TIỂU TỬ, nhà văn miền Nam lục tỉnh
Nguyễn Vy Khanh
Nhà văn Tiểu Tử vừa
mất tại Noisy le Grand ngoại ô Paris ngày 18-9-2025, sau một thời gian bạo bệnh.
Ông xuất hiện trên văn đàn hải ngoại khoảng đầu thế kỷ XXI, tương đối trễ sau đợt sóng “văn học miệt vườn” nở rộ ở ngoài nước cuối
thập niên 1980 đầu 1990, nhưng ông đã có những sáng-tác sống động về miền Nam
những ngày tháng sau năm 1975, với văn phong “miệt vườn” hiện thực mà không
thiếu những nét “sang cả” của con người miền Nam.
*
Tiểu Tử
tên thật Võ Hoài Nam, sanh năm 1930, quê Gò Dầu (Tây Ninh), tốt nghiệp trường
kỹ sư Marseille (Pháp) năm 1955, dạy trung học Petrus Ký niên khóa 1955-1956,
làm việc cho hãng Shell Việt-Nam từ 1956 đến ngày mất nước. Vượt biên rồi định
cư ở Pháp từ năm 1979. Ông mất tại Noisy
le Grand ngày 18-9-2025.
Nhà văn
Tiểu Tử xuất hiện trễ trên văn đàn và đã xuất bản các tuyển tập Những Mảnh
Vụn (Làng Văn, 2004 gồm 19 truyện ngắn), Bài Ca Vọng Cổ (2006), Chị
Tư Ù (truyện ngắn, phiếm và tạp văn, TGXB, 2012), Chuyện Thuở Giao Thời
(truyện ngắn, phiếm và biếm họa, TGXB, 2014),...
*
Tuy xuất hiện vào thời “lão hóa” của văn học
hải ngoại nhưng Tiểu Tử đã có những sáng-tác sống động về miền Nam những ngày
tháng sau năm 1975, với văn phong “miệt vườn” hiện thực mà không thiếu những
nét “sang cả” của con người miền Nam. Các truyện ngắn và bút ký của ông đưa
người đọc trở về với sinh hoạt thường ngày cùng với tiếng nói cùng con người
Việt cũng như hàng xóm gốc Tiều, gốc Hoa, … trước và sau 1975. Nhiều sáng-tác
của ông khiến người đọc không tránh khỏi ngậm ngùi, tiếc nuối về một thời đã qua
cùng với những nét văn-hóa riêng của thời đại đó cũng như căm phẩn cho những
bất công, bạo lực, ngu dốt của những kẻ gọi là cầm quyền sau cuộc “chiến thắng”
1975. Truyện nào cũng thấm thía chuyện đời dời đổi trắng đen, chuyện đất nước
lâm vào đường cùng, như Ông Già Ngồi Bươi Đống Rác, Giọt Mưa Trên Tóc, Chị Tư
Ù, v.v.
Ông còn viết phiếm luận và dĩ nhiên giọng văn
này cũng ảnh-hưởng lên một số truyện ngắn của ông. [Trước 1975, ông đã dùng bút
hiệu Tiểu Tử khi phụ trách mục biếm văn “Trò Đời” của nhật báo Tiến].
Tiểu Tử không “làm văn chương”, ông kể
chuyện và truyện của ông không có chữ thật kêu, không có những câu chải chuốt,
làm dáng. Với cách diễn tả, với ngôn ngữ chỉ có những tác giả đậm chất miền Nam
mới viết được – tiếng “Việt Nam ròng” đã khởi đi từ Trương Vĩnh Ký, Huình Tịnh
Paulus Của, Hồ Biểu Chánh,... Ngay cả tên những nhân vật cũng đặc miền Nam;
những tên, những địa chỉ rất “miệt vườn”, chỉ đọc lên cũng đã thấy hiện ra
không gian sông nước Tiền và Hậu Giang.
