Tôi
sinh ra ở làng Phú Xuân, thành phố Huế, lớn lên bên dòng sông Hương, từng đắm
mình trong dòng nước đó suốt tuổi thơ của tôi trong những ngày rực nắng cũng
như trong cơn mưa bão, nước lũ ngập tràn… Đến khi lớn lên, đi tới đâu nhìn thấy
những dòng sông mà tôi đặt chân đến, tôi cứ tưởng chừng như sau những tháng
ngày lưu lạc kiếm sống đang quay trở về bến cũ và lần nào cũng thế, tôi chỉ
muốn lao xuống ngụp lặn trong dòng nước đó hoặc lấy hai bàn tay vốc nước dội
lên mặt để tìm thấy sự hồi sinh.
Ít
nhất cho đến nay, tôi đã ba lần đến với dòng sông Potomac ở Washington
DC. Sông
Potomac bắt nguồn từ đông bắc của tiểu bang West Virginia chảy dọc
theo biên giới giữa tiểu bang Maryland và Virginia, xuyên qua phía nam Thủ đô
Washington DC làm thành đường phân chia DC và Virginia, rồi đổ vào vịnh Chesapeake, một vịnh nằm ở bờ biển Đại Tây
Dương. Trên thượng nguồn chiều ngang con sông hơi hẹp rồi
rộng dần ra ở đoạn gần DC để đổ ra biển. Chiều dài sông Potomac là 383 miles
(616 km), lưu vực vào khoảng 14.000 dậm vuông (38.000 km2) được xem là một
trong bốn con sông lớn nhất bên bờ Đại Tây Dương của Hoa Kỳ.
Washington DC thủ đô của nước Mỹ, mang tên chính thức District of Columbia (viết tắt D.C ) có nghĩa Đặc khu Columbia hay Quận Columbia. Thật sự, người Mỹ thường gọi Washington DC là “DC”, chứ không gọi Washington trống không vì dễ nhầm lẫn với tiểu bang Washington bên miền Tây. Thủ đô Washington DC được thành lập vào ngày 16.7.1790. Thành phố Washington DC ban đầu là một đô thị tự quản riêng biệt bên trong lãnh thổ Columbia cho đến khi một đạo luật của Quốc hội Hoa Kỳ năm 1871 có hiệu lực kết hợp thành phố và lãnh thổ này thành một thực thể duy nhất được gọi là Đặc khu Columbia.
Năm 1910, Quốc hội Mỹ thông qua đạo luật về chiều cao của
nhà cao tầng (Heights of Building Act of 1910) quy định không có tòa nhà cao
tầng nào được phép xây cao hơn Tòa nhà Quốc hội Hoa Kỳ – Điện Capitol.
Ngày nay đường chân trời của thành phố vẫn thấp và trải
dài, giữ đúng ước nguyện của Tổng thống Thomas Jefferson, muốn biến Washington
DC thành một “Paris của nước Mỹ” với các “tòa nhà thấp và tiện lợi” – bên
trên những đường phố “sáng sủa và thoáng khí”.
Trung tâm của khu Mall là Washington Monument, cột tháp
cao gần 170 m. Đây còn được gọi là Tháp bút chì. Từ đỉnh tháp du khách có thể
quan sát toàn thành phố. Nếu trời đẹp, từ vị trí này có thể nhìn xa tới 40 km.
Washington DC nối với Virginia bằng cây cầu Key bắc ngang
qua dòng Potomac. Đêm đứng bên Virginia nhìn sang thấy thủ đô nước Mỹ chập
chùng ánh đèn như những dải sao sáng lấp lánh và vô tận, với Tòa nhà Quốc hội
và Tháp bút chì sáng rực như một khối thủy tinh khổng lồ.
Ban ngày đứng bên phía Washington DC nhìn sang thấy bạt
ngàn rừng cây đang thay lá. Khi vào thu, những chiếc lá vàng và đỏ đan chen vào
nhau, cuộn xoắn bên nhau tạo thành một dải cầu vồng óng ả vắt ngang trên bầu
trời trong, bỗng chốc nghe trong gió dậy lên mùi hương thơm ngọt ngào quyến rũ.
Để được đến Mỹ, lần đầu tiên, tôi phải bay ra Hà Nội xin
Visa vì Tổng lãnh sự quán Thành phố Hồ Chí Minh không được phép giải quyết. Sau
khi hoàn tất thủ tục, tháng 9-1998 tôi lấy vé China Airlines bay từ phi trường
Tân Sơn Nhất đi Taipei thẳng đến California, nơi hai đứa con gái tôi đang theo
học. Vì tò mò muốn biết thủ đô nước Mỹ, tôi mua vé từ Orange County (phi trường
John Wayne) đi Washington DC quá cảnh phi trường Houston.
Do không tham khảo, tìm hiểu về nơi sắp đặt chân đến, tôi
lơ ngơ, chung quanh tôi chỉ toàn những người xa lạ, nên chỉ sau 3 ngày một mình
“cỡi ngựa xem hoa”, tôi không còn cảm thấy hứng thú để tiếp tục cuộc hành trình
không mục đích của mình, đành đổi vé bay về lại California đi chơi loanh quanh,
một số nơi như phim trường Hollywood, Disneyland, Las Vegas. Rồi đến San
Francisco thăm cầu Golden Gate, đến trường Đại học Stanford, trường Đại học
Berkeley... với hai đứa con gái tôi, chờ ngày quay trở về Việt Nam với bao công
việc đang chờ đợi sau hơn một tháng rong chơi.
Trước ngày từ giã nước Mỹ để bay về Việt Nam, bất ngờ tôi
nhận được thư của Đinh Cường. Cường là bạn thân của tôi, gắn bó với tôi từ
những năm còn ở Huế, đang sống ở Virginia, nơi tôi vừa đến đã vội đi. Tôi đành
hẹn Cường trong chuyến đi sau.
Lần thứ hai tôi đến Washington DC vào tháng ba năm 2003,
lần nầy tôi có chuẩn bị và liên lạc trước khi lên đường. Đinh Cường đề nghị tôi
nên đi vào tháng ba và đã chủ động mua vé máy bay cho tôi từ California đến
Virginia.
Chuyến đi đến Virginia lần thứ hai tôi cũng khởi hành từ Orange County quá cảnh phi trường Houston, Texas. Khi máy bay đáp xuống phi trường John Foster Duller thì đã khuya trong cái giá lạnh như cắt của bầu trời thủ đô Mỹ trong những ngày đầu xuân. Cường và con trai đón tôi tại phi trường. Sợ tôi không chuẩn bị, Cường đã mang theo chiếc áo ấm choàng vào người tôi, mặc dù tôi đã mặc hai ba cái áo ấm mà con gái tôi đã cẩn thận khoác lên người tôi trước khi đi.
