Thứ Tư, 12 tháng 11, 2025

632 . THÂN TRỌNG SƠN - KHÔNG THẦY ĐỐ MẦY LÀM NÊN.

                                                                                     


KHÔNG THẦY ĐỐ MẦY LÀM NÊN

 

    Trong cuộc sống, ai cũng có thời gian đi học, ai cũng có thầy dạy học. Hình ảnh người thầy được ghi nhận trong rất nhiều tục ngữ:

 1.Tiên học lễ, hậu học văn 

2. Nhất tự vi sư, bán tự vi sư. 

3. Muốn sang thì bắc cầu kiều, muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy. 

4. Không thầy đố mày làm nên.

5. Ăn quả nhớ kẻ trồng cây.

6. Mồng một tết cha, mồng ba tết thầy. 

7. Nhất quý nhì sư.

8. Trọng thầy mới được làm thầy.

9. Ăn vóc học hay.

10. Tam nhân đồng hành, tất hữu ngã sư.

 

Và trong ca dao:

 1.Con ơi ham học chớ đùa

Bữa mô ngày Tết thỉnh bùa thầy đeo. 

2. Cơm cha, áo mẹ, chữ thầy

Nghĩ sao cho bõ những ngày ước mong. 

3. Ơn thầy soi lối mở đường

Cho con vững bước dặm trường tương lai

4. Gươm vàng rớt xuống Hồ Tây

Ơn cha nghĩa trọng công thầy cũng sâu. 

5. Mấy ai là kẻ không thầy 

Thế gian thường nói đố mày làm nên.

6. Vua, thầy, cha, ấy ba ngôi 

Kính thờ như một, trẻ ơi ghi lòng. 

7. Mười năm rèn luyện sách đèn

Công danh gặp bước, chớ quên ơn thầy. 

8. Mẹ cha công đức sinh thành

Ra trường thầy dạy học hành cho hay. 

9. Ơn Thầy không bằng gốc bễ

Nghĩa Thầy gánh vác cuộc đời học sinh. 

10. Ăn quả nhớ kẻ trồng cây

Có danh có vọng nhớ thầy khi xưa. 

11. Công cha, áo mẹ, chữ thầy

Gắng công mà học có ngày thành danh. 

12. Bẻ lau làm viết chép văn

Âu Dương có mẹ dạy răn như thầy.

13. Ở đây gần bạn gần thầy

Có công mài sắt có ngày nên kim

14. Mười năm rèn luyện sách đèn

Công danh gặp ước, chớ quên ơn thầy. 

15. Tạ ơn thầy đã dẫn con vào rừng tri thức

Cảm nghĩa cô đã dắt trò đến biển yêu thương.

16. Con hơn cha là nhà có phúc

Trò hơn thầy là đất nước yên vui. 

17. Dốt kia thì phải cậy thầy

Vụng kia cậy thợ thì mày làm nên. 

18. Đến đây viếng cảnh viếng thầy

Không say mùi đạo cũng khuây mùi trần. 

19. Con ơi ghi nhớ lời này

Công cha, nghĩa mẹ, công thầy chớ quên. 

20. Chữ thầy trong cõi người ta

Dặm dài hoa nắng trời xa biển đầy.

21. Dạy con từ thuở tiểu sinh 

Gần thầy gần bạn tập tành lễ nghi

Học cho "cách vật trí tri"

Văn chương chữ nghĩa nghề gì cũng thông. 

22. Ai người đánh thức đêm trường mộng

Ai soi đường lồng lộng ánh từ quang

AI thắp lửa bồ đề tỏa sáng

Đạo vô vi sưởi ấm cả trần gian. 

23. Khó thì hết thảo hết ngay

Công cha cũng bỏ, nghĩa thầy cũng quên. 

24. Dòng sông sâu con sào dài đo được

Lòng người đưa đò ai biết được sự bao la.

25. Ơn dạy dỗ cao tường hơn núi

Nghĩa thầy trò như nước biển khơi. 