Thế giới truyện ngắn của Tiểu Tử xoay
quanh hai đề tài chính: những kỷ niệm về một Miền Nam hiền hoà, chất phác, hào
phóng ngày xưa, với những trò vui đùa nghịch ngợm của đám bạn bè trẻ, những mối
tình mộc mạc của những người chân quê và, sau đó là những đảo lộn sau 75, khi
tai họa trên trời giáng xuống nhưng do con người tàn độc gây ra. “Tất cả đều
bị xáo trộn, bị nghịch lý đến nỗi tao sống trong đó mà lắm khi phải tự hỏi: làm
sao có thể như vậy được”. Một xã hội vô tư, chân quê, nay trở thành địa
ngục. Chỉ còn hận thù, phản trắc, gian sảo, cướp đoạt, dối trá.
Những nhân vật của Tiểu Tử không còn
hồn nhiên sống, cười đùa, vui chơi, dễ dãi nữa. Đó là những nhân vật đầy ưu
phiền như ông Tư, như bà Hai, như thầy Năm Chén, như anh Bẩy, như bà Năm cháo
lòng. Một xã hội đổ nát, rách bươm. “Những người “cách mạng” xông vào nhà,
ngang nhiên hùng hổ, như một bọn cướp. Họ “bươi” từ dưới lên trên, từ trên
xuống dưới, từ trước ra sau, từ sau ra trước… giống như gà bươi đống rác. Gặp
gì kiểm tra nấy. Vậy rồi… hốt hết”.
Ông Tư, trong truyện Im Lặng, là người có gia sản ở Saìgòn,
đã từng bí mật đóng góp tài chánh cho “Giải Phóng’’. Khi Cộng Sản chiếm miền
Nam, không những không được trả ơn, mà nay còn bị hành hạ, gia sản thì bị cướp
sạch. “Bỗng nhiên ông Tư nhận thức rằng tất cả những gì thuộc về ông bây giờ
chỉ còn lại người vợ cuả ông đang chờ đợi ông ở nhà”. Nhưng bà vợ tiếc của, uất
hận vì bị cách mạng lừa gạt, suốt ngày đay nghiến trách móc chồng. Rốt cuộc hai
vợ chồng tìm được cách chạy sang Pháp,...”.
Trong Chị Tư Ù, công an Việt-cộng tới xét nhà:
“Chị Tư trở ngược cây chổi lông gà chỉ từng tấm ảnh:
- Đây là ông già tôi, hồi ổng còn trẻ. Chớ ổng chết hồi ổng trên sáu
mươi lận. Đây là bà già, chụp hình xòe đủ mười ngón tay!
Chị ngừng ở đó để cười rồi mới tiếp:
- Còn đây là thằng con tôi, liệt sĩ ở Kontum!
Tên công an cãi:
- Chị dùng từ sai. Lính ngụy không thể nào là liệt sĩ cả. Bị giết thì
cứ nói là bị giết. Phải cho rõ ràng ở điểm đó.
Chị Tư ngạc nhiên:
- Coi! Đi dánh giặc rồi chết ngoài mặt trận, mấy anh không gọi là liệt
sĩ thì gọi là khỉ gì?
Anh ta giải thích:
- Chị không hiểu. Giữa ta với ngụy khác nhau chứ. Ta, vì nhân dân vì Tổ
quốc mà hy sinh, thế mới gọi là liệt sĩ. Còn ngụy là lính đánh thuê cho đế quốc
Mỹ...
Chị Tư đưa một tay lên chận lại:
- À! À! Đến đây tôi xin lỗi anh. Chính anh mới không
hiểu gì hết. Thằng con tôi chưa hề đánh thuê chém mướn. Nó đi quân dịch thì
giống như ngoài đó mấy anh gọi là đi nghĩa vụ gì gì đó. Nó cũng vì đồng bào của
nó, vì xứ sở của nó mà hy sinh, chớ nó có đánh giặc để giữ gìn đất đai xứ Mỹ
bao giờ?
Trong lúc tên công an chưa kịp "mở miệng" thì
chị Tư đã nói tiếp, tay cầm cây chổi lông gà trở ngược quơ qua quơ lại trên
không, để "vẽ" cho câu nói:
- Ngoài đó đánh vô thì trong này phải đánh ra chớ bộ ngu
dại gì mà đứng làm thinh đưa đầu cho thiên hạ đập? Phải không? Như vậy gọi là
đánh thuê chém mướn à?
Thấy tình hình sắp đi vào ngõ bí và "con mụ hàng
tôm hàng cá" này cũng không phải tay vừa, tên công an "đâm" đại
một câu:
- Chắc là con chị phải ác ôn lắm nên mới có đến hai huân
chương.
