh ngữ cho dân tị nạn với nhiều trình độ khác nhau. Có rất đông người
học. Tại đây tôi gặp được người quen, nhờ vậy cũng đỡ ngỡ ngàng và biết được
nhiều điều hữu ích. Một vài chị vợ sĩ quan có vẻ rất thông thạo, nghe họ nói
chuyện cứ ngỡ như họ đã ở đây từ lâu. Còn tôi thì thật là bỡ ngỡ. Học thì cứ phải
học nhưng không biết sẽ làm gì để phụ giúp với anh vì biết đời sống ở xứ này một
người làm không đủ.
Gặp được Thuận, vợ Đại Tá Điền - một người quen cũ, đang
học nghề làm tóc (Cosmetologist). Chị nói nghề này dễ xin việc và nếu có tiền
mình sẽ mở tiệm tự làm chủ và học cũng không khó mấy, nên tôi cũng ghi tên học.
Tiền học phí $500 trọn khóa hai ngàn giờ. Họ cho một cái va li nhỏ trong đó có
đủ dụng cụ như kéo, dao, lược và một cuốn sách chỉ dẫn. Mỗi tuần có thể học
toàn thời gian là 40 giờ, hay bán thời gian. Khi đã đủ phải đi thi hai phần lý
thuyết và thực hành. Mỗi sáng học lý thuyết một giờ, thực tập trên đầu tóc giả,
cho đến khi đủ 300 giờ mới được ra ngoài làm cho khách. Ngày đầu đến trường
ngoài chị Thuận, đã có một số người Việt trong đó có vợ Trung Tướng Phạm Quốc
Thuần. Đây cũng là lần đầu gặp chị, còn Trung Tướng Thuần tôi đã gặp trong khi
học Anh văn. Trong thời gian đang học làm tóc, quận hạt địa phương mở một
chương trình cho người tị nạn. Có ba ngành để tùy ý lựa chọn: Phụ Y tá
(Assistant Nurse), Soạn thức ăn cho bệnh nhân trong nhà thương và Nấu ăn (Food
Service); mỗi tuần được trả $25. Tôi bớt giờ học bên làm tóc, ghi tên học Food
Service để mỗi tuần được $25 và biết thêm một việc mới. Người dạy môn nấu ăn là
một anh Mỹ đen còn trẻ. Bắt đầu anh dạy cách đặt dao, muỗng nĩa, cách làm nước
sốt để trộn salad. Anh ta vừa nói xong, tôi đã lấy dao nĩa xếp đặt hết vào bàn
khiến anh có vẻ ngạc nhiên khen tốt tốt. Mấy ngày sau, tôi cho anh ta biết tôi
đã từng nấu thức ăn Tây, và chỉ cho anh ta vài món. Sau đó thấy cũng chẳng học
thêm được gì và $25 cũng không bõ, tôi bỏ dở môn này và trở lại học nghề làm
tóc cho đủ 2000 giờ. Tuy không học trọn khóa 6 tháng nhưng họ cũng cấp cho một
cái bằng “Food Service”. Như vậy đây là cái bằng thứ hai của tôi ở Mỹ: bằng thứ
nhất là bằng lái xe (Driver License) và bằng thứ ba là thợ làm tóc
(Cosmetologist). Cũng oai lắm chứ, bằng của Mỹ mà.
Mấy đứa con tôi ở với bà Tull, được bà thuê nhà ở vùng
Washington D.C. gần trường học, để tiện cho chúng có thể đi bộ đến trường học
Quốc Tế dành riêng cho con của nhân viên Bộ Ngoại Giao. Còn tôi hơn một năm sau
cũng đã có được mảnh bằng bắt đầu đi xin việc. Một vài nơi đòi hỏi phải có kinh
nghiệm họ mới mướn. Bị nhiều tiệm từ chối cũng hơi nản, và tự nghĩ không ai mượn
thì làm sao mà có kinh nghiệm được. Cũng may, hôm dự tiệc ở nhà Trung Tướng
Cooksey có nhiều tướng tá tham dự, trong đó có một bà vợ tướng. Khi nói chuyện,
biết tôi chưa có việc, bà nói sẽ giới thiệu cho một tiệm mà bà vẫn đến làm tóc.
