CÓ CẦN NHỚ
ƠN HAY KHÔNG
TT-Thái An
Những năm
1975-1980, tôi đang ở Đài Loan và thường gặp các bác đồng hương Việt
Nam ở Đài Bắc. Trong đó có bác Trần V Quang là người từng làm việc
cho tòa Đại Sứ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) tại Đài Bắc trước năm 1975.
Sau ngày 30 tháng 4, 1975 tòa Đại Sứ VNCH đóng cửa. Hầu hết nhân viên
Việt Nam làm trong tòa Đại Sứ
VNCH đều được Mỹ cho đi định cư, nhưng gia đình bác ở lại Đài Bắc vì vài lý do gì đó.
Có lần bác
Quang kể rằng, trước năm 1975, chánh phủ Đài Loan có ý tài trợ bộ Giáo Dục VNCH in cho một số sách
giáo khoa bậc tiểu
học. Bộ Giáo Dục VNCH đã gửi cho họ bản thảo các cuốn sách cần được in trong đó có sách lịch sử.
Sau khi chánh
phủ Đài Loan kiểm duyệt xong thì từ chối không in sách lịch sử với lý do không đúng với lịch sử
của Trung Hoa ghi chép. Vì sách
giáo khoa của bộ Giáo Dục Đài Loan ghi chép về lịch sử Việt Nam từ
bậc tiểu học lên đến đại học thì “An Nam là một phần lãnh thổ của
Trung Hoa” cho đến khi người Pháp đến xấm chiếm nước An Nam. Vì thế
nước Việt Nam ngày nay vẫn bị người Trung Hoa xem là phản bội “Mẫu
quốc Trung Hoa” và họ vẫn không xem Việt Nam là một nước có quyền
độc lập khỏi nước Trung Hoa vĩ đại.
Khi tiếp xúc với nhiều bạn trẻ Đài Loan thời đó, họ nói chuyện với người Việt Nam đang sống tại Đài Loan thật vô tư rằng: “Nước Việt Nam của mấy nị lúc trước là một phần lãnh thổ của Trung Hoa, vì thế người Việt Nam cũng là dân tộc Trung Hoa như chúng tôi thôi. Lúc trước người Việt cũng dùng Hán Tự như chúng tôi, cho đến khi người Pháp đến xâm lăng An Nam thì bầy ra chữ theo mẫu tự La Tin cho người An Nam phải học”. Người Việt Nam tại Đài Loan lúc đó rất ít, chưa đến 30 người, ở rải rác xa nhau. Nhưng ai nghe thấy luận điệu này cũng cãi lại: “Rằng chúng tôi hoàn toàn không phải người Trung Hoa, chúng tôi có ngôn ngữ riêng, chúng tôi đếm “Môt, Hai, Ba, Bốn, Năm…” Trong khi tiếng Hán Việt là: “Nhất, Nhị, Tam, Tứ, Ngũ…” Nhưng họ vẫn không tin vì sách giáo khoa của họ dạy như thế từ bậc tiểu học lên đại học mà.
Bây giờ ở
Mỹ, có quá nhiều người Tàu từ Trung Hoa lục địa qua Mỹ sinh sống,
họ cũng nói một sách y như người Đài Loan nói: “Lúc trước khi người
Pháp qua cai trị nước An Nam thì người An Nam chỉ dùng chữ Hán trong
văn bản hành chánh và trong trường học. Nước An Nam đã từng là một tỉnh của Trung Hoa. Nhưng người Pháp
sang vẽ bản đồ lại, nên An Nam mới tách ra khỏi Trung Hoa. Như thế,
Trung Hoa có thể đòi lại lãnh thổ của mình”.