Chị Tư cười ha hả:
- Nếu nói như anh vậy thì mấy đồng chí
cao cấp của anh phải ác ôn gấp mấy chục lần thằng con tôi. Bởi vì người nào
người nấy chụp hình thấy đeo một ngực mề đai!" (Chị Tư Ù, tr. 27-28).
Vốn mê thích ca vọng cổ, từ khi
Việt-cộng vào Nam 'giải phóng', chị Tư mất đi cái hứng đó dù đã giết được tên
công an ham gái: “Hôm sau, cả làng đều biết tin tên công an bị chém. (...)
Trưa đó, nằm đong đưa trên võng, chị Tư suy nghĩ viễn vong rồi đưa bàn tay trái
lên nhìn chiếc nhẫn bạc của Út Cón chạm trổ cho hồi đó, thuở Út Cón chưa vợ,
thuở hai người còn thật "bồ" với nhau... Chị bồi hồi nhận thấy tiếng
"bồ" quen thuộc, từ nay sẽ không còn dùng tới nữa. Tiếng
"bồ" gọi nhau thuở nhỏ. Tiếng "bồ" nhè nhẹ êm êm của tuổi
dậy thì. Tiếng "bồ" mang mểng yêu thương giấu kín, về sau, khi chẳng
thành duyên chẳng thành nợ. Và tiếng "bồ" già dặn, đậm đà của bây
giờ, mới đây, trước khi Út Cón bị bắt. Tiếng "bồ" của mấy chục năm
đó, còn ai để mà gọi, từ nay? Chị bỗng thèm hát lại câu vọng cổ. Lần này, chị
vô "Bồ ơi...". Tiếng "ơi" bị ngẹn ngang. Chị ngừng ở đó một
lúc để kềm xúc động. Rồi chị "bắt" trở lại, nhanh nhanh dồn dập chớ
không ngân nga sợ trào lòng cắt đôi câu hát: "Bồ ơi! Cái mối tình của em
đối với bồ... nó tợ như trời cao biển rộng?...ư...sông...à...dài". Tiếng
"dài" không còn "ngọt" như xưa. Tiếng "dài" bị
đứt khoảng. Giống như khúc đuôi còn nằm kẹt đâu trong lòng. Chị vói tay lên đầu
võng rút cái khăn lông đắp vội lên mặt, bởi vì chị vừa nghe mí mắt mình mọng
nước!
Từ đó chị Tư Ù thôi ca vọng cổ” (tr. 35-36).
Trong Thằng Đi Mất Biệt, bà Hai con cái chết, gia tình tan
nát, suốt ngày ngồi chờ đứa con trai còn lại bị đưa đi cải tạo:“Khi trời
nắng ráo, bà đi tuốt ra ngoài vàm rạch, lên ngồi trên môi đất có thể nhìn thẳng
qua bên kia sông. Như vậy, “khi nào thằng nhỏ nó về, mình thấy nó từ đằng xa,
nó có đi đò, trong đám đông, mình cũng nhìn ra đươc nó liền hà”.
“Thằng đi mất biệt” được thả về sáu
năm sau, nhờ học tập tốt. Đi đón Trực ở bến xe đò quận Gò Keo là ông Ba và ông
Út. Ông Út, vì rầu sự nghiệp nên già khú, vẫn là công nhân nhà máy cao su. Ông
Ba về thọ tang bà Hai rồi ở lại luôn Bình Quới để giữ ‘đất đai ông bà’ kẻo ‘mấy
thằng ác ôn nó quen thói côn đồ đớp hết của người ta’, ổng nói như vậy! Bây
giờ, ông Ba hay cười gằn, cầm cây rựa quơ quơ: “Tụi nó có muốn vô nhà nầy phải
bước qua xác của tao, nè!”.
Hai ông đưa Trực ra đầu vàm thăm mả
bà Hai nằm cách mô đất không xa. Sau khi thắp nhang vái lạy, ông Ba kể cho Trực
nghe chuyện bà Hai ngày ngày ra ngồi trên mô đất để trông ‘thằng đi mất biệt’.
Trực ngồi thụp xuống, úp mặt vào hai tay khóc ngất. Ông Ba chấp tay nói như nói
trước mặt người chị: “Chị Hai ơi! Thằng đi mất biệt của chị, nó về rồi nè!”.