Mục
đích của Đinh Cường là muốn tôi đến Virginia vào tháng này là để tôi được
thưởng ngoạn Ngày hội Hoa Anh đào (National Cherry Blossom
Festival) ở Washington D.C. Lễ hội này thường được tổ chức vào khoảng 26.3 đến
10.4 hằng năm. Nhưng trước khi tiếp xúc với hoa Anh đào, tôi muốn cùng bạn đọc
tìm hiểu sự tích về cây hoa đặc biệt này : Sakura là quốc hoa của Nhật bản. Đặc điểm của nó là
rơi trong khi còn đương độ tươi thắm. Hoa anh đào tượng trưng cho tinh thần võ
sĩ đạo – samurai – biết chết một cách cao đẹp.
Chuyện kể rằng, ngày xưa ở xứ Phù
Tang (Nhật Bản) chưa có hoa anh đào như bây giờ. Tại một ngôi làng xinh xinh
ven núi Phú Sĩ, có một chàng trai khôi ngô tuấn tú dũng cảm khác thường.
Vị Samurai ngắm nhìn chàng trai từ
đầu đến chân, trầm ngâm suy tư bất động hàng giờ liền. Cuối cùng ông thở dài
lẩm bẩm một mình “oan nghiệt” và chấp thuận. Thời gian thấm thoát thoi đưa,
tuổi 18 thanh xuân tràn trề sức sống đến với người kiếm sĩ. Tay kiếm của chàng
khiến những Samurai kiêu hùng nhất cũng phải e dè. Nhưng còn thanh sắt ? Chàng
đã tự mình rèn nó thành thanh kiếm sáng ngời đầy uy lực, nhưng chưa được. Một
thanh kiếm báu thực sự phải được tắm mình trong máu ngay trong ngày khai trận.
Biết nhúng lưỡi thép uy lực này vào máu ai khi chàng chưa hề có kẻ thù, khi
chàng chưa hề đối mặt với kẻ cướp, khi chàng chưa tìm được bất cứ lý do gì để
quyết đấu một phen ?
Cô gái mỉm cười đau đớn. Cô chỉ hỏi
để khẳng định quyết tâm của mình thôi.
- Anh thân yêu ! Cho em được cầm
lấy thanh kiếm của chàng một chút thôi.
Cầm thanh kiếm đen bóng, sắc lạnh
cô gái nhìn chàng bằng ánh mắt buồn thăm thẳm rồi đột ngột đâm thẳng vào tim.
Máu trào ra ướt đẫm tấm thân mảnh dẻ của nàng, nhuộm đỏ chiếc áo Kimono trắng
nõn, trinh bạch. Chàng trai hốt hoảng rú lên kinh hoàng, vươn tay rút phăng
thanh kiếm khỏi lồng ngực cô gái. Dưới ánh lửa bập bùng, thanh kiếm ngời sắc
xanh rực rỡ, hào quang loé lên lộng lẫy lạ thường: nó đã được no mình trong
máu !
Nhưng từ đó, chàng trai hoàn toàn
cô độc. Không Samurai nào thèm kết bạn với anh. Họ nhìn sang chỗ khác khi đối
mặt trên con đường hẹp. Họ rời khỏi quán trà khi anh bước vào. Họ từ chối khi
anh thách đấu.
Cho đến một hôm, một buổi chiều mùa
đông, khi những bông tuyết đầu mùa vừa rơi, chàng trai ôm thanh kiếm đến bên mộ
cô gái. Chàng thì thầm :
- Tha lỗi cho anh. Anh đã hiểu ra
rồi…
Chàng bình thản cắm sâu mũi kiếm
vào bụng rạch một đường mạnh mẽ và rút kiếm ra nằm gục bên cạnh mộ. Thanh bảo
kiếm cắm sâu vào mộ đất… tuyết không ngừng rơi… đến sáng. Tuyết đã ôm trọn
chàng trai và ngôi mộ vào vòng tay của mình. Chỉ còn lại một cây hoa lạ, mơn
mởn vươn lên tươi cười, hồng thắm. Không ai biết hoa hóa thân từ thanh kiếm ấy.
Người ta dặt tên hoa là Anh đào. Hoa anh đào có nhiều loại mọc được ở nhiều
nơi. Nhưng không nơi đâu đẹp bằng hoa đươc ươm mầm và trổ bông ở vùng núi Phú
sĩ.
Nhật Bản có câu : “A flower
is a cherry blossom, a person is a Samurai” (Nếu là hoa, xin làm hoa anh
đào. Nếu là người, xin làm một võ sĩ đạo). Điều đó có nghĩa là, khi một võ sĩ
đạo đối mặt với hiểm nguy, anh ta không run sợ trước cái chết, bởi vì, giống
như hoa anh đào, anh ta sẽ tự đâm mình và gục xuống ngay lập tức, không ngần
ngại.
Nhiều người tự hỏi có phài hoa anh
đào là một loài hoa tình yêu hay không ? Một tình yêu mãnh liệt vào đạo,
vào sự nghiệp võ sĩ.
Đối với người Nhật Bản, hoa anh đào
không chỉ tượng trưng cho vẻ đẹp thanh cao mà còn là nỗi buồn về sự ngắn ngủi,
phù dung và tính khiêm nhường, nhẫn nhịn. Cây hoa anh đào đem tặng được xem như
biểu tượng hòa bình của nước Nhật với các nước khác trên thế giới. Hoa anh đào
mọc ở Triều Tiên và Mỹ không có mùi hương. Trong khi đó, ở Nhật Bản, người ta
ngợi ca hương thơm của hoa anh đào trong những vần thơ. Trong ngôn ngữ Nhật,
nhất là trong thơ ca, chữ “hana” (hoa) và “sakura” hầu như đồng nghĩa.
Hoa anh đào nở báo hiệu mùa xuân
đến. Suốt tuần lễ thứ hai của tháng Tư, lễ hội hoa anh đào được tổ chức khắp
nơi đón mùa xuân mới và mọi người tụ tập trong các buổi tiệc ngắm hoa
“ohanami”.
Được
biết vào năm 1885, người đầu tiên đưa phương án trồng hoa Anh đào quanh sông
Potomac là một phụ nữ, bà Eliza Scidmore. Mười một năm sau, năm 1906, một trăm
cây anh đào được nhập về trồng thử. Đến năm 1909, mới có đợt trồng đại trà 2000
cây với sự tham gia tích cực của người khởi xướng từ 24 năm trước, bà Scidmore.