Nghe thấy
gớm cho luận điệu của “Đế Quốc Trung Hoa” chưa? Như thế, dù Đài Loan
hay Trung Cộng, cả hai đều dạy học trò của họ như nhau, rằng “Việt
Nam là một phần lãnh thổ của nước Trung Hoa”
Có một
người trí thức Trung Cộng ở Mỹ lâu năm nói với vài người Việt Nam
rằng:
-Tôi biết
mấy nị ghét người Trung Hoa, nhưng đồng thời mấy nị cũng rất yêu mến
Trung Hoa.
- Vì sao?
- Vì khi tôi
đến Việt Nam, đi đâu tôi cũng thấy văn hóa Trung Hoa hiện diện mọi nơi,
mọi chỗ. Từ cách xây đền chùa, đình, miếu, từ cách thờ Thành Hoàng
ở đình, từ cách thờ cúng tổ tiên trong nhà, cách bầy bàn thờ ông
Địa dưới đất ở mấy cửa tiệm buôn bán, đến cách xem chỉ tay, xin xâm,
gieo quẻ, xem tử vi, tướng số, xem phong thủy, địa lý, xem ngày lành,
tháng tốt để khai trương buôn bán, để làm đám cưới, đám hỏi, để
xuất hành đầu năm, cách lên đồng lên bóng, cầu cơ, và tục đốt vàng
mã, vân vân và vân vân. Và nước Việt Nam của mấy nị vẫn còn giữ Âm
lịch để làm Tết Nguyên Đán y như Tết của người Trung Hoa, cũng múa
lân, phát bao lì xì màu đỏ cho trẻ con mà. Và những ngày rằm quan
trọng của Trung Hoa mấy nị cũng làm theo y chang, như Tết Nguyên Tiêu (rằm
Tháng Giêng), Lễ Vu Lan 15 tháng 7 Âm lịch (tảo mộ, cúng cô hồn và
đốt vàng mã gửi xuống âm phủ cho thân nhân), Tết Trung Thu (rằm tháng
8) ăn bánh trung thu và ngắm trăng thu. Nếu người Pháp không phát minh
ra chữ Việt Nam cho mấy nị theo lối chữ Latin thì giờ này nước Việt
Nam vẫn còn dùng chữ Hán để viết, có khác gì người Trung Hoa đâu?”
Nghe mấy người Tàu đại lục nói không sai, nhưng bực mình vì họ nói đúng.
Nhưng có một người Việt Nam hỏi lại:
-Thế ông người tỉnh nào ở bên Tàu?
-Người Quảng Tây.
-Thế ông có biết thời cổ xưa tỉnh của ông là nước nào khi chưa bị người Hán chiếm không?
Trả lời:
-Tôi không để
ý lắm.
-Ông biết
nhưng không thèm để ý, vì ông hãnh diện được Hán hóa. Tỉnh Quảng Tây của ông là một trong
những nước ở phía nam sông Dương Tử, gọi chung là Bách Việt. Quảng
Tây thời cổ là nước Điền Việt
Bách Việt có
nghĩa là nhiều nước, nhiều sắc dân khác nhau,
không phải là người
Hoa Hạ, sau này gọi là Hán. Khi các nước trong nhóm Bách Việt bị người Hán xâm lăng và sáp nhập vào nước của họ, nước của các ông biến mất trên bản đồ. Và tổ tiên ông đã đau đớn vì bị thua, bị người Hán cai trị. Nhưng đến đờn con, một đời sau mà thôi, thì đã bị Hán hóa và hãnh diện vì được làm dân Hán, dù không phải là
gốc Hán.
Người Trung
Hoa kia lý lẽ:
-Hán Hóa
thì càng tốt chứ sao. Nhờ thế mà có một nước Trung Hoa vĩ đại ngày
nay. Nước Trung Hoa sẽ trở thành cường quốc số một trên thế giới. Để
rồi nị sẽ xem thấy.