     Có thể nói, từ khi có loài người là có giáo dục, nền giáo dục nước ta thực sự bắt đầu từ thời Lý (1009 – 1225), với khoa thi Nho học Tam trường đầu tiên trong lịch sử khoa cử nước ta vào năm 1075. Thời phong kiến, Việt Nam chịu ảnh hưởng rất nhiều từ nền văn hóa Trung Quốc. Đạo học lấy chữ Nho làm trọng và được kính trọng là chữ Thánh hiền, lấy đạo lý Khổng Mạnh làm kim chỉ nam, lấy Tứ Thư, Ngũ Kinh làm kinh điển. Thầy giáo thường là người có học vị, có tài, có nhân cách mẫu mực đứng ra giảng dạy, ngoài ra thầy giáo còn  là những ông tú, ông cử, các quan về hưu hay các vị trung lương treo ấn từ quan về mở trường dạy học…

          Xã hội phong kiến luôn dành cho người thầy một vị trí xứng đáng. Trong ba điều kính trọng, trước hết của con người thì người thầy ở vị trí thứ hai Quân, sư, phụ” - chỉ đứng sau vua. Đó là trong khuôn phép lễ nghĩa, còn trong dân gian hình ảnh người thầy được sánh ngang hàng với cha mẹ cơm cha, áo mẹ, chữ thầy”… sở dĩ người thầy ngày xưa có được vị trí cao quý ấy chính là bởi lòng tôn kính thầy và trọng đạo học của người xưa.

          Truyền thống tôn sư trọng đạo của nước ta đã được truyền qua nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau. Song, phải thừa nhận rằng đạo học thời phong kiến đã ăn sâu vào tiềm thức người Việt Nam và có khả năng tác động, chi phối đạo học thời sau này. Người xưa đặc biệt chú trọng đến nhân cách con người, đạo học thời phong kiến lấy chữ Lễ” làm trọng, sau đó mới đến chữ Văn”. Lễ giáo phong kiến đặt ra nó có một cái lợi rất lớn, đó là giữ cho xã hội thăng bằng” trong tam cương, ngũ thường… Người thầy được đặt vào vị trí xứng đáng trong xã hội, đây là tính ưu việt của nền giáo dục nước ta thời bấy giờ. Những điều luật thành văn và bất thành văn ấy dần dần ăn sâu vào nếp nghĩ, thái độ ứng xử cũng như việc làm của mỗi người trong xã hội, để rồi theo năm tháng kết tinh lại tạo thành truyền thống hiếu học – tôn sư trọng đạo" của dân tộc Việt Nam.

     Người thầy không chỉ là người truyền đạt tri thức, thắp lên ngọn lửa về ước mơ, niềm tin và hy vọng mà còn là tấm gương sáng cho bao thế hệ học trò noi theo. Bởi thế mà đã có biết bao bài thơ, lời hát viết về hình tượng người thầy.

   Trước hết là những thầy, cô giáo của ngày đầu tiên đi học: Em mắt ướt nhạt nhòa/Cô vỗ về an ủi/Chao ôi sao thiết tha” (Nguyễn Ngọc Thiện). Ở đó hình ảnh và tình yêu thương của cô có khác gì tình yêu thương của mẹ, để trong ánh mắt hồn nhiên tuổi nhỏ có lúc cô giáo chính là những cô tiên hiền dịu.

    Rồi những ngày đầu tiên tập viết, bàn tay nhỏ xíu xinh xinh giữa lòng tay cô ấm áp, nét chữ run run thành hình, cô hiểu nét chữ nết người nên cẩn thận sửa nét, chỉ cách cầm phấn, cầm viết cho từng em một: Xiêu nghiêng nét chữ dại khờ/Tay cô cầm ấm đến giờ lòng em/Vở ngày thơ ấu lần xem/Tình cô như mẹ biết đem sánh gì” (Nhớ cô giáo làng - Nguyễn Văn Thiên).