Bỗng, mặt ông nhăn nhúm lại, giọng ông cao lên: “Mà… thằng Trực đâu phải
là thằng đi mất biệt đâu, chị Hai!”. Rồi ông nấc lên, vừa đấm vào ngực vừa
la lớn: “Em mới là thằng đi mất biệt đây, chị Hai à!”. Ông quì xuống ôm
lấy mộ bia, gục đầu lên đó, nức nở. Cái đầu tóc trắng lắc qua lắc lại, nói lên
tâm tư của một người không tìm ra đáp số cho bài toán khó.
Ông Út khom xuống, đặt tay lên vai
anh bóp nhẹ: “Anh Ba à! Anh nói được như vậy là anh đã thấy con đường về rồi
đó, anh Ba!” (Chị Tư Ù, tr. 195).
Thầy Năm Chén là chuyện “Sau
trận Tết Mậu Thân (1968) ở Huế, gia đình ông thầy thuốc Nam đó chết hết, chỉ
còn lại có hai cha con. Nhà cửa tiêu tan, sự nghiệp tiêu tan, thầy không muốn ở
lại cái vùng đất mà thầy cho là còn gần với quân xâm lăng miền Bắc. Thầy gạt
nước mắt, dẫn thằng con trong tuổi quân dịch đi vô Nam”. Khi Việt-cộng chiềm miền
Nam, phòng mạch Thầy bị chiếm, còn con trai thì phải bỏ đi kiếm ăn. ”Chia
tay nhau mà hai cha con không dám ôm nhau. Sợ người ta để ý. Thầy không đưa con
ra cổng nghiã trang. Sợ người ta để ý.Thầy không dám để rơi một giọt nước mắt.
Sợ người ta để ý. Thầy chỉ thở dài. Thời buổi bây giờ chỉ thở dài là không ai
để ý. Bởi vì ai cũng thở dài hết”.
Đọc Tiểu Tử, người ta không thể không
xúc động. Nhưng văn Tiểu Tử cũng đầy nét khôi hài, những nhận xét ngộ nghĩnh.
Phòng mạch của Thầy Năm Chén “bịnh nhơn cũng vắng. Làm như người ta sợ quá
rồi…quên bịnh. Trái lại, bên phía chuà thì lại đông người lui tới và ngày nào
cũng có người. Làm như người ta chỉ còn biết …dựa vào Phật”. Ông châm biếm
nhẹ nhàng những cảnh lố bịch của những kẻ thắng trận. Cũng như ghi lại những
trò đời lố lăng, đảo lộn luân thường thấy hàng ngày, từ cuộc đổi đời năm 1975.
Truyện Ông Già Ngồi Bươi Đống Rác kể chuyện ông già có công
với ‘’cách mạng’’ nhưng bị cách mạng cướp hết không còn manh giáp, trở thành
điên khùng, suốt ngày lang thang ngoài đường bới rác, “tao bới rác để
kiếm mấy thằng Việt Cộng tao đã nuôi trong nhà”: “Thành phố Hồ Chí Minh
quang vinh vẫn còn rất nhiều rác (...) ở một đống rác khá lớn nằm trên vỉa hè
một con đừơng khá rộng trong thành phố, có một ông già ngồi ung dung như đang
ngồi ở một nơi sạch sẽ! Ông già đó tuổi cỡ ngoài tám mươi, có chòm râu bạc giống
râu bác Hồ. Ổng đội mũ tai bèo, mặc bộ đồ bà ba đen, mang dép cao su đúc. Ổng
ngồi trên một ghế bằng nhựa nhỏ, thấp, loại ghế ngồi cho trẻ con. Ổng cầm cây
gậy trúc dài bươi bươi rác, mắt nhìn châm chú chỗ đang bươi, mặc cho đàn ruồi
bay lên đáp xuống như giành rác với ổng! Lâu lâu, ổng nói một mình: “Nó nằm lẩn
đâu đây hè! Mẹ bà nó!” … “Tao bươi rác để kiếm mấy thằng Việt Cộng mà hồi đó
tao nuôi tao giấu trong nhà”.