Những
nhánh hoa Anh đào đầu tiên do thành phố Tokyo tặng thành phố Washington. Buổi
lễ chính thức trồng cành Anh đào được tổ chức ở bờ Bắc của Tidal Basin ngày
27.3.1912 do bà Helen Herron Taft, Phu nhân Tổng thống Hoa Kỳ William Howard
Taft trồng nhánh cây thứ nhất, Phu nhân Tử tước Chinda, Đại sứ Nhật Bản tại Hoa
Kỳ trồng nhánh thứ hai. Đây là đợt thứ nhất, gồm 3020 nhánh Anh đào, hơn phân
nửa thuộc họ Anh đào Somei-Yoshino trồng quanh công viên bờ hồ Tidal Basin.
Tidal Basin là một hồ nhân tạo giữa sông Potomac và kênh Washington, là một
phần của công viên phía tây của sông Potomac và là tâm điểm của Lễ hội quốc gia
hoa Anh đào được tổ chức vào mỗi mùa xuân. Lưu vực hồ có diện tích khoảng
107 mẫu Anh (43 ha) và 10 feet (3,0 m) sâu.
Từ
những năm 1880, muốn có hồ này người Mỹ đã phải đào bới từ một đầm nhỏ, bằng
sức người sức của, để biến thành cái hồ đẹp như ngày nay. Tidal Basin thông với
sông Potomac, có thuỷ triều lên xuống, nước trong xanh, nhiều cá tự nhiên và
khá sạch. Xung quanh hồ trồng nhiều hơn cả là cây Anh đào. Xuân về hoa anh
đào nở ngập tràn quanh bờ hồ Tidal Basin cạnh dòng sông Potomac.
Năm
1965, Nhật đã tặng thêm cho Hoa Kỳ 3800 Anh đào Yoshino. Lập lại khung cảnh của
buổi lễ lịch sử hơn nửa thế kỷ trước đã diễn ra năm 1912. Bà Bird Johnson Phu
nhân Tổng thống Hoa Kỳ Lyndon Baines Johnson và bà Ryuji Takeuchi, Phu nhân Đại
sứ Nhật Bản tại Hoa Kỳ đã cùng trồng tượng trưng các cây Anh đào này cũng ở bên
hồ Tidal Basin, ngày 6.4.1965 trong mùa hoa Anh đào. Sau đó đem trồng ở công
viên đài tưởng niệm cố Tổng thống George Washington.
Trong
số 12 loại hoa Anh đào du nhập lớp sau này, du khách ngày nay chỉ còn
tìm thấy hai loại chính : Yoshino có tên khoa học là Prunus
Yedoensis ; Kwanzan có tên khoa học là Prunus
Serrulata ; và một loại thứ ba là Akebono ghép chiết từ hai
loại trên kia. Cây Yoshino thường mọc toả rộng theo chiều ngang, cao
từ 30 tới 50 feet. Hoa loại cây này có năm cánh và toả hương thơm mùi
hạnh nhân. Khi mới nở hoa có mầu hồng nhạt, rồi đổi ra màu trắng khi
đã mãn khai.
Kwanzan
cũng có cánh màu hồng nhạt, nhưng cánh và đài hoa dính chùm vào
nhau, hoa cũng trổ bông từng cụm. Còn Akebono trổ nụ màu hồng khi nở
lại ra hoa màu tím. Khi đã trưởng thành, có thể là màu hồng
nhạt. Mùa Anh đào nở sớm muộn khác nhau từng năm. Mỗi năm các
chuyên viên hoa thuộc sở lâm viên quan sát các nụ hoa và thời tiết để
tiên đoán ngày hoa nở rộ, rồi công bố cho khách yêu hoa khắp nơi trên
thế giới đến trẩy hội hoa Anh đào. Năm 2003 hội hoa bắt đầu từ 24.3 đến
8.4 dương lịch. Lễ hội hoa Anh đào bên Nhật đã có từ lâu lắm trong
khi bên Mỹ mới bất đầu từ năm 1935.
Không
xa bờ hồ có cây Đèn Đá cổ Nhật Bản, hằng năm đến mùa hoa Anh đào ở thủ đô
Washington, Sở Công viên Quốc gia và Hội đồng Quốc gia về Hội đoàn Tiểu bang
đồng chủ tọa lễ hội mùa Anh đào, có sự tham dự của Tòa Đại sứ Nhật Bản bình
chọn “Công chúa mùa Anh đào“ (Cherry Blossom Princess).
Đèn
đá xưa hơn ba thế kỷ, cao 2,5 m, tạc bằng đá hoa cương, được thắp sáng lần đầu
tiên năm 1851; Nhật Bản tặng cho thủ đô Washington năm 1954, kỷ niệm 100 năm
Hiệp ước Mỹ Nhật Hòa bình Hữu nghị Thương mãi ký ngày 31.3.1854 tại Yokohama.
Năm
2003, ngày Lễ hội hoa Anh đào đã được tổ chức như mọi năm, cũng quy tụ đại diện
học sinh trung học từ các tiểu bang về thủ đô diễu hành với ban nhạc, xe hoa,
màu sắc sặc sỡ. Buổi tối có bắn phóa hoa trên hồ Tidal Basin.
Năm
đó, những ngày đầu của Lễ hội hoa Anh đào ở thủ đô Washington DC nắng đẹp,
quanh hồ thủy triều nhộn nhịp những người đi ngoạn cảnh, không riêng những
người sống ở Washington hoặc những vùng lân cận, mà còn có những gia đình người
Mỹ từ các thành phố, các tiểu bang, cũng như du khách khắp nơi trên thế giới đổ
xô về ngắm cảnh, quay phim, chụp hình lưu niệm.
Lễ
hội hoa Anh đào thường bắt đầu khoảng cuối tháng 3 đến đầu tháng 4 hằng năm
nhưng thời điểm bắt đầu thì mỗi năm không giống nhau, tùy thuộc vào ngày hoa
nở. Người ta phân loại anh đào ra năm cấp độ nở hoa, từ lúc nẩy nụ đến khi mãn
khai, với các tiêu chí cụ thể để đoán tiến độ nở hoa, rồi cứ theo đó mà cập
nhật và thông báo cho người yêu thích thưởng lãm hoa đến các liên bang chuẩn bị
ngày về tham dự Lễ hội hoa Anh đào. Thời gian hoa đẹp nhất thật ra chỉ khoảng 5
ngày hoặc một tuần. Cả cây là một khối toàn hoa, hoa phủ kín cành, không có lá.