   Bảng đen, phấn trắng, những đêm dài miệt mài bên trang giáo án đã trở thành những hình ảnh quen thuộc gắn liền với hình tượng người thầy. Người học trò trong bài hát Bụi phấn” của nhạc sĩ Vũ Hoàng không chỉ nhận ra bụi phấn đang rơi trên bục giảng, trên tóc thầy mà còn nhận ra mình yêu tha thiết những năm tháng học trò, trân trọng từng khoảnh khắc được nghe lời thầy giảng. Nhà thơ Phi Tuyết Ba lại mang đến một cảm nhận sâu sắc về dòng trôi của thời gian qua đời thầy ở bài thơ “Vùng phấn bay”: Bao nhiêu viên phấn đã mòn/Bao nhiêu giáo án chẳng còn trẻ trung/Nước trôi về xứ vô cùng/Thương thầy ở lại một vùng phấn bay”.

   Trong mắt học trò, nhiều lúc thầy cô không chỉ là cha, là mẹ, là thầy mà là người nghệ sĩ trên bục giảng, lời dạy của thầy cũng chính là lời ru: Thầy không ru đủ nghìn câu/Biết con chữ cũng đứng sau cuộc đời/Tuổi thơ em có một thời/Ước mơ thì rộng như trời, ngàn năm” (Lời ru của thầy - Đoàn Vị Thượng). Bài giảng của thầy đưa em ngược về quá khứ, đi đến tương lai, mở ra những chân trời mới, một góc quê nhà: Em nghe thầy đọc bao ngày/Tiếng thơ đỏ nắng xanh cây quê nhà/Mái chèo nghe vọng sông xa/Êm êm như tiếng của bà năm xưa/Nghe trăng thuở động tàu dừa/Rào rào nghe chuyển cơn mưa giữa trời” (Nghe thầy đọc thơ - Trần Đăng Khoa).

    Có một thời đất nước đạn bom, những người thầy theo tiếng gọi non sông xếp lại trang giáo án lên đường. Chiến tranh đi qua, thầy lại trở về với nụ cười vẹn nguyên, tin tưởng như xưa Nhưng một bàn chân không còn nữa”, nó đã hóa thân thành dấu nạng gỗ: In lên cổng trường những chiều giá buốt/In lên cổng trường những đêm mưa dầm/Dấu nạng hai bên như hai hang lỗ đáo/Chúng em nhận ra bàn chân thầy giáo/Như nhận ra cái chưa hoàn hảo/Của cả cuộc đời mình” (Bàn chân thầy giáo - Trần Đăng Khoa).

   Và suốt dọc thời bình, những người thầy vẫn miệt mài làm người ươm hạt, người đưa đò thầm lặng. Bao nhiêu thế hệ học trò đã cặp bến bờ tri thức, mang theo một lòng tri ân vô hạn. Riêng người thầy vẫn tự nhủ con đường mình đang đi vẫn còn xa, xa lắm: Con đò mộc - mái đầu sương/Mãi theo ta khắp muôn phương vạn ngày/Khúc sông ấy vẫn còn đây/Thầy đưa tiếp những đò đầy qua sông... (Người lái đò - Thảo Nguyên).

   Người thầy sẽ mãi là hình tượng đẹp trong thơ ca và âm nhạc, bởi lẽ ai đã từng đi qua những năm tháng học trò cũng đều muốn đọc lên, hát lên những bài thơ, những lời ca của lòng biết ơn chân thành: Dẫu đếm hết sao trời đêm nay, dẫu đếm hết lá mùa thu rơi; nhưng ngàn năm, làm sao em đếm hết công ơn người thầy” (Người thầy - Nguyễn Nhất Huy).

Thầy không ru đủ nghìn câu
Biết con chữ cũng đứng sau cuộc đời
Tuổi thơ em có một thời
Ướ
c mơ thì rộng như trời, ngàn năm

(Lời ru của thầy - Đoàn Vị Thượng)

“Em nghe thầy đọc bao ngày

Tiếng thơ đỏ nắng xanh cây quanh nhà

i chèo nghe vọng sông xa

Êm êm như tiếng của bà năm xưa

Nghe trăng thở động tàu dừa

Rào rào nghe đổ cơn mưa giữa trời.