Tiệm này khá sang, bà chủ gốc người Pháp nhưng giao tiệm cho một bà người Mỹ
làm quản lý trông coi, mỗi ngày bà chỉ ghé qua. Tiệm đã có năm người thợ và thợ
phải mặc đồng phục trắng. Tất cả đều vui vẻ hay giúp đỡ. Lương căn bản $75 một
tuần, làm nhiều hơn thì chia 50/50 cho chủ. Không khí thoải mái, khách thuộc
thành phần trung lưu lịch sự. Tôi may mắn bước đầu nhập vào xã hội, tiếp xúc với
nhiều người lại gặp được những người tử tế, nhờ vậy cũng đỡ tủi đỡ buồn một phần
nào. Lẽ dĩ nhiên trong nghề không tránh khỏi khi gặp phải khách khó tính khó
chiều cũng đành ngậm đắng nuốt cay cho qua. Một hôm, tôi thấy có một số người
đàn ông trẻ mặc complet đen đứng lảng vảng gần tiệm. Mấy bà thợ nói với nhau,
‘’bà Ford, bà Ford”, là vợ cựu Tổng Thống Ford, trước đó vẫn đến tiệm này làm
tóc. Bà vui vẻ chào hỏi mọi người. Không biết bà chủ có nói gì về tôi hay
không, vì khi tất cả mấy người thợ đứng quanh bà chào hỏi, tôi vẫn đứng chỗ bàn
của tôi tận mé trong cũng chẳng quan tâm bà là ai. Bà bước lại vẻ thân thiện
chào hỏi tôi, tôi chẳng nói gì và cũng không để lại một kỷ niệm gì như kỷ niệm
với bà chủ hiệu và nhất là bà quản lý tên Mary Low. Lúc đó bà đã gần bảy mươi
tuổi và đã làm ở tiệm này rất lâu. Bà rất tốt, quan tâm đến tôi, dạy tôi cách
phát âm nhiều từ ngữ và mua tặng tôi cả bộ đĩa ăn muỗng nĩa ly tách khá mắc tiền.
Thỉnh thoảng tôi vẫn nhớ đến bà, một người bạn Mỹ đầu tiên ở đất nước xa lạ
này.
Các con tôi ở với bà Tull được hai năm thì bà đi làm đại
sứ, vì vậy các con phải về sống với gia đình. Trường hợp các con tôi không phải
là con nuôi của bà, vì vậy bà không thể đem đi theo. Nếu chúng tôi bị kẹt lại
Việt Nam thì chắc bà sẽ phải lo cho chúng. Thêm ba đứa con phải thuê một căn
trong chung cư ba phòng ngủ. Ba đứa vẫn học tại trường cũ, vì vậy mỗi sáng anh
phải đưa chúng đến trường thật vất vả cho đến khi hai đứa học xong trung học.
Anh đã hết hợp đồng. Đến văn phòng nơi tìm việc họ tìm được một việc ngày vài
tiếng đứng ngã ba đường để đếm xe qua lại, nhưng rồi họ cũng không mượn nữa,
anh có vẻ lo. Cũng may tôi đã đi làm tuy không nhiều nhưng tằn tiện cũng không
thiếu hụt. Tiền nhà một tháng ba trăm hai mươi lăm đồng ($325). Thời gian đó thực
phẩm còn rẻ, xương bò họ cho không, chỉ cần mua một miếng thịt bò nạm là có được
một nồi phở ăn hai ngày mới hết.
Trong khi chờ đợi việc làm, Trung Tướng Cooksey giới thiệu
anh với chủ vườn để làm việc chăm sóc cây cảnh (landscaping). Anh đến làm thử
được vài tuần. Chủ vườn nói anh không thích hợp với việc này do không đủ sức,
vì phải một mình khuân vác những vật nặng. Họ khuyên anh nên học nghề khác. Họ
cũng tử tế, tuy là học việc nhưng họ cũng trả cho một ít tiền.
Một lần Trung Tá Tuân ghé thăm. Trong lúc chuyện trò tình
cờ biết được quận Arlington có chương trình cho người tị nạn học nghề được trả
tiền. Anh vội đến ghi tên, nhưng chương trình chỉ dành cho người cư ngụ thuộc
phạm vi của quận. Ông Tuân nói anh lấy địa chỉ nhà ông. Cũng may chương trình
còn một ngày là hết hạn và những ngành nghề khác cũng hết, chỉ còn một lớp
Computer học trong 6 tháng có cấp tiền. Vừa học xong, một ông Tướng giới thiệu
anh vào làm ở Association of American Railroads trong Washington D.C. Thế là
anh đã có việc làm. Tiền lương bắt đầu mười ngàn năm trăm ($10.500) một năm, vừa
làm vừa học hỏi thêm, nhưng cũng ổn định với tính anh không muốn thay đổi chỉ
lo yên ổn cùng gia đình và mong cho các con khôn lớn.