Có những cây thả cành nghiêng mình xuống chạm mặt thảm cỏ, có cây uốn cong vờn
lên mặt nước hồ. Có cây uốn thành vòm, vòm tiếp vòm, cuồn cuộn như sóng mây
trùng điệp khác nào chốn Thiên thai như trong tưởng tượng.
Hoa
Anh đào ở đây được trồng dày theo hàng ngang, hàng dọc, ôm quanh bờ Tidal Basin
tràn ra bờ sông Potomac, tỏa vào các ngã đường quanh khu công viên trung tâm,
nơi tập trung rất nhiều đài tưởng niệm. Đài tưởng niệm Thomas Jefferson, Khu tưởng niệm Franklin Delano Roosevelt,
và Đài tưởng niệm Chiến tranh Đặc khu Columbia nằm gần Tidal Basin,
Nhà tưởng niệm Abraham Lincoln, Đài tưởng niệm Quốc gia Đệ nhị Thế chiến nằm ở cuối phía đông Hồ
phản chiếu nhà Tưởng niệm Lincoln, Đài tưởng niệm Cựu chiến binh
Chiến tranh Triều Tiên, Đài tưởng niệm Cựu chiến binh Chiến tranh Việt Nam với
bức tường đá đen khổng lồ, ghi khắc tất cả họ tên những người lính Mỹ đã không
trở về nhà... và Đài
tưởng niệm Albert Einstein. Cơ quan Quản lý Văn khố Quốc gia (National
Archives and Records Administration) cất giữ hàng ngàn tài liệu quan trọng.
Tất cả đều ẩn núp trong hoa. Nhưng gắn bó với cảnh trí anh đào nhiều nhất là
đài tưởng niệm Thomas Jefferson. Đài không nằm trong trục chính công viên mà
chếch sang phía bên, gắn với Tidal Basin nối liền vào vòng đai hoa khổng lồ ôm
quanh vịnh. Hoa bao trùm che phủ mặt đất, chỉ le lói những khoảng ánh sáng vừa
đủ gây cảm tưởng đây là nơi đất trời giao ngộ . Người đi lẫn trong hoa, hoa
chen vào phố xá, hoa ngập ngừng kín đáo điểm trang cho cuộc sống sinh động nơi đây...
Công viên thủ đô Washington DC mùa Anh đào nở rộ quanh hồ
thủy triều, suốt buổi chiều ánh nắng rọi từ hướng Tây, phản chiếu lung linh
trên mặt nước, gió lay nhẹ cành Anh đào, những cánh hoa trắng hay hồng nhạt bay
rớt trên tóc nhũng cô gái trẻ, với nụ cười rạng rỡ. Có những cánh hoa bay xuống
hồ, dưới chân bờ đá, phủ lên mặt nước như những thảm hoa màu hồng nhạt trôi nổi
bồng bềnh.
Tất cả vẻ đẹp thơ mộng của Lễ hội hoa Anh đào tưởng như
miên viễn dịu vợi, hay ít ra cũng kéo dài được 17 ngày như thường lệ, nhưng
không phải thế. Sau chỉ hơn một tuần, buổi chiều hôm đó, có gió mạnh, cơn mưa
đột ngột đổ xuống dữ dội và kéo dài đến khuya. Sáng hôm sau khi chúng tôi đi
qua, thì công viên hoa Anh đào trở nên xơ xác, rơi rụng vương rãi dưới gốc,
khép lại ngày Lễ hội hoa Anh đào trong lòng người với bao nuối tiếc, hy vọng
được trở lại những ngày này của những mùa sau... Và cuộc sống vẫn cứ thế…
Một chiều muộn, Đinh Cường rủ tôi ra ngồi ngoài bờ sông
Potomac. Con đường chạy trên bờ sông ấy bây giờ tôi đã không còn nhớ tên. Chỉ
nhớ nó vắng vẻ và bình yên. Bên đường những thân cây thẳng và cao vút lên đang
nhạt dần trong bóng tối. Trên đó đã có sẵn tự bao giờ một chiếc bàn và những
chiếc ghế con ghép vụng về bằng những thanh gỗ cũ còn nguyên vỏ… Hai lon nước
suối nằm lăn lóc trên mặt bàn.
Cường bảo với tôi :
- Trước mình, hình như đã có đôi tình nhân đến ngồi đây.
Tôi mỉm cười với ý nghĩ lãng mạn bất chợt của
Cường :
- Ừ… một đôi tình nhân, nhưng chắc đã không còn trẻ.
- Lý do nào mà ông quả quyết đôi tình nhân đó đã không
còn trẻ nữa ?
Tôi cười :
- Tôi cũng không biết tại sao, nhưng theo tôi nghĩ, nếu
họ còn trẻ chắc họ sẽ không tìm đến nơi này. Chỉ có tuổi đời như mình mới đi
tìm sự tĩnh lặng.
Đinh Cường và tôi ngồi xuống một chiếc ghế băng nhỏ,
tưởng chỉ cựa quậy mạnh một chút chiếc ghế - sẽ gãy và sẽ đổ nhào xuống sông.
Trong gió có mùi hương thoang thoảng ngây ngất. Tôi hít sâu lồng ngực, nghe xen
lẫn mùi cỏ dại, mùi hoa cúc hoang bốc lên từ những gò mối. Gió lùa buồn bã qua
tàn cây mang theo những chiếc lá mỏng chạm vào vai tôi dịu dàng. Tôi quay qua
nói với Cường :
- Không khí này tôi tưởng chừng quen lắm. Đó là khi tôi
còn dạy học ở một thị trấn trên Tây nguyên. Vào đầu thu, ở đó cũng có con suối
nước đầy quanh năm. Cũng có bờ cỏ dại với những hoa quỳ vàng. Cũng có chiếc cầu
làm bằng chính thân cây bắc ngang hai bờ. Có thể cũng đã có những đôi tình nhân
đến ngồi trên những tãng đá và ngắm đất trời chuyển màu theo thời gian. Cũng có
gió, có mây bay, có tiếng chim vỗ cánh – và cả tiếng nai cất tiếng táp lên gọi
đàn, có những ngày rộn ràng và đêm bình yên.
Chiều hôm đó, tôi và Đinh Cường ngồi ngắm mặt trời lặn và
đợi trăng lên. Bầu trời trên đầu chúng tôi trở nên gần hơn. Gió thổi quanh
chúng tôi trở nên ấm áp hơn. Tôi tưởng như ý nghĩa thời gian không bao giờ tồn
tại trong phút giây ngưng đọng đó !