…Đêm nay thầy ở đâu rồi

Nhớ thầy, em lại lặng ngồi em nghe.”
(
Nghe thầy đọc thơ - Trần Đăng Khoa )

Con đò mộc - mái đầu sương

Mãi theo ta khắp muôn phương vạn ngày

Khúc sông ấy vẫn còn đây

Thầy đưa tiếp những đò đầy qua sông... “
(Người lái đò - Thảo Nguyên).

Em đi nón chạm mây trời

Rừng sâu bán chữ” cất lời ngân nga

Tiếng rao xao xác lau già

Non cao đôi mảnh trăng tà ngậm sương”

 ( Em đi - Lê Đình Cánh )
Có một thời khó khăn, nhiều người đã chê ngành Sư phạm :” nhất y, nhì dược, tạm được bách khoa, bỏ qua sư phạm.” hay: “ chuột chạy cùng sào mới vào sư phạm”. Đến khi ra trường rồi, hình ảnh người thầy cũng rất tội nghiệp: “ Thầy giáo tháo giày đi dép lốp, Nhà trường nhường trà uống nước trong.” Tệ hơn nữa: “ Muốn giàu lấy thợ điện, muốn diện lấy thợ may, muốn ăn mày lấy thầy giáo.”
May thay, những chuyện như vậy chỉ là một thời đã qua, một thời đã xa!

   Trải qua bao thăng trầm của lịch sử dân tộc, bên cạnh những chiến công vang dội để bảo vệ non sông đất nước thì lịch sử dân tộc Việt Nam còn ghi đậm dấu ấn về bề dày văn hóa, trong đó có giáo dục, khoa cử. Sau đây là một số nhà giáo tiêu biểu đã có công kiến tạo nền tri thức nước nhà.

 1. Thầy giáo Chu Văn An (1292 - 1379)

Nhà giáo Chu Văn An tên thật là Chu An, hiệu là Tiều Ân, tên chữ là Linh Triệt. Ông là một trong những nhà giáo ưu tú nhất trong lịch sử Việt Nam. 

Thầy Chu Văn An vốn là người chính trực nên không thích việc quan trường luôn ẩn chứa nhiều điều thị phi. Ông mở trường dạy học ở làng Huỳnh Cung bên sông Tô Lịch (Hà Nội ngày nay). Sau này, ông được chính vua Trần Minh Tông mời đến dạy tại Quốc Tử Giám và làm thầy riêng cho thái tử Trần Vượng, tức vua Trần Hiến Tông sau này.

Điển tích nổi tiếng nhất của thầy Chu Văn An khi sinh thời thể hiện sự chính trực chính là việc ông dâng Thất trảm sớ”, yêu cầu vua Trần Dụ Tông chém đầu bảy tên gian thần song bị vua từ chối. Sau đó, ông cáo lão, về ở ẩn gần núi Phượng Hoàng, Chí Linh, Hải Dương, làm một thầy giáo truyền thụ kiến thức cho đến khi mất.

2. Thầy giáo Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585)

Nhà giáo Nguyễn Bỉnh Khiêm tự là Hạnh Phủ, hiệu là Bạch Vân cư sĩ hay còn được biết đến với cái tên quen thuộc là Trạng Trình. Ông nổi tiếng vì tính tình cương trực, tư cách đạo đức và tài thơ văn của một nhà giáo có tiếng thời kỳ Lê – Mạc phân tranh. Ngay từ bé, ông đã có tướng mạo khôi ngô tuấn tú, có trí nhớ hơn người. Giống như rất nhiều vị hiền nhân khác trong lịch sử, thời thế loạn lạc đã khiến ông không hứng thú với chốn quan trường. 