-Dân tộc
Việt Nam của chúng tôi xưa kia cũng là một trong những nước Bách
Việt, nằm từ phía nam các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây chạy dài xuống
phía bắc nước Việt Nam ngày nay. Vì bị người Hán đánh chạy xuống
phía nam nên mất phần phía bắc nằm trong tỉnh Quảng Đông. Chúng tôi hãnh diện dù bị người Hán
cai trị cả gần ngàn năm, nhưng luôn luôn phấn đấu dành độc lập, nhất
định không chịu bị Hán hóa.
Đó là chút
đối thoại giữa vài người Việt và người Trung Hoa đang sống ở Mỹ.
Còn đa số
người Việt chúng ta có tự hào không bị Hán hóa không?
Thời trước
tháng 4, 1975, sách giáo khoa của miền Nam, Việt Nam Cộng Hòa dạy học
sinh rằng chúng ta bị người Tàu cai trị cả ngàn năm. Nhưng luôn luôn
có những anh hùng nổi dậy và dân chúng hưởng ứng đứng lên đánh giặc
Hán bỏ chạy nhiều lần. Vì chúng ta rõ ràng là một dân Việt, khác
dân Hán, có một ngôn ngữ và một văn hóa khác. Chúng ta hãnh diện là
người Việt Nam. Mà thời Bắc Thuộc, người Hán gọi chúng ta là An Nam.
Thời sau
tháng 4, 1975. Không biết sách giáo khoa trong nước Cộng Hòa Xã Hội
Việt Nam còn dạy học sinh những bài lịch sử thời ngàn năm Bắc Thuộc
đã có rất nhiều lần dân chúng vùng lên đánh đuổi quân xâm lăng từ
Trung Hoa phương bắc không?
Dù sao, khi
thấy Tàu Cộng đánh chiếm vài cái đảo và lãnh hải của Việt Nam,
một số sinh viên cũng nổi dậy lòng yêu nước, biểu tình đả đảo chống
Trung Công thì bị chính quyền của nước mình dùng quân đội dẹp sạch
và truy quét tận nhà.
Một số đất
sát biên giới phía Bắc Việt Nam nằm sát phía Nam Trung Hoa đã bị
chánh phủ Trung Công cướp chiếm công khai, dễ dàng, không cần nổ súng.
Và họ đã vẽ lại bản đồ cho nước Trung Hoa. Ải Nam Quan có cái cổng
tam quan khi xưa nằm trên lãnh thổ Việt Nam gần cả ngàn năm, nay thuộc
về lãnh thổ Trung Hoa. Người Việt Nam muốn đến tham quan phải xin visa
của Trung Cộng ngay cửa hải quan biên giới.
Chúng ta may
mắn còn thấy những tên đường và tên bảng hiệu từ Nam ra Bắc viết
bằng chữ Quốc Ngữ. Và các sách giáo khoa còn dùng chữ Quốc Ngữ để
dạy học sinh. Và các văn kiện hành chánh vẫn còn dùng chữ Quốc
Ngữ. Cho nên, khi du khách nước ngoài vào Việt Nam, họ có thể phân
biệt được họ đang ở một nước không phải là Trung Hoa. Còn khách du
lịch từ Trung Quốc thì tiếc rẻ vì “nó chỉ có chữ viết là không
giống mình. Giá mà thằng Pháp không bày ra chữ ABC cho nó thì giờ
này nó y chang như một tỉnh của Trung Hoa” mà thôi.
Sự thật ra
chữ Quốc Ngữ mà người Việt Nam sử dụng hiện nay không phải của
người Pháp đặt ra. Các giáo sỹ Thiên Chúa Giáo người Bồ Đào Nha khi
đến truyền giáo tại Việt Nam vào cuối thế kỷ 16, đầu thế kỷ 17
phải học tiếng Việt. Họ phát hiện ra người Việt Nam không có chữ
viết mà phải dùng chữ Hán của Trung Hoa, hoặc dùng chữ Nôm do người
Việt đặt ra nhưng phải biết chữ Hán thì mới học được chữ Nôm. Và đa
số dân chúng thời đó mù chữ, không đọc được chữ Hán hoặc chữ Nôm
vì ít người được đi học. Thế thì, các giáo sỹ này nghĩ ra “Tại sao
không dùng mẫu tự La Tinh để tạo ra chữ Việt Nam, dễ học, dễ đọc,
phát âm theo đúng tiếng Việt thay vì viết theo chữ Hán, phải phát âm
theo Hán Việt, người bình dân không học qua chữ Hán không thể hiểu
được.