Sáng hôm sau, Đinh Cường đưa tôi vào Nhà Triển lãm Nghệ
thuật Quốc gia (National Gallery of Art). Vào tòa nhà chính là West Building
bằng phía dãy công viên cỏ xanh National Mall, tòa nhà hoàn thành năm 1941 bên
ngoài cẩn đá hoa cương màu hồng lấy từ Tennessee với kiểu kiến trúc Tân cổ
điển, mặt trước là gian nhà theo kiểu Hy Lạp với 8 cột to chống
mái nhà hình tam giác. Hai dãy nhà chạy dài cân đều hai bên và giữa là gian đại
sảnh phía trên có mái vòm hình bán cầu theo kiểu đền Pantheon ở Rome. Bên trong
tòa nhà phía Tây trưng bày những họa phẩm sơn dầu của Âu Châu từ thời Trung cổ
cho đến cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 là những bức tranh của các họa sĩ Mỹ.
Đinh Cường là một họa sĩ, nhưng tôi thì không am hiểu mấy về nghệ thuật hội
họa. Cường cho biết nơi đây giá trị nhất là những bức tranh Ý thời Phục hưng
nên vừa vào là Cường hướng dẫn tôi tìm xem các bức tranh thời Phục Hưng. Quả
không sai khu triển lãm tranh thời Phục hưng rất đông du khách. Tác phẩm lớn
nhất là bức Maest của Duccio di Buoninsegna vẽ năm 1308 đến
1311 là bức hoành phi để phía sau bàn thờ diễn tả Ðức Mẹ Mary ngồi bế Chúa
Jesus Hài Ðồng.
Đinh Cường nhìn tôi giải thích :
- Chất liệu bức tranh dầu sơn có đặc tính phản chiếu ánh
sáng (pigment) trộn với lòng đỏ trứng và kim sa (vàng vụn), nhìn bức tranh óng
ánh và thay đổi ánh sáng khi người xem di chuyển. Nguyên gốc bức tranh là từ
thành phố Siena bên Italy. Tác phẩm khác là Adoration of the Magi là
tranh tròn vào thế kỷ XV của hai họa sĩ Fra Angelico và Fhilippo Lippi diễn tả
ba nhà chiêm tinh viếng Chúa Hài Ðồng ở Bethlehem, màu sắc tươi thắm huy hoàng.
Cùng chủ đề này ở nhà bảo tàng cũng có tranh của Botticelli (1445-1510) cũng
họa sĩ người Ý. Bức Adoration of the Shepherds của Giorgione
(1477-1510) tả hai người chăn dê đi viếng Chúa Hài Ðồng, bức tranh The
Feast of the God của Giovanni Bellini.
Nhìn thấy tôi có vẻ lớ ngớ, Đinh Cường lại lên tiếng giải
thích khi hướng dẫn tôi đến với bức tranh Ginevra de' Benci của
Leonardo da Vinci (1452-1519) :
Bức tranh được vẽ năm 1476, khuôn mặt người nữ cùng tên
thuộc dòng dõi quí tộc được người cùng thời ở Florence ngưỡng mộ sự thông minh
của cô. Bức tranh khổ nhỏ (14 x 15 inches) này nhìn gần giống như bức Mona
Lisa cùng tác giả đang trưng bày ở Viện Bảo tàng Louvre Paris, với
chất liệu bằng sơn dầu trên gỗ được Nhà Triển lãm Nghệ thuật mua với giá 5
triệu USD từ Princely House ở tiểu quốc Liechtenstein (Âu Châu). Ðây là giá cao
nhất cho một bức tranh thời đó được mua từ quỹ của Ailsa Mellon Bruce để lại và
là bức tranh duy nhất của Leonardo da Vinci trên lục địa Mỹ Châu, hiện ông còn
khoảng 17 bức trên thế giới. Nói về Ailsa Mellon Bruce (1901- 1969) giống như
cha là Andrew W. Mellon bà cũng là người yêu nghệ thuật, vừa đẹp vừa giàu có.
Bà kết hôn với một người sau này trở thành đại sứ Mỹ ở Anh quốc nhưng rồi ly
dị. Khi bà qua đời năm 1969 để lại 153 bức tranh phần nhiều của các họa sĩ Pháp
và bà cống hiến tất cả cho Nhà Triển lãm Nghệ thuật Quốc gia do cha sáng lập.
Ở tòa nhà chính phía Tây còn có những họa phẩm của Jan
Vermeer, Rembrandt van Rijn, Claude Monet, Vincent Van Gogh. Về tượng điêu khắc
ở đây không nhiều như tranh, có các tác phẩm của hai nghệ sĩ người Pháp là
Auguste Rodin và Edgar Degas.
Hôm khởi hành, mới năm giờ sáng, Thi Huyền, con gái út
của tôi lái xe đưa tôi ra phi trường, vì phải tìm chỗ đậu xe, nên khi vào đến
quầy xác nhận vé, thì đã trễ. Tôi sốt ruột lên tiếng thuyết phục với lý do sợ
trễ hẹn với người đón. Cô tiếp viên phụ trách thông cảm, đồng ý chuyển vé thay
vì đi Houston, tôi được chỉ định bay qua Chicago chỉ 5 phút sau đó, và chuyển
từ Chicago đi Washington DC. Lại một trục trặc nữa, chuyến bay từ Chicago đi
Washington DC đã phải mất hơn 4 tiếng đồng bay vần vũ trên trời trước khi đáp
xuống vì một lý do nào đó mà tôi không được biết.
Khi ra khỏi phòng chờ không thấy Hiệp, tôi điện thoại
liên lạc, thì Hiệp cho biết hiện đang ở phi trường John Foster Dulles đón vợ
chồng Dương Phước Tuấn từ Houston, Texas đến, và hẹn sẽ quay về đón tôi tức
thì. Nhìn đồng hồ, chuyến đi từ California đến Washington DC, tôi phải mất đến
hơn 9 tiếng đồng hồ, rồi còn phải đợi trong mưa, những hạt mưa quất vào mặt
không khỏi làm tôi cảm thấy mệt mỏi. Nhưng khi Hiệp và vợ chồng Dương Phước
Tuấn đến, tôi ôm chầm lấy bạn, nỗi mệt nhọc gần như tan biến sau bao nhiêu năm
xa cách gặp lại, chỉ còn nỗi vui mừng tràn ngập trong trái tim, tôi tưởng mình
như hồi sinh, như trẻ lại, như những ngày còn đang cắp sách đến trường. Khi
chúng tôi về đến Khách sạn của Hiệp thì đã 21:50h Ngoài trời, mưa vẫn lất phất
bay.
Gia đình Hiệp có một khách sạn nhỏ ở Virginia, những ngày
anh em chúng tôi họp mặt, Hiệp không đón khách để dành tiếp đón chúng tôi.