Sau này, dưới thời vua Mạc Đăng Doanh, ông đỗ Trạng nguyên và quyết định phò vua giúp nước. Song vì không chịu được những điều thị phi, ông dâng sớ hạch tội 18 tên gian thần nhưng bị từ chối, ông cũng từ quan về ở ẩn, trở thành một nhà giáo lỗi lạc. Học trò của ông trong thời điểm này có những người rất nổi tiếng như Nguyễn Dữ, Phùng Khắc Khoan…

Hơn 40 năm lui về Bạch Vân Am dạy học là hơn 40 năm thầy dồn hết tâm huyết đào tạo nhiều tri thức lớn cho đất nước. Học trò của thầy đều là những nhân tài xuất chúng, văn võ song toàn như Phùng Khắc Khoan, Lý Hữu Khánh, Nguyễn Quyện… Danh tiếng và tài năng của thầy và trường Bạch vân bên dòng Tuyết Giang vang dội khắp nơi. Thầy được các môn sinh tôn là “Tuyết Giang phu tử”  - một danh xưng tôn kính cho những bậc sư biểu đức độ.

Đồn rằng, do được truyền cho quyển Thái ất thần kinh” nên thầy Nguyễn Bỉnh Khiêm tinh thông về lý học, tướng số, có thể tiên đoán được biến cố trước và sau 500 năm. Với những câu sấm truyền”, thầy được người đời suy tôn là “nhà tiên tri” số một của Việt Nam. Giai thoại cùng với những lời sấm tiên tri của thầy vẫn còn được truyền tụng tận đến ngày hôm nay và ứng nghiệm đến bất ngờ.

   Lúc sinh thời, thầy đã dùng tài lý số của mình cứu vãn” cho triều nhà Mạc tồn tại được một thời gian khá dài. Tương truyền rằng, lúc nhà Mạc sắp mất liền sai người đến hỏi thầy. Thầy đã đưa ra lời sấm cho nhà Mạc rằng: Cao Bằng tàng tại, tam đại tồn cô”. Nghĩa là nếu chạy lên Cao Bằng thì sẽ tồn tại được 3 đời. Quả nhiên, nhà Mạc lên Cao Bằng thì tồn tại được thêm 3 đời. Thầy cũng đưa ra lời sấm cho Nguyễn Hoàng, mà nhờ đó nhà Nguyễn mới tiến vào Nam mở rộng bờ cõi để đất nước ta có hình thái như ngày hôm nay.

3. Thầy giáo, nhà bác học Lê Quý Đôn (1726 - 1784)

    Nhà giáo Lê Quý Đôn tên thật là Lê Danh Phương. Ông là một vị quan, một nhà khoa học trong rất nhiều lĩnh vực ở thời hậu Lê. Với kiến thức uyên thâm, tài trí hơn người, Lê Quý Đôn đã để lại nhiều bộ sách có giá trị ở nhiều thể loại khác nhau như lịch sử, địa lý, thơ văn, lý số… Ngoài ra, ông còn là một nhà nho, nhà giáo dục tài năng và đức độ. Qua bàn tay dạy dỗ với những bài học về kiến thức, đạo đức làm người, học trò của ông có rất nhiều người đã thành tài và giữ chức vụ quan lớn trong triều đình.

Thuở nhỏ, cậu bé Lê Danh Phương ( tên đầu tiên của Lê Quý Đôn ) rất cứng đầu  và biếng học. Cha Phương quở trách, buộc cậu làm một bài thơ trong đó phải có điều gì liên quan đến sự cứng đầu, cứng cổ để tạ tội.

 Phương vâng lời và đọc ngay một bài có tên là “rắn đầu” nghĩa bóng là cứng đầu như sau:

Chẳng phải liu điu vẫn giống nhà,

Rắn đầu biếng học, chẳng ai tha

Thẹn đèn hổ lửa đau lòng mẹ,

Nay thét mai gầm rát cổ cha.

Ráo mép chỉ quen tuồng nói dối,

Lằn lưng cam chịu vết roi tra.