Có vẻ thấy ông già…khùng quá nên cô gái bỏ đi, vừa đi
vừa nói: - Họ là con người chớ bộ chuột bọ gì đâu mà ông tìm trong đống rác!
Ông già nhìn theo, nói lớn: - Mà tao có nói tụi nó là con người đâu? … (Vậy mà
) - Tao bươi hoài mà chưa gặp thằng nào hết. Một người đàn ông trong nhà nói
cho lấy có: - Vậy hả ông Hai? - Tụi nó chui rúc lì lắm. Mẹ bà nó! Hồi đó mà tao
biết như vầy, tụi nó có chung vô quần trốn, tao cũng cởi quần tao giũ cho chết
cha tụi nó hết! “Ông Đại Doanh Thương” (từng giấu nuôi Việt-cộng trong nhà) đó
bây giờ ngồi bươi đống rác giống như ổng bươi lại dĩ vãng của ổng, một dĩ vãng
mà rác rến vun đầy. Ổng đâu biết rằng, đối với Nhà Nước cách mạng, ổng cũng chỉ
là một thứ rác rến mà Nhà Nước đã vứt bỏ trên lề xã hội, không hơn không kém
…”.
Đời sống ở xứ người, có những bất ngờ vừa cảm động vừa bi
đát mấy ai tin; vậy mà nhân vật “tôi” đã trãi qua. Truyện Bài Ca Vọng Cổ là
truyện khiến Tiểu Tử được biết đến nhiều. Ông kể: “Tôi vượt biên một mình
rồi định cư ở Pháp. Năm đó tôi mới 49 tuổi, vậy mà đi tìm việc làm đến đâu
người ta cũng chê là tôi già! Vì vậy, một hôm, khi chải tóc, tôi nhìn kỹ tôi
trong gương. Tôi bỗng thấy ở đó có một người có vẻ như quen nhưng thật ra thì
rất lạ: mắt sâu, má hóp, mặt đầy nếp nhăn trên trán, ở đuôi mắt, ở khoé môi,
mái tóc đã ngả bạc cắt tỉa thô sơ như tự tay cắt lấy. Từ bao lâu nay tôi không
để ý, bây giờ soi gương vì bị chê già, tôi mới thấy rằng tôi của hồi trước
“Cách mạng thành công” và tôi của bây giờ - nghĩa là chỉ sau có mấy năm sống
dưới chế độ gọi là ưu việt - thật không giống nhau chút nào hết. Tôi già thiệt,
già trước tuổi. Cho nên, tôi nhìn tôi không ra. Từ đó, mỗi ngày tôi... tập nhìn
tôi một lần, nhìn kỹ, cho quen mắt!
Một người bạn làm việc lâu năm ở Côte d’Ivoire (Phi
Châu) hay tin tôi đã qua Pháp và vẫn còn thất nghiệp, bèn giới thiệu tôi cho
Công ty Đường mía của Nhà nước. Không biết anh ta nói thế nào mà họ nhận tôi
ngay, còn gởi cho tôi vé máy bay nữa!”
(…) Nơi tôi làm việc tên là Borotou, một cái làng nằm
cách thủ đô Abidjan gần 800 km! (…) Trong lúc tôi thiu thiu ngủ thì loáng
thoáng nghe có ai ca vọng cổ. Tôi mở mắt nhìn quanh rồi thở dài, nghĩ: “Tại
mình nhớ quê hương xứ sở quá nên trong đầu nghe ca như vậy”. Rồi lại nhắm mắt
lim dim... Lại nghe vọng cổ nữa. Mà lần này nghe rõ câu ngân nga trước khi
“xuống hò”: “Mấy nếp nhà tranh ẩn mình sau hàng tre rũ bóng... đang vươn lên
ngọn khói... á... lam... à... chiều...”.
Đúng rồi! Không phải ở trong đầu tôi, mà rõ ràng có ai
ca vọng cổ ngoài kia. Tôi nhìn ra hướng đó, thấy xa xa dưới lùm cây dại có một
người đen nằm võng. Và chỉ có người đó thôi. Lạ quá! Người đen đâu có nằm võng.
Tập quán của họ là nằm một loại ghế dài bằng gỗ cong cong. Ngay như loại ghế bố
thường thấy nằm dưới mấy cây dù to ở bãi biển... họ cũng ít dùng nữa.