Khách sạn của Hiệp không lớn. khoảng 30 phòng nhưng rất tiện nghi và nằm trên
một vị trí thuận lợi. Suốt cả tuần lễ chúng tôi ở đây, không chỉ được trú ngụ,
mà còn được lo ăn uống với tài khéo léo và quán xuyến của Diệu Túy, vợ
Hiệp ; chúng tôi có được những bữa cơm thịnh soạn và hợp khẩu vị cũng như
đích thân Hiệp lái xe đưa đón chúng tôi đi tham quan những địa điểm quan trọng
ở thủ đô Washington DC trong suốt thời gian họp mặt.
Những ngày kế tiếp, tôi gặp lại Phan Tiểu Dương, người
bạn đẹp trai, trưởng lớp của tôi những năm ở Quốc Học từ New Jersy đến. Dương
và tôi vẫn thường xuyên liên lạc với nhau qua email. Hơn nữa, tôi đã có dịp gặp
Dương trong những ngày QUỐC HỌC ĐỒNG KHÁNH 50 NĂM GẶP LẠI ở San Jose,
California vào tháng 4 năm 2012, tức chỉ mới một năm trước.
Tôi cũng được gặp lại Nguyễn Cửu Lộc và vợ, từ South
Carolina đến, mặc dù tôi và Lộc đã chia tay từ năm 1963, sau khi từ giã trường
Quốc Học, nhưng khi gặp Lộc, tôi đã nhớ ra ngay, hình như Lộc không có mấy thay
đổi, vẫn khuôn mặt đó, nụ cười và dáng dấp nhỏ nhắn đó mỗi khi thầy kêu lên
bảng trả bài. Nhưng trong cách trao đổi, nói chuyện Lộc đã không che giấu được
vết hằn của chiến tranh, trong khi bên cạnh Lộc khuôn mặt của vợ Lộc hồn nhiên
và năng động, bộc lộ ánh mắt của một nhà nhiếp ảnh chuyên nghiệp.
Tôi đã gặp lại Đặng Văn Nghi, người bạn với cá tính thầm
lặng của lớp tôi, hình như Nghi luôn muốn giấu mình, không muốn ai chú ý đến,
nhưng không có nghĩa là Nghi không sôi nổi, không tranh biện. Nghi từ Maryland
đến. Tôi cũng đã gặp lại Nghi trong cuộc Họp mặt Quốc Học Đồng Khánh 50
gặp lại vào năm trước tại San Jose cùng với Phan Tiểu Dương, Trương Minh
Sinh, Hoàng An, Trần Biên cùng với các thầy cô của chúng tôi như cô Hà Thị
Phong, thầy Nguyễn Văn Lâu, thầy Thái Doãn Ngà, thầy Nguyễn Đức Mai…
Và cuối cùng tôi gặp lại Đoàn Lô từ San Jose, California qua, Trần Biên từ Los Angeles đến. Đáng lẽ, tôi đã cùng Trần Biên và Đoàn Lô bay lên Virginia cùng một lần, nhưng Biên và Lô muốn lên New York trước, còn tôi thì muốn ở lại với con tôi vài ngày trước khi qua Virginia. Lê Ngọc Thịnh và vợ từ North Carolina đến, có cả Nguyễn Ngọc Kính ở Richmond, Virginia. Kính vừa để tang vợ từ tháng 2.2013, nhưng cũng cố gắng đến cùng anh em họp mặt. Tất cả không che giấu tuổi đời chồng chất, nhưng khi ngồi lại với nhau thì vẫn mi mi tau tau loạn xạ như thời thơ trẻ.
Một bữa tiệc được tổ chức cho ngày họp mặt đầu tiên vào
sáng chủ nhật 12.5.2013. Ngoài anh em cùng lớp chúng tôi, còn có bạn bè xa gần
chung quanh khu vực Washington DC, khoảng trên 40 người. Nhìn tất cả những
người có mặt hôm đó tôi không khỏi nhớ những người bạn cùng lớp thưở ấy vẫn còn
sống sau chiến tranh với bao nhiêu biến đổi của lịch sử đất nước như Nguyễn
Quang Thiệu, Dương Văn Phúc, Lê Văn Thu, Nhiêu Khánh Đàm, Võ Trọng Đường, Hoàng
An, Trương Minh Sinh, Nguyễn Hữu Nho, Lê Văn Nhơn… mà hôm nay không có mặt.
Ban ngày chúng tôi đi thăm viếng những người thân quen
hoặc cùng nhau đến những địa danh nổi tiếng của Washington DC. Tối đến, đêm nào
cũng thế chúng tôi ngồi lại với nhau cho đến sáng nhắc lại kỷ niệm của thời
niên thiếu hồi còn học Quốc Học.
Trong chuyến đi này tất nhiên tôi còn gặp lại Đinh Cường.
Chúng tôi gồm vợ chồng Đinh Cường và Châu, con gái Cường, đã cùng nhau ăn một
bữa cơm tái ngộ, sau đó hẹn Như Hạnh, một nhà văn kiêm dịch thuật hiện dạy tại
Đại học George Mason, Virginia đến Café Starbucks, nơi chúng tôi vẫn thường
ngồi với nhau hằng giờ trước đây.
Rồi Nguyễn Mậu Trinh (Maryland) một người bạn học trên
tôi một lớp ở Quốc Học mà tôi đã gặp lại ở San Jose năm ngoái. Tôi đã cùng anh
chị Nguyễn Mậu Trinh đến thăm một câu lạc bộ Võ thuật, nơi mà anh Trinh bảo
trợ. Sau đó, chúng tôi đến thăm chị Ngô Thị Ấn, một nữ sinh Quốc Học trước
chúng tôi mấy năm, và tặng chị số báo QUỐC HỌC 2013 mà tôi mang theo, trong đó
có bài viết của chị : Chân dung quý thầy tôi.
Một lần khác, Cường hẹn nhà văn Phạm Thanh Châu mà tôi đã cùng Đinh Cường gặp năm năm trước đến quán Le Blédo ở Springfield (Virginia), uống ly cà phê, cũng như sau đó hẹn cùng uống café với nhà văn Nguyễn Minh Nửu, nhà văn Phạm Cao Hoàng, những người đã cùng hợp tác trên tạp chí Quán Văn.