Ngày xưa,
học trò đi học chữ Hán, mới vào phải học cách phát âm những chữ
cái như “Thiên/Trời; Địa/đất; Quân, Sư, Phụ/vua, thầy, cha”. Ngày nay, khi các học giả Việt Nam giỏi
chữ Hán dịch các bài thơ Đường Luật từ chữ Hán ra âm Hán Việt cho
người Việt đọc vẫn không ai hiểu. Họ phải phỏng dịch qua tiếng Việt.
Rõ ràng chữ Hán là của người Hán, dù dịch sang Hán Việt thì người
Việt đọc được nhưng vẫn không hiểu được. Vì tiếng Hán Việt vẫn phát
âm theo tiếng phổ thông hay tiếng Quan Thoại của Tàu nhưng theo âm ngữ
Việt.
Các giáo sỹ
dòng Tên của Bồ Đào Nha khi nỗ lực học tiếng Việt, tìm hiểu cách
phát âm tiếng Việt và ghi ký âm theo chữ La Tinh, họ chỉ mong tạo ra
chữ Việt để có thể dịch Kinh Thánh, các sách giáo lý, các sách
kinh cầu nguyện của Thiên Chúa Giáo hầu có thể giảng dạy cho người
Việt. Họ chẳng dám nghĩ đến các vua, các chúa của Việt Nam sẽ dùng
chữ Quốc Ngữ để thay thế chữ Hán trong các văn bản hành chánh từ
Vua, Chúa đến các quan trong triều, và các quan nhỏ ở các tỉnh
thành. Vì các vua triều Lê, triều Nguyễn, các Chúa Trịnh, cũng như
trải qua bao nhiêu các triều đại trong ngàn năm Bắc thuộc, chữ Hán đã
chiếm độc tôn và các cuộc thi toàn quốc từ thi Hương, Tú Tài cho đến
Tiến Sỹ, luôn luôn dùng chữ Hán. Các sỹ phu và vua nhà Nguyễn vẫn
còn thần tượng văn hóa của người Hán, vẫn còn trọng vọng chữ Hán
và hãnh diện vì “thâm Nho”.
Trong dân gian
thời đó vẫn truyền tụng câu tục ngữ “Nôm na là cha mách qué” có ý
khinh miệt chữ Nôm. Không biết thầy đồ Nho nào phát minh ra câu này để
học trò của thầy đọc lại cho dân làng nghe rồi làng này truyền sang
làng kia cho đến nỗi cả nước đều biết câu này.
Nói chung,
tuy muốn thoát ly sự cai trị của người Trung Hoa, nhưng trong tư tưởng
của các học sỹ và các vua chúa Việt Nam chẳng bao giờ muốn thoát ly
văn hóa Trung Hoa.
Vì các
thương thuyền của Bồ Đào Nha vào đàng Trong và Đàng Ngoài của Việt
Nam cuối thế kỷ 16 đến đầu thế kỷ 17 để buôn bán và trao đổi hàng
hóa, các giáo sỹ người Bồ Đào Nha đi theo các thương thuyền này. Các
vua Nguyễn và các Chúa Trịnh thấy nguồn lợi cho việc buôn bán với
Bồ Đào Nha nên làm ngơ cho các giáo sỹ Bồ Đào Nha làm công việc
truyền giáo của họ. Nhờ thế, các giáo sỹ này có thời gian nghiên
cứu và hình thành chữ Việt theo mẫu tự La Tinh. Người đặt nền móng đầu tiên cho công
việc này là giáo sỹ Dòng Tên người Bồ Đào Nha tên Francisco de Pina
(1585-1625).