Tò mò, tôi bước ra đi về hướng đó để xem là ai vừa ca
vọng cổ lại vừa nằm võng đong đưa. Thì ra là một anh đen còn trẻ, còn cái võng
là loại võng nhà binh của quân đội Việt Nam Cộng Hoà hồi xưa. Tôi nói bằng
tiếng Pháp: - Bonjour!
Anh ta ngừng ca, ngồi dậy nhìn tôi mỉm cười, rồi cũng
nói “Bonjour”. Tôi hỏi, vẫn bằng tiếng Pháp:
- Anh hát cái gì vậy?
Hắn đứng lên, vừa bước về phía tôi vừa trả lời bằng
tiếng Pháp:
- Một bài ca của Việt Nam. Còn ông? Có phải ông là le
chinois làm việc cho hãng đường ở Borotou không?
Tôi trả lời, vẫn bằng tiếng Pháp:
- Đúng và sai! Đúng là tôi làm việc ở Borotou. Còn sai
là vì tôi không phải là người Tàu. Tôi là người Việt Nam.
Bỗng hắn trợn mắt có vẻ vừa ngạc nhiên, vừa mừng rỡ, rồi
bật ra bằng tiếng Việt, giọng đặc sệt miền Nam, chẳng có một chút lơ lớ:
- Trời ơi!... Bác là người Việt Nam hả?
Rồi hắn vỗ lên ngực:
- Con cũng là người Việt Nam nè!
Thiếu chút nữa là tôi bật cười. Nhưng
tôi kềm lại kịp, khi tôi nhìn gương mặt rạng rỡ vì sung sướng của hắn. Rồi tôi
bỗng nghe một xúc động dâng tràn lên cổ. Thân đã lưu vong, lại “trôi sông lạc
chợ” đến cái xứ “khỉ ho cò gáy” này mà gặp được một người biết nói tiếng Việt
Nam và biết nhận mình là người Việt Nam, dù là một người đen, sao thấy quý vô
cùng. Hình ảnh của quê hương như đang ngời lên trước mặt...
Tôi bước tới bắt tay hắn. Hắn bắt tay tôi bằng cả hai
bàn tay, vừa lắc vừa nói huyên thuyên:
- Trời ơi!... Con mừng quá! Mừng quá! Trời ơi!... Bác
biết không? Bao nhiêu năm nay con thèm gặp người Việt để nói chuyện cho đã. Bây
giờ gặp bác, thiệt... con mừng “hết lớn” bác à!”
(…) “Hắn móc gói thuốc, rút lòi ra một điếu, rồi đưa mời
tôi:
- Mời bác hút với con một điếu.
Hắn đưa gói thuốc về phía tôi, mời bằng hai tay. Một cử
chỉ mà từ lâu tôi không còn nhìn thấy. Một cử chỉ nói lên sự kính trọng người
trưởng thượng. Tôi thấy ở đó một “cái gì” rất Việt Nam.
Tôi rút điếu thuốc để lên môi. Hắn chẹt quẹt máy, đưa
ngọn lửa lên đầu điếu thuốc, một tay che che như trời đang có gió. Tôi bập
thuốc rồi ngạc nhiên nhìn xuống cái quẹt máy. Hắn nhăn răng cười:
- Bác nhìn ra nó rồi hả?
Tôi vừa nhả khói thuốc vừa gật đầu. Đó là loại quẹt máy
Việt Nam, nho nhỏ, dẹp lép, đầu đít có nét cong cong. Muốn quẹt phải lấy hẳn
cái nắp ra chớ nó không dính vào thân ống quẹt bằng một bản lề nhỏ như những
quẹt máy ngoại quốc. Hắn cầm ống quẹt, vừa lật qua lật lại vừa nhìn một cách
trìu mến:
- Của ông ngoại con cho đó! Ổng cho, hồi ổng còn sống
lận.
Rồi hắn bật cười:
- Hồi đó ổng gọi con bằng “thằng Lọ Nồi”.
Ngừng một chút rồi tiếp:
- Vậy mà ổng thương con lắm à bác!
Hắn đốt điếu thuốc, hít một hơi dài rồi nhả khói ra từ
từ. Nhìn cách nhả khói của hắn tôi biết hắn đang sống lại bằng nhiều kỷ niệm...