Sau những lần đến Virginia, đã hòa mình trong sinh hoạt ở
đó, cũng đã gợi lên trong tôi những suy nghĩ làm tôi không khỏi ray rứt : Cũng
như đất nước tôi, vùng đất Potomac cũng đã diễn ra những trận đánh đẫm máu nhất
của lịch sử nước Mỹ trong cuộc nội chiến Nam Bắc Mỹ giữa phe Liên hiệp
Miền Bắc (The Union) và Liên bang Miền Nam (The Confederacy) bắt
đầu vào ngày 12.4.1861 và kết thúc vào ngày 9.5.1865 với hậu quả của cuộc phân
tranh là 970.000 người chết, trong đó 620.000 là binh lính, gần hai phần ba
chết do bệnh tật và ảnh hưởng lên những mặt khác của xã hội.
Cuộc chiến tranh đó đã để lại những cảm nghĩ khác
nhau trong lòng người dân Mỹ và những lý giải khác nhau cho những nhà sử học.
Cho đến nay nhiều người Mỹ vẫn còn tiếp tục tranh cãi về
nguyên nhân và những khía cạnh của cuộc chiến tàn khốc này, một số chuyên gia
cho rằng cuộc chiến xoay quanh quyền của các tiểu bang được tách khỏi liên
bang. Nhưng những người khác cho rằng 11 tiểu bang miền Nam đòi ly khai vì muốn
bảo vệ chế độ nô lệ mà Tổng thống Mỹ Abraham Lincoln thời đó muốn bãi bỏ.
Lại nói về những trận đánh ở Potomac. Quân đội Liên bang
Miền Nam của Tướng Lee đã vượt Sông Potomac, từ rạng sáng trận Antietam mở
màn bằng cuộc tấn công của Quân đoàn 1 thuộc Liên hiệp Miền Bắc (The Union) do
Tướng Hooker, biệt danh “Joe Chiến”, chỉ huy nhằm vào mé trái của quân Liên
bang. Cuộc cận chiến giữa các hỏa tuyến hạn hẹp diễn ra ác liệt không ngưng
nghỉ. Hooker yểm trợ cuộc tấn công của mình bằng một hàng pháo gần 40 chiếc,
phá vỡ hàng ngũ Liên minh ở phía xa của cánh đồng ngô. Nhưng tất cả không nằm
ngoài những tính toán của Tướng Lee. Ông đã điều quân từ những đơn vị khác sang
hỗ trợ Jackson phòng ngự ở mé trái. Theo đó, Sư đoàn Texas của Tướng John Bell
Hood đã giáng một cú mạnh vào các trung đoàn của Hooker và đẩy lùi quân Liên
hiệp ra phía bên kia đồng ngô, giúp vá lại phòng tuyến của Liên minh. Mãi đến
lúc này, Quân đoàn XII của Tướng Joseph Mansfield (phe Liên hiệp) mới thực sự
lâm trận, dù nhiệm vụ của đơn vị này đáng lẽ phải là tăng cường sức mạnh tấn
công cho Tướng Hooker. Nhưng khi tới nơi, quân của Hooker đã đánh xong trận và
đến đúng lúc phe Liên hiệp mở một cuộc phản công khiến chính Quân đoàn XII cũng
bị đẩy lùi.
Đây là những diễn biến chủ đạo trên chiến trường Antietam
trong cả ngày hôm đó. Trong khi quân của Tướng McClellan tham chiến rời rạc,
mỗi lần một quân đoàn và chỉ tấn công vào một vị trí riêng lẻ trong hàng ngũ
của đối phương, thì quân của Tướng Lee di chuyển nhịp nhàng, hoán đổi vị trí
liên tục trong một cuộc thao diễn chiến thuật khôn lường phát huy tác dụng bảo
toàn lực lượng..
Đến giai đoạn kết thúc, khi cố gắng bảo vệ Petersburg thất bại, quân đội miền Nam rút lui nhưng đã bị truy kích và đánh bại, cuối cùng Tướng Robert Edward Lee phải đầu hàng Tướng Grant chỉ huy quân đội Liên hiệp tại làng Appomattox Court House thuộc Virginia vào ngày 9 tháng 4 năm 1865 – đây là thời điểm chấm dứt cuộc chiến tương tàn giữa hai miền Nam Bắc Hoa Kỳ. Nhưng điều tôi muốn nói là cách thức mà hai bên kết thúc chiến tranh.
Tướng Lee đã nhắn cho tướng Grant là ông chuẩn bị đầu
hàng. Tướng Grant nhắn lại, đề nghị tướng Lee chọn địa điểm bàn thảo việc quy
hàng. Và căn nhà của một nhà thương buôn tên là Wilmer Mc. Lean tại làng
Appomattox đã được chọn.
Đến ngày hẹn, tướng Lee mặc lễ phục mới tinh và đeo kiếm,
còn tướng Grant xuất hiện muộn hơn trong bộ đồ tác chiến thường ngày còn dính
bùn đất hành quân. Hai người ngồi trong phòng khách của ông Mc. Lean và hàn
huyên thân mật về những kỷ niệm quân ngũ trong cuộc chiến tranh Mexico. Câu
chuyện lâu đến nỗi tướng Lee sốt ruột, chủ động đề cập đến “mục đích buổi gặp
gỡ của chúng ta ngày hôm nay là bàn về việc đầu hàng”. Tướng Grant bèn lấy
cây bút chì và tờ giấy trắng viết vội những điều khoản và trao cho tướng Lee,
trong đó có những nội dung nói về binh lính miền Nam :
1/ Không bị coi là phản quốc và không phải ở tù.
2/ Chính phủ coi binh lính miền Nam là những công
dân bình thường nếu họ chấp hành tốt luật lệ.
3/ Được mang ngựa và lừa về nhà để giúp gia đình cày
cấy vào mùa xuân.
Sau khi xem qua những điều tướng Grant vừa viết, tướng
Lee nói :
- Những điều này sẽ có tác động tốt đến quân sĩ của tôi.
Chúng sẽ góp phần quan trọng trong việc hòa giải dân tộc chúng ta.
Tướng Lee cho biết ông sẽ trao trả những tù binh miền Bắc
vì ông không có đủ lương thực cho họ. Tướng Grant đáp lại rằng ông sẽ gửi ngay
cho binh lính miền Nam 25.000 phần lương thực khô. Ông cũng ra lệnh cho in
28.231 giấy phóng thích cho binh lính miền Nam.
Khi tin phe miền Nam đầu hàng bay đến doanh trại, quân
miền Bắc định bắn đại pháo chào mừng. Tướng Grant ra lệnh ngưng ngay lập tức
các hoạt động ăn mừng. Ông nói với các sĩ quan dưới quyền : “Chiến tranh đã
kết thúc. Giờ đây họ đã là đồng bào của chúng ta”.