Từ nay Trâu Lỗ chăm nghề học.

Kẻo hổ mang danh tiếng thế gia”.

 

Đặc điểm của bài thơ này là, đọc câu nào trong bài chúng ta cũng gặp tên một loài rắn. Chẳng hạn như rắn, rồi rắn liu điu, rắn hổ lửa, rắn mai gầm, rắn ráo, rắn thằn lằn, rắn hổ mang...Ni dung bài thơ lại toát lên sự nhận lỗi và hứa sẽ chăm học hơn « kéo hổ mang danh tiếng thế gia ».

 

 4. Thầy giáo Nguyễn Đình Chiểu (1822 - 1888)

 Nguyễn Đình Chiểu tự là Mạnh Trạch, hiệu Trọng Phủ, Hối Trai, hay còn được gọi với cái tên thân mật là cụ đồ Chiểu. Ông là một trong những nhà thơ, nhà văn hóa lớn ở thế kỷ 19 trong lịch sử văn học Việt Nam. Ông là một trong những con người có cuộc đời khá bất hạnh. Xuất thân trong một gia đình nhà nho, ông cũng có một tương lai tươi sáng khi đang rộng bước trên con đường khoa cử. Bên cạnh đó, ông còn được một gia đình giàu có hứa gả con gái. Tuy nhiên, việc thân mẫu của ông mất chính là bước ngoặt thay đổi hoàn toàn cuộc sống của nhân vật này. Mẹ mất, vì quá thương mẹ mà khóc đến mù hai mắt, sau đó là bệnh tật, hôn thê bội ước, gia cảnh sa sút. Tuy vậy, chính hoàn cảnh này mới bộc lộ được tính cách của một nhà nho, nhà giáo, nhà yêu nước chân chính.

Sống vào thời điểm loạn lạc nhất trong lịch sử phong kiến khi nước Pháp bắt đầu mang quân sang xâm lược nước ta, trước những cám dỗ của kẻ thù, ông vẫn giữ khí tiết. Ông đã để lại cho đời rất nhiều áng văn lỗi lạc như Lục Vân Tiên và Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc.

5. La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp (1723 – 1804)

   Nguyễn Thiếp là một danh sĩ nổi tiếng đời hậu Lê và Tây Sơn. Cùng với Nguyễn Bình Khiêm, Nguyễn Thiếp được học trò tôn là "Phu tử". Với tư chất thông minh, được dạy dỗ từ nhỏ, những điều kiện đủ để Nguyễn Thiếp trở nên một người hay chữ và hiển đạt về sau. Nhưng Nguyễn Thiếp không thích lối sống khuôn sáo, bó buộc thường tình, mà ngoặt sang lối rẽ khác, thực hiện chí của riêng mình theo lẽ xuất, xử của nhà Nho. Năm 21 tuổi, Nguyễn Thiếp đỗ Hương giải, con đường công danh trước mắt rộng thênh thang, vậy mà không hiểu vì sao ông lại dứt con đường cử nghiệp, chuyển sang ẩn dật. Sau này, Nguyễn Thiếp bất đắc dĩ phải ra làm quan để "để nuôi mẹ già báo đáp đạo hiếu" nhưng cũng từ đó ông tham gia vào việc chấn hưng việc học bị đình đốn sau nhiều năm loạn lạc, ông đưa ra nhiều chủ trương mới nhưng không được chấp nhận. Sau 13 năm làm quan, vì quá chán nản, ông lui về ở ẩn. Trong những năm tháng sống ẩn dật trên núi Bùi Phong, Phu tử đã dạy được nhiều lớp học trò thành đạt, đem lại sự giáo hóa và muốn thay đổi học phong cho cả một thời Tây Sơn.

 6. Nhà giáo Phan Bội Châu (1867–1940)

 Phan Bội Châu là một danh sĩ và là nhà cách mạng Việt Nam, hoạt động trong thời kỳ Pháp thuộc.