Anh nói đùa: ‘’Mấy ông Tướng này coi bộ không biết nhiều
công việc ngoài xã hội. Gặp hai ông cố vấn dở, một ông nói học công việc đồng
áng, một ông bảo học làm vườn, việc lao động tay chân cần đến sức khỏe’’.
Đang ở chung cư trên đường Lee Highway rất thuận tiện,
nhiều đường xe bus, chợ búa cũng gần, nhưng họ không cho mướn nữa. Lại một lần
dọn đến chung cư trên đường King thuộc quận Alexandria được gần tiệm tóc tôi
làm. Cứ nghĩ sẽ ở chỗ này cho đến già vì anh và tôi chưa bao giờ có ý muốn mua
nhà. Không phải là không muốn mà biết không đủ khả năng vì lương anh lúc đó có
mười ngàn năm trăm một năm ($10.500) và nghe nói mua nhà phải trả một phần trước,
phần nữa thấy ở như thế này cũng tốt quá rồi không mong muốn gì hơn. Ở được vài
năm, chung cư này không cho mướn nữa, họ sửa lại để bán. Lại cái cảnh đi tìm
chung cư ba phòng ngủ. Ngày đến ký giấy họ không cho lý do hai con trai ở tuổi
không được ở chung một phòng, hai con gái thì được, hai vợ chồng một phòng hai
con trai mỗi người một phòng, một trong nhiều luật lệ của nước Mỹ này mà từ từ
mỗi ngày mỗi biết thêm.
Không thuê được chung cư, nhờ Thiếu Tá Tâm một người mua
bán nhà cửa tìm giúp. Một nhà ba phòng ngủ có sân khá rộng, chủ nhà là người Việt,
giá $375 một tháng tiền điện nước mình phải trả, nhiều hơn giá thuê chung cư
nhưng cũng phải thuê thôi. Đã qua ba chung cư khác nhau, bây giờ được ở một nhà
riêng tuy phải thêm tiền nhưng cảm giác thật thoải mái, thật vui.
Trụ sở
Railroad ở Washington DC. Hàng ngày anh di chuyển bằng xe bus, các con đi học.
Tôi đã làm ở tiệm này được 5 năm, tay nghề cũng khá, nên vài chị bạn ngỏ ý bảo
tôi mở tiệm. Tôi có dò hỏi một chị quen đang làm chủ, chị cho biết cũng khá và
khuyến khích tôi nên tự mình làm chủ. Nghĩ đến lúc đó không lệ thuộc cũng thấy
vui vui. Thực tế lúc đó tôi không có tiền nhưng cũng muốn tìm hiểu cho biết nên
đã nhờ Thiếu Tá Tâm đưa đi một vài tiệm muốn sang lại. Tuy nhiên khi thấy giá
tiền nghĩ mình không có khả năng, thế là mộng làm chủ đành gác lại. Vài tuần
sau đó ông ghé thăm cho biết có một tiệm họ sang lại giá thuê bốn trăm đô một
tháng ($400) tiền sang hai mươi ngàn ($20,000). Nghe vậy tôi lại thấy hứng khởi
nhưng một số tiền khá nhiều, vì cả gia tài chỉ có năm ngàn ($5.000) số tiền của các ông Tướng tặng
nhưng đã mua sắm đồ đạc chỉ còn lại bốn ngàn. Tâm tình với chị bạn, chị cho ý
kiến nên hỏi vay bạn chắc sẽ được. Chị nói sẽ giúp một phần. Thật ra tôi rất ngại
vì từ xưa không bao giờ muốn vay nợ, mang ơn ai, chỉ mình giúp người ta bây giờ
đi hỏi cũng ngại. Nếu mình làm chủ có thể thêm được một số tiền cho gia đình
sung túc hơn và không phải lệ thuộc như đi làm công. Suy tính chưa biết sẽ hỏi
vay ai, nếu người nào cho mình vay rồi mình trả tiền lời cho họ thì thoải mái
hơn. Cuối cùng cũng vay của bà tên Phi vợ Đại Tá Ferguson (người gửi Út Lỳ đi Mỹ)
năm ngàn trả góp thành năm ngàn rưỡi trong hai năm, của bà Nguyễn Bá Bang năm
ngàn không lấy lời và lúc nào trả lại cũng được (sau này bà là sui gia với Nguyễn
Tấn Dũng), bà vợ Đại Tá Liêu Quang Nghĩa (Nhảy dù) hai ngàn, bà vợ Tướng Nguyễn
Đức Khánh (Không quân) hai ngàn, bà vợ Trung Tá Nguyễn văn Cử hai ngàn. Tổng cộng
đã vay được 16 ngàn, nhà còn bốn ngàn như vậy đã đủ hai mươi ngàn. Ngày ký giấy
làm chủ, tuy phải vay nợ nhưng cảm giác được làm chủ không phải lệ thuộc thật
vui thoải mái. Tiệm có hai cô thợ đã làm ở đây từ lâu. Họ có một số khách vẫn đến
và khách của chủ cũ cũng đến vì chủ cũ đã về hưu, một vài bà khách của tôi cũng
đến để ủng hộ.