Tôi nói:
- Vậy là cháu lai Việt Nam à?
- Dạ. Má con quê ở Nha Trang.
- Rồi má cháu bây giờ ở đâu?
Giọng của hắn như nghẹn lại:
- Má con chết rồi. Chết ở Nha Trang hồi Việt cộng vô năm
1975.
- Còn ba của cháu?
- Ổng hiện ở Paris. Tụi này nhờ có dân Tây nên sau 1975
được hồi hương. Con đi quân dịch cho Pháp xong rồi, về đây ở với bà nội. Con
sanh ra và lớn lên ở Sài Gòn, về đây, buồn thúi ruột thúi gan luôn!
(…) Tôi im lặng nghe hắn nói, nhìn hắn nói mà có cảm
tưởng như hắn đang nói cho cả hai: cho hắn và cho tôi. Bởi vì cả hai cùng một
tâm trạng...
Hắn vẫn nói, như hắn thèm nói từ lâu:
- Nhớ Sài Gòn quá nên con hay ca vọng cổ cho đỡ buồn.
Hồi nãy bác lại đây là lúc con đang ca bài “Đường về quê ngoại” đó bác.
- Bác không biết ca, nhưng bác rất thích nghe vọng cổ.
Giọng nói của hắn bỗng như hăng lên:
- Vọng cổ là cái chất của miền Nam mà bác. Nó không có
lai Âu lai Á gì hết. Nó có cái hồn Việt Nam cũng như cá kho tộ, tô canh chua.
Bác thấy không? Bởi vậy, không có gì nhắc cho con nhớ Việt Nam bằng bài ca vọng
cổ hết.
- Bác cũng vậy.
Tôi nói, mà thầm phục sự hiểu biết sâu sắc của hắn. Và
tôi thấy rất vui khi có một người như vậy để chuyện trò từ đây về sau... Có
tiếng máy bay đang đánh một vòng trên trời. Chúng tôi cùng đứng lên, hắn nói:
- Nó tới rồi đó. Con phải sửa soạn xe trắc-tơ và rờ-mọt
để lấy hành lý. Con làm việc cho hãng Air Afrique, bác à.
Rồi hắn nắm tay tôi lắc mạnh:
- Thôi, bác đi mạnh giỏi. Con tên là
Jean. Ở đây ai cũng biết “Jean le vietnamien” hết. Chừng về bác ghé con chơi,
nghen.
Bỗng, hắn ôm chầm lấy tôi siết nhẹ, rồi giữ như vậy
không biết bao nhiêu lâu. Tôi nghe giọng hắn lạc đi:
- Ghé con nghe bác... Ghé con...
Tôi không còn nói được gì hết. Chỉ vừa gật gật đầu, vừa
vỗ vỗ vào lưng hắn như vỗ lưng một người con...
Khi hắn buông tôi ra, tôi thấy hai má của hắn ướt nước
mắt. Tôi vội vã quay đi, lầm lũi bước nhanh nhanh về nhà ga mà nghĩ thương cho
“thằng Jean le vietnamien”. Hồi nãy, nó ôm tôi, có lẽ nó đã tưởng tượng như là
nó đang ôm lại được một góc trời quê mẹ...
...Trên máy bay, tôi miên man nghĩ đến “thằng Jean” rồi
tự hứa sẽ gặp lại nó thường. Để cho nó bớt cô đơn. Và cũng để cho tôi bớt cô
đơn nữa!
Bây giờ, viết lại chuyện thằng Jean mà tôi tự hỏi:
“Trong vô số người Việt Nam lưu vong hôm nay, còn
được bao nhiêu người khi nhìn trong gương vẫn nhận ra mình là người Việt Nam?”.
“Và có được bao nhiêu người còn
mang mểnh trong lòng bài ca vọng cổ, để thấy hình ảnh quê hương vẫn còn nằm
nguyên trong đó?”.