Gia cảnh khó khăn, ông đi dạy học kiếm sống và học thi. Khoa thi năm Đinh Dậu (1897) ông đậu vào trường nhì nhưng bạn ông là Trần Văn Lương đã cho vào tráp mấy cuốn sách nên ông bị khép tội hoài hiệp văn tự (mang văn tự trong áo) nên bị kết án suốt đời không được dự thi nữa. 

Sau sự cố này, Phan Bội Châu vào Huế dạy học, do mến tài ông nên các quan đã xin vua Thành Thái xóa án. Nhờ vậy, ngay khoa thi hương tiếp theo, năm Canh Tý (1900), ông đã đậu đầu (Giải nguyên) ở trường thi Nghệ An. 

Đất nước bị giặc ngoại xâm, ông lập Duy Tân hội, sang Nhật cầu viện, rồi phát động phong trào Đông Du nhưng thất bại. Phan Bội Châu mất ngày 29 tháng 12 năm 1940 tại Huế. 

Tên ông đã được đặt cho nhiều trường học và nhiều con đường trên cả nước, trong đó có trường chuyên của tỉnh Nghệ An và một con phố lớn tại Hà Nội, Hạ Long.

Plato: Triết gia và nhà giáo Hy Lạp cổ đại, hiệu trưởng ngôi trường đầu tiên của thế giới phương Tây

Ngày nay, khi nói đến lịch sử triết học cổ điển, tên tuổi của Plato không thể không được nhắc đến. Ông là một trong những nhà triết học vĩ đại nhất của Hy Lạp cổ đại và đã để lại ảnh hưởng sâu sắc trong lĩnh vực triết học, giáo dục và nghệ thuật.

Plato, tên đầy đủ là Aristocles Plato, sinh vào khoảng năm 428-427 trước Công nguyên tại Athens, Hy Lạp. Ông là học trò xuất sắc của Socrates và sau đó trở thành người thầy của Aristotle, tạo nên một chuỗi kế nhiệm triết học nổi tiếng. Plato nổi tiếng với triết lý Platonism, một hệ thống triết học toàn diện liên quan đến vấn đề như đạo lý, chính trị, và giáo dục.

Một trong những đóng góp quan trọng nhất của Plato đối với triết học là công trình "Chính trị", nơi ông mô tả ý tưởng về "nhà triết học vua" - một nhóm người thông thái và đạo đức nhất nên lãnh đạo xã hội. Ông cũng nổi tiếng với thuyết "Hình", một ý tưởng về sự hiện thực của thế giới vật chất và thế giới tư tưởng không thể nhìn thấy bằng giác quan thông thường.

Trong lĩnh vực giáo dục, Plato thành lập Học viện Athens, một trong những trung tâm nổi tiếng nhất của thời đại, nơi ông giảng dạy và truyền đạt tri thức cho các học trò của mình. Đồng thời, ông cũng ghi chép những bài giảng và thảo luận của Socrates, đóng góp quan trọng cho việc lưu truyền tri thức và tư duy.

Plato không chỉ là một nhà triết học lớn mà còn là một nhà văn tài năng. Các tác phẩm như "Quốc phủ" và "Phép thử kim loại" đã giúp hình thành nền văn hóa và triết học của thế giới cổ đại.

Mặc dù đã hơn hai ngàn năm trôi qua từ khi Plato sống, nhưng tư tưởng của ông vẫn còn sống động và có ảnh hưởng đến tư duy hiện đại. Hình ảnh của người thầy Plato không chỉ là một nhà triết học, mà còn là một nhà giáo tâm huyết, người luôn tìm kiếm sự đạo đức và tri thức để truyền đạt cho thế hệ tương lai.

Khổng Tử : Nhà triết học, người thầy của văn hoá Trung Hoa

Khổng Tử (551-479 TCN), hay Confucius trong phiên âm Latinh, là nhà giáo người Trung Quốc duy nhất có tầm ảnh hưởng đến cả châu lục và thế giới. 