Khoảng hơn nửa năm sau lượng khách không thêm được bao
nhiêu, hai cô thợ đòi trả một phần tiền mặt. Hai cô này rất bừa bãi, làm xong
ăn uống không chịu dọn, tôi phải kiêm luôn. Vì không đủ tiền để mượn người, những
ngày có tuyết tôi phải cào từ khoảng đậu xe đến lối vào trong, rất vất vả nhưng
vẫn cố gắng. Nghĩ đến cô bạn trẻ (TĐ) cũng đang làm cùng nghề, tôi gợi ý muốn
cô về làm chung cho vui và có thể đem theo một số khách của cô. Cô rất vui vẻ
nhận lời. Cô đưa mười ngàn làm lại giấy tờ chúng tôi cùng làm chủ. Tôi rất vui
và thấy tự tin hơn, vì Anh ngữ của tôi rất khiêm nhường, mà vui nữa là tôi đã
trả được một nửa số tiền vay để mua tiệm. Nhưng rồi cô có chuyện làm ăn khác
nên nhường chỗ cho một chị bạn cũng quen, gần hai năm nhưng lượng khách cũng
không thêm được nhiều. Mỗi ngày mở cửa từ 9 giờ sáng đến 7 giờ chiều mười tiếng
đồng hồ, sáu ngày một tuần. Bỏ ra nhiều thời giờ không đáng, tôi bán lại lời được
vài trăm, trả hết nợ lòng thơ thới hân hoan vui hơn khi làm chủ.
Bán tiệm trả nợ xong chưa biết sẽ trở lại làm tóc nữa hay
một việc gì khác, như người chị họ rủ bán hàng quần áo, phấn son trong những cửa
hiệu lương cũng khá, cứ nghỉ ngơi đã tính sau. Vừa đúng lúc được vào công dân Mỹ,
nghĩ tới khi còn ở Việt Nam có mấy người anh chị họ đi Tây, một nơi mà mình
mong ước được đến, bàn tính xong quyết định một chuyến đi Pháp, rủ thêm một cặp
bạn đi cho vui. Sau hơn 7 giờ bay chúng tôi đã được người anh họ và một người bạn
của anh ra đón. Sau mấy ngày ở Paris thăm vài thắng cảnh, xuống Marseille bằng
xe lửa tốc hành thăm người cô họ và vài người bạn, từ đó đi xe ô-tô đến Nice,
Monaco, trở về lại Marseille, lấy xe lửa qua Rome, Thụy Sĩ, qua Anh thăm Tổng
Thống Nguyễn Văn Thiệu, được ông lái xe ô-tô đến phố Tàu ăn cơm. Mới bước vào
đang đứng đợi bàn, một ông đầu hói hơi thấp từ đâu chạy lại, ‘’Tổng Thống, Tổng
Thống,’’ giơ hai tay ra nắm lấy tay ông, quay qua nói với người hầu bàn gần đó
mấy câu tiếng Tàu chắc là dọn bàn gì đó, cứ xí xa xí xầu. Ông chủ Tàu đưa vào một
phòng ăn nhỏ hơi cũ như toàn diện nhà hàng cũng cũ không lớn hay sang như nhà
hàng Đồng Khánh ở Chợ Lớn. Họ dọn ra khá nhiều món, một chai rượu nhưng ông Thiệu
bảo ông không uống, ông hỏi anh còn uống thứ rượu Tanqueray nữa không. Ăn xong,
ông lái một vòng thành phố cho xem cái đồng hồ. Khi ngang một khu phố ông chỉ
vào một hiệu cửa kính có hình vài cô gái ông nói vài câu gì đó với anh, tôi chỉ
nghe và nhớ hai chữ ‘’topless’’, ở Mỹ mãi lâu lắm tôi mới ngộ ra hai chữ
‘’topless’’. Một chuyến du lịch đầu tiên với cái Passport công dân Mỹ.