Trong Những Mảnh Vụn, người yêu “đi chui bán chánh thức”, nghĩa là đi vượt biển do
cán bộ tổ chức, biệt tăm, chắc mất xác vì tầu quá cũ bị chìm, anh Bẩy suốt
ngày, như một người mất hồn, đi qua lại tất cả những nơi ngày xưa hai người vẫn
hẹn hò. “Bẩy không biết mình đang đi lượm những những mảnh vụn của cuộc
tình. Nếu không có cái “ngày cách mạng thành công” đã thật sự thành công trong
nhiệm vụ đập nát tất cả những gì của miền Nam, kể cả những gì nhỏ bé nhứt, tầm
thường nhứt như tình yêu của chàng trai và cô gái đó”. Bà Năm cháo lòng thì
“vẫn bán cháo lòng, lâu lâu vẫn chửi thằng con mà giống như bà chửi cả
nước”.
Chiếc Khăn Mùi Xoa có thể coi là
sáng tác điển hình có thể gắn nhãn hiệu cầu tòa “Tiểu Tử”, trong đó có sự xúc
động cao độ, đẫm nước mắt, với những nhân vật nhân hậu, tình nghiã, những chi
tiết éo le như một cuốn phim tình lãng mạn, nhưng đơn giản, chân thực.
Một người Việt tị nạn ở Pháp về
thăm nhà, gặp những người bạn học cũ, trong đó có nhân vật chính, “con Huê”
thực ra là một người đàn bà đã đứng tuổi. Ông ta kể lại cho một người bạn: “Con
Huê tiễn tao ra cổng, đứng ngập ngừng một lát rồi bỗng nói một mạch, là lạ, như
tụi mình trả bài thuộc lòng thuở nhỏ: Anh qua bên Tây, gặp anh Cương nói em gởi
lời thăm ảnh. Nó nói rồi bỏ chạy vội vào trong, tao thấy nó đưa tay quệt nước
mắt mấy lần. Tao đứng chết trân, nhớ lại lời con Nhàn, em con Huê nói với tao:
Anh biết không, chị Huê thương anh Cương từ hồi còn nhỏ lận. Người con gái ở
quê mình nó thật thà, trung hậu đến mức độ mà khi trót thương ai thì thương cho
đến chết. Họ coi đó là tự nhiên, phải có nước lớn nước ròng”. Một chuyện
tình... thất lạc, chia lìa vì chiến tranh. “Con Huê” yêu người bạn trai ngày
xưa tên là Cương, từ ngày còn đi học cho tới nay khi đã bạc đầu, dù sóng gíó
năm 1975 đã khiến người bạn bỏ nước đi lánh nạn. Cương lập gia đình, có cô con
gái, đang sống ở Bruxelles, đọc truyện, cho tác giả Tiểu Tử hay cha mẹ cô đều
đã qua đời. Nhưng trước khi chết, Cương dặn con gái: «Con ráng tìm cách về Nhơn
Hoà, Cầu Cỏ, trao cái này cho cô Hai Huê, nói ba không quên ai hết». «Cái này»
là một bao thư, trong đó có chiếc khăn mùi xoa cô Huê đã tặng Cương thời trẻ.
Người con gái thấy thương cha, thương cô Hai Huê nên về Việt Nam xa lạ với cô,
tìm về Nhơn Hoà, Cầu Cỏ, tìm người bà tên Huê để trao lại kỷ vật của người đã
qua đời. Cô Hai Huê xỉu đi khi nghe tin người bạn xưa đã chết. Hai người đàn
bà, một già, một trẻ ôm nhau khóc.
*
Tiểu Tử ghi lại bi kịch của các nhân vật, của tôi, của
anh, của mỗi người. Mỗi câu chuyện cuả ông là một bi hài kịch của một thời đảo
điên. Dân tộc mà người xa người, quê cha
đất tổ thành nơi “kẻ thắng” chia nhau chiếm hữu, làm già.
Truyện ngắn Tiểu Tử, với lối hành văn bình dị, linh động
là một cuốn tự điển sống của ngôn ngữ miền Nam thời chưa loạn và đã loạn.
Truyện ngắn và bút ký của Tiểu Tử là những giọt nước mắt, những tiếng thở dài,
nụ cười vui hoặc bất cần đời của những ngày an bình, thịnh vượng cũng như trong
cơn loạn lạc, đớn đau cùng cực. Ông là một nhân chứng quý báu của một giai đoạn
bi thảm, một cuộc đổi đời kinh hoàng nhất trong lịch sử đất Việt.
[Văn-học
Việt-Nam 50 Năm Hải ngoại. Q. Hạ, 2025, tr. 427-437]