Giáo sỹ
Alexandre de Rhodes, là học trò của giáo sỹ Francisco de Pina, là người
có công trong việc hệ thống hóa chữ Quốc Ngữ và soạn ra cuốn tự
điển Việt, Bồ, La 1651.
Sau đó, cuối
thế kỷ 18 diễn ra cuộc chỉnh lý, các tín hữu đàng Trong dưới sự
điều phối của Giám Mục Bá Đa Lộc Bỉ Nhu (Pierre Pigneau de Behaine) đã
soạn ra cuốn tự điển chữ Quốc Ngữ, giáo sỹ Jean-Louis taberd đã biên
tập và cho xuất bản năm 1838. Dạng
chỉnh tả ở cuốn tự điển này không khác mấy với cách viết tiếng
Việt hiện nay.
Nhưng cho đến
thời điểm này, chữ Quốc Ngữ chỉ lưu hành trong giáo hội Công Giáo
Việt Nam mà thôi.
Mãi cho đến
khi người Pháp xâm lăng Việt Nam và chiếm Nam Kỳ vào cuối thế kỷ 19,
tên gọi “chữ Quốc Ngữ” của chữ La Tinh cho tiếng Việt mới được xác
nhận, và được bảo hộ để cho phổ biến.
Ngày 22, tháng 2 năm 1869 Phó Đề đốc marie Gustave Hector Ohier ký
nghị định “Bắt buộc dùng chữ Quốc Ngữ thay thế chữ Hán” trong các
công văn ở Nam Kỳ”.
Nghị định 82
ký ngày 6 tháng 4 năm 1878 do Thống đốc Nam Kỳ Lafont ký đề ra mốc thời
gian trong 4 năm (đến 1882) thì phải chuyển hẳn sang chữ Quốc Ngữ.
Ngày 1 tháng
1 năm 1879 lại có lệnh khẳng định các văn kiện chính thức phải dùng
chữ Quốc Ngữ. Cũng năm đó chính
quyền Pháp đưa chữ Quốc Ngữ vào ngành giáo dục, bắt đầu ở các thôn
xã Nam Kỳ.
Sang thế kỷ
20, chính phủ Đông Pháp giao cho nha Học Chính ở Bắc Kỳ giảng dạy
chữ Quốc Ngữ từ năm 1910.
Năm 1915 kỳ
thi Hương cuối cùng diễn ra ở Bắc Kỳ.
Ngày 28
tháng 12 năm 1918, vua Khải Định ra đạo dụ chính thức bãi bỏ khoa cử.
Năm 1919 là năm cuối mở khóa thi bằng chữ Hán tại Huế.
Nhìn lại,
người Pháp tuy không có công soạn ra chữ Quốc Ngữ cho người Việt Nam
dùng. Nhưng ít ra họ có công thi hành lệnh áp dụng chữ Quốc Ngữ trên
toàn quốc Việt Nam vào cuối thế kỷ 19 qua đầu thế kỷ 20. Khiến chữ
Hán bị phế thải khỏi hệ thống giáo dục của nước Việt Nam. Các sỹ phu Hán học thời đó dĩ nhiên
phẫn uất vì mất thế đứng thượng tôn trong xã hội. Nhưng đối với đa
số dân chúng từ bình dân lao động đến người được đi học là một bức
phá lớn. Vì chữ Quốc Ngữ dễ học, dễ đọc, phát âm theo tiếng Việt
khiến nạn mù chữ giảm thiểu rất nhiều so với thời Hán học, mỗi
làng chỉ có vài anh học trò theo học với một ông thầy Đồ. Có nhiều
trò chỉ học vài năm, chưa biết được nhiều chữ Nho thì phải bỏ học
vì đời sống quá nghèo khổ, không theo đuổi được việc học đến cùng.