Căn nhà thuê khá tiện nghi, gần xa lộ 95, gần chợ, gần
khu mua bán, có xe bus chạy ngang nhà, gần trường học. Ở được mấy năm chủ nhà
muốn bán. Thiếu Tá Tâm khuyên nên mua chủ nhà sẽ giảm giá. Bàn đi tính lại cũng
chưa quyết định vì không đủ tiền đặt cọc rồi mỗi tháng phải trả thêm mấy trăm sợ
không đủ khả năng. Cũng nhờ ông cho biết sẽ lấy được một ít tiền thuế và nhờ cậu
em giúp một ít tiền đặt cọc, đi tìm nhà thuê cũng mệt quá, cuối cùng cũng làm
chủ căn nhà ở con phố với cái tên khá thơ mộng: Niềm Hy Vọng vùng Cánh Đồng
Xuân. Nghỉ chơi vài tháng tìm hiểu một vài việc khác nhưng rồi thấy cũng không
khá hơn. Sẵn có nghề chuyên môn, tôi trở lại làm cho công ty Hair Cuttery, một
công ty có nhiều địa điểm khác nhau, nên có thể chọn tiệm gần nơi mình ở, khách
hàng đủ thành phần kiểu khá bình dân.
Ngày tháng qua, các con xong phần đại học đã có việc làm,
có đứa đã có gia đình. Anh ở tuổi 65, làm được 15 năm đủ tuổi nghỉ hưu, sở cũng
yêu cầu anh làm thêm nhưng anh không nhận.
Năm tháng về hưu thỉnh thoảng đi du lịch. Niềm vui của anh là chăm sóc vườn cây thảm cỏ trang hoàng nhà cửa, trồng một hàng đào khi mùa xuân đến trổ hoa màu hồng tím đỏ trắng tinh, hòn non bộ dòng nước róc rách hoa súng hoa bèo. Những ngày cuối tuần hay ngày nghỉ lễ con cháu quây quần, thỉnh thoảng bằng hữu họ hàng ghé thăm. Một cuộc sống cuối đời khá êm đềm bù lại những ngày vất vả. Anh bảo tôi cũng nên nghỉ vì nghề làm tóc cũng khá mệt. Phải vận dụng cả cơ thể, chân đứng, tay làm việc, mắt nhìn, tai nghe miệng nói chuyện. Gặp khách khó tính, thợ làm chung tranh giành khách, đụng chạm ôi thôi, mỗi ngày mỗi chuyện nhiều lúc tinh thần căng thẳng. Tiền hưu của anh tuy không nhiều nhưng cũng sống thoải mái. Mấy tháng mới nghỉ cũng tiếc vì bây giờ tất cả chi tiêu đều lệ thuộc vào số tiền hưu nhưng bù lại sống thảnh thơi. Cũng may thời gian này con gái lớn làm ăn khá mua cho một cái xe mới gần ba mươi ngàn, mỗi tháng biếu bố ba trăm biếu mẹ hai trăm, các con khác thỉnh thoảng cũng biếu bố mẹ tiền đi chơi. Tuy bố mẹ không thiếu và tiền con biếu không nhiều nhưng nói lên lòng hiếu thảo của các con là niềm vui của cha mẹ. Buổi sáng nắng thu với làn gió nhẹ. Một ngày vui tôi thức dậy sớm hơn thường lệ, lòng náo nức đi làm thủ tục để lãnh tiền hưu. Tôi hơi tiếc vì ra đời chỉ muộn có hai ngày (October 03) mà bị mất một tháng lương. Bốn năm chờ đợi hưu non, hàng tháng có thêm tiền là vui và có tiền đi du lịch. Trở lại nước Pháp lần thứ nhì, thêm một tỉnh thứ hai của Thụy Sĩ, Venice của Ý rồi Hòa Lan, Bỉ, Áo, Đức, Ma Rốc, Tây Ban Nha, Mễ Tây Cơ, thăm 7 tỉnh của Trung Quốc. Thế giới mênh mông đi được như vậy cũng cảm thấy mãn nguyện.
NGUYỄN TƯỜNG NHUNG