Ngày 12 tháng 4 năm 1865, quân đội của tướng Lee tiến vào
ngôi làng Appomattox để giao nộp vũ khí. Tướng Joshua L.Chamberlain của miền
Bắc được chỉ định tiếp nhận binh sĩ quy hàng. Trước hàng quân miền Bắc nghiêm
chỉnh, ông nhìn những binh sĩ miền Nam bại trận đi vào làng.
Với, cảm xúc dâng trào, sau này ông viết lại : “Giây
phút đó làm tôi thực sự xúc động. Tôi quyết định đánh dấu sự kiện này bằng một
hành động, không gì khác hơn là giơ tay chào kiểu nhà binh. Tôi biết có người
sẽ chỉ trích tôi về cử chỉ này. Tôi đã không xin phép và cũng không yêu cầu sự
tha thứ về hành động này. Đối diện với chúng tôi là những chiến binh, bại trận
nhưng can trường, là biểu tượng cho tinh thần trượng phu, không rã rời, không
đau khổ, bất chấp hy sinh và không có gì khuất phục được họ. Giờ đây, họ là
những người ốm yếu và đói khát, nhưng họ hiên ngang nhìn thẳng vào chúng tôi,
làm sống dậy những ràng buộc thiêng liêng cao cả hơn bao giờ hết. Không có lý
do gì để những đấng nam nhi ấy không được hội nhập vào Hợp Chủng Quốc vững vàng
của chúng ta”.
Sau đó tất cả hàng ngũ quân miền Bắc thắng trận từ đơn vị
này đến đơn vị khác đều nghiêm chỉnh giơ tay chào kiểu nhà binh. Vị tướng dẫn
đầu đoàn quân miền Nam đầu cúi xuống trong buồn bã, chợt nhận ra và ngồi thẳng
lại trên lưng ngựa, giơ tay chào đáp lễ. Ông ra lệnh cho các đơn vị theo sau
tuân theo nghi lễ quân sự khi đi ngang qua đoàn quân miền Bắc. Không có
kèn thắng trận, không có tiếng trống, tiếng hô, tiếng reo hò mừng chiến thắng,
không một lời nói hay tiếng xì xầm… Một sự im lặng đến nghẹt thở.
Từ sáng sớm đến chiều tối, những người lính miền Nam đều
giơ tay chào khi đi ngang qua hàng quân miền Bắc cũng đang giơ tay chào. Họ
giao nộp vũ khí, những lá cờ trận rách tơi tả của miền Nam và trở về quê. Gần
100.000 quân miền Nam đã quy hàng ở làng Apppmattox. Vài ngày sau tất cả rời
khỏi nơi này, ngôi làng trở lại cuộc sống bình thường.
Tướng Lee và tướng Grant đã đi vào lịch sử như những huyền thoại. Nhưng đằng sau câu chuyện ở làng Appomattox là bàn tay đạo diễn của Tổng thống Abraham Lincoln, lẽ đương nhiên cũng là một nhân vật huyền thoại . Ông thường nói rằng ông mong muốn cuộc chiến kết thúc trong sự khoan dung. Ông Ron Wilson nói rằng Tổng thống Lincoln và tướng Grant đã gặp nhau hai tuần trước đó trên chiến hạm River Queen ở sông James. Họ đã thảo luận rất lâu về hình thức kết thúc chiến tranh và những xáo trộn có thể xảy ra trong thời kỳ hậu chiến. Tổng thống Lincoln đã nói với tướng Grant : “Hãy để họ buông súng một cách thoải mái”.
Tướng Robert E. Lee đã đầu hàng quân đội Liên hiệp Miền
Bắc tại Appomattox, bang Virginia. Nhưng điều đáng trân trọng, chính là thái
độ, cách hành xử của phe thắng trận dành cho vị tướng bại trận miền Nam nầy hết
sức kính trọng, chân thành và không chút hận thù.
Những câu chuyện được thuật lại trong sử sách về quyết
định khó khăn của tướng Robert E. Lee khi ông từ chối lời mời giữ quyền chỉ huy
trong quân đội miền Bắc để chọn phục vụ cho miền Nam vì quê quán ông ở
Virginia, một bang miền Nam, cùng những câu chuyện về đức khiêm tốn của ông
trước những chiến tích lừng lẫy cũng như những thất bại mà ông trải qua. Sau
khi quân đội miền Nam thất trận, tướng Robert E. Lee nói với các hàng binh dưới
quyền ông rằng : “Hãy từ bỏ lòng hận thù và để thế hệ con cháu của quíý vị
nhớ rằng họ đều là đồng bào, là công dân của nước Mỹ”. Theo tôi, có lẽ
người Mỹ đã lớn lên, đã văn minh và tiến bộ hơn các dân tộc khác bởi họ luôn
biết gạt bỏ lòng thù hận, biết coi trọng tình tự dân tộc của mình.
Những gì mà vị tướng lãnh này đạt được nhưng lại ít được
người Mỹ biết đến là những thành quả trong những năm sau khi cuộc chiến kết
thúc. Ông nhận chức Viện trưởng một Viện đại học nghèo đang bên bờ vực khánh
tận, Đại học Washington ở Lexington, bang Virginia và ủng hộ Tổng thống
Hoa Kỳ Andrew Johnson trong chương trình tái thiết đất nước và hòa
giải giữa các vùng đối địch nhau. Ở chức vụ Viện trưởng, ông không nhấn mạnh
đến những môn học từ chương, cổ điển nữa, mà chú trọng nhiều đến việc giảng dạy
cho sinh viên những kỹ năng thực tiễn để có thể giúp tái thiết miền Nam.
Chương trình đầu tiên của nước Mỹ giảng dạy về ngành báo
chí được đem áp dụng ở đại học này là một thí dụ điển hình. Các khóa dạy về
kinh doanh, khoa học và nông nghiệp là những thí dụ kế tiếp. Được đặt tên là
Washington and Lee University, giờ đây Trường đại học tư và nhỏ này phát triển
một cách rất tốt đẹp và tạo được dấu ấn đặc biệt.
Điều đau đớn và tiếc nuối của tôi khi kết thúc
bài viết này, vì tôi hiểu rằng chiến tranh Việt Nam (1955-1975) đã
kết thúc sau cuộc nội chiến Hoa Kỳ (1861-1865) đúng 90 năm, nghĩa là
gần một thế kỷ, nhưng oái oăm thay những người lãnh đạo cuộc chiến
tranh Việt Nam đã không rút được bài học nào hoặc kinh nghiệm gì từ
cuộc chiến tranh tương tàn đó để đưa đất nước tiến bộ và phát triển
như sự kỳ vọng của nhân dân.
Sâm
Thương
10.2013
Nguồn: Diễn Đàn Forum
Đến với dòng sông Potomac — Diễn Đàn Forum