Thế thì, tuy
mục đích ban đầu của các giáo sỹ Bồ Đào Nha soạn ra chữ Quốc Ngữ
cho người Việt với mục đích dịch Kinh Thánh, dịch các sách giáo lý,
kinh cầu nguyện hoặc giáo luật của Công Giáo và giúp các linh mục
thư từ liên lạc với nhau v.v. Nhưng sau cùng toàn thể người Việt Nam
được hưởng lây nguồn sáng tạo chữ Quốc Ngữ của các giáo sỹ
này. Họ là những học giả về ngôn
ngữ học, được giáo hội Thiên Chúa Giáo sai phái qua Việt Nam truyền
giáo, là một nước có khí hậu, văn hóa và đời sống hoàn toàn khác
với một nước ở Âu Châu. Họ có thể phải đối diện với mọi bắt bớ
của chính quyền An Nam thời đó (Việt Nam bây giờ). Họ không có bơ, sữa,
pho mai và bánh mì để ăn mỗi ngày. Nhưng vì sự kêu gọi thiêng liêng
nên phục tùng mệnh lệnh và ra đi. Họ phải học một thứ ngôn ngữ hoàn
toàn khác với các ngôn ngữ mà họ đã học ở Bồ Đào Nha, và phải
miệt mài tìm hiểu, so sánh với các mẫu tự La Tinh, các dấu nhấn âm
từ chữ Bồ để tạo ra một thứ chữ mà người An Nam thời đó có thể
đọc được cách viết và phát âm dễ dàng. Có vị sống đến cuối đời,
bỏ lại thân xác tại Việt Nam.
Có lẽ,
chánh phủ Việt Nam và nhiều người Việt Nam chưa bao giờ nghĩ đến và
cám ơn hay nhớ ơn những người đã có công tạo ra chữ Quốc Ngữ cho
người Việt Nam đang sử dụng hơn100 năm nay. Vì thế, không thấy chánh phủ của miền
Nam trước 1975 hoặc chánh phủ Việt Cộng sau này đề ra một đài tưởng
niệm hay vài con đường mang tên các vị đã tạo ra chữ Quốc Ngữ.
Hình như ở
Sài Gòn trước năm 1975, có con đường mang tên Alexandre de Rhodes. Ở
quận nào?
Trước năm
1975, ở miền Nam Việt Nam, dưới chế độ VNCH, trong các sách giáo khoa
bậc tiểu học đến trung học, không hề có bài nào nói đến nguồn gốc
và sự hình thành chữ Quốc Ngữ.
Sau năm 1975,
miền Nam rơi vào tay Cộng Sản. Thế là toàn quốc Việt Nam phải chịu
dưới sự cai trị của đảng cộng sản. Bộ Giáo Dục dưới sự chỉ đạo
của đảng này có được biên soạn và dạy học sinh bậc tiểu học đến
trung học về lịch sử hình thành chữ Quốc Ngữ?
Nhưng tôi và có lẽ nhiều người Việt Nam khác có
lòng nhớ ơn các vị trên đây rất nhiều. Vì người Việt Nam có câu tục
ngữ “Ăn quả nhớ kể trồng cây”, có thể áp dụng cho trường hợp này
chứ!
Hãy nhìn
lại các tác phẩm văn xuôi, văn vần, các sách giáo khoa, các bản nhạc
của Việt Nam từ ngày dùng chữ Quốc Ngữ chỉ hơn 100 năm so với số
lượng sáng tác thời dùng chữ Hán vài ngàn năm, một con số cách
biệt quá lớn lao và đủ thấy hiệu năng của chữ Quốc Ngữ bao la và
vĩ đại ra sao.
Thử hình
dung xem, nếu chúng ta không có chữ viết theo mẫu tự La Tinh hiện này,
thì phố phường của nước Việt Nam từ Nam ra Bắc treo toàn bảng hiệu
chữ Hán (Tàu) thì có khác gì một tỉnh thành bên Trung Hoa?
TT-Thái An
2/16/2025