Ông là học trò nổi tiếng của Khổng Đạo và sau này trở thành người thầy của Mencius, tạo nên một dòng triết học nổi bật trong lịch sử Trung Quốc.

Triết lý của Khổng Tử được tóm gọn trong hệ thống tư tưởng Confucianism, một hệ thống giáo dục mà ông coi là cơ sở cho đạo đức và xã hội. Ông chủ trương "Nhân quả thịnh, thiên địa hòa" (Nhân vừa đạo, thì thiên địa hòa hợp) - ý nghĩa rằng nếu con người tuân theo đạo đức và hành xử đúng, thì tình hình xã hội và thiên nhiên sẽ hòa thuận.

Một trong những công trình quan trọng của Khổng Tử là "Nhân quả" (Analects), một tập hợp những tuyển chọn từ những bài giảng và hội thoại của ông với học trò. Trong "Nhân quả," ông tập trung vào những giá trị đạo đức, tôn trọng gia đình, và đặc biệt là quan điểm về quyền lực, trong đó ông nhấn mạnh tầm quan trọng của việc lãnh đạo bằng tâm huyết và tình thần nhân đạo.

Khổng Tử không chỉ là một nhà triết học mà còn là một nhà giáo tâm huyết. Ông dành phần lớn cuộc đời mình để giảng dạy và lan truyền tri thức, góp phần lớn vào việc hình thành nền triết học và văn hóa của Trung Quốc.

Khổng Tử đã để lại ảnh hưởng sâu sắc trong lĩnh vực triết học, đạo đức và giáo dục. Sự tận tâm và triết lý sống của ông vẫn tiếp tục là nguồn cảm hứng cho thế hệ sau, là biểu tượng của sự hiểu biết, nhân bản và đạo đức, những giá trị trường tồn và lan tỏa qua thời gian.

Leonardo da Vinci: Thiên tài toàn năng nhất lịch sử nhân loại

Leonardo da Vinci là một họa sĩ, nhà phát minh, nhà vật lý, nhà toán học và kiến trúc sư người Ý, có ảnh hưởng lớn đối với nghệ thuật và khoa học.

Nhắc đến những danh nhân nghệ thuật và khoa học, Leonardo da Vinci được xem là một biểu tượng, không chỉ là một họa sĩ xuất sắc mà còn là một nhà khoa học, kiến trúc sư và phát minh gia. 

Leonardo nổi tiếng với tác phẩm hội họa vĩ đại: bức tranh Mona Lisa, Bữa ăn tối cui cùng và Người Vitruvius. Bức tranh Mona Lisa không chỉ là biểu tượng của nghệ thuật hiện đại mà còn là một biểu tượng văn hóa toàn cầu, với ánh nhìn sâu sắc và vẻ đẹp bí ẩn.

Ngoài hội họa, Leonardo còn là một nhà nghiên cứu và phát minh gia xuất sắc. Ông ghi chú về hàng nghìn ý tưởng, bao gồm cả máy bay, máy đo, và thiết bị đo lường. Các bản vẽ của ông về con người, động vật và máy móc không chỉ là nghệ thuật mà còn là nền tảng cho những khám phá khoa học sau này.

Leonardo da Vinci không chỉ là một người học giỏi mà còn là một người thầy tâm huyết. Ông đã tạo nên một thế hệ họa sĩ và nhà khoa học tài năng, di sản và tư tưởng của ông vẫn sống mãi trong trái tim và tư duy của con người 

John Amos Comenius: "Cha đẻ của giáo dục hiện đại"

John Amos Comenius (1592-1670) là một triết gia, nhà cải cách giáo dục, nhà thần học người Séc, được biết đến là người có đóng góp lớn vào phương pháp giảng dạy, khai sinh ra sách giáo khoa sử dụng hình ảnh. Nhân loại gọi ông là "Cha đẻ của giáo dục hiện đại".

John Amos Comenius không chỉ là một nhà giáo xuất sắc mà còn là một triết gia tiên phong, người đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lĩnh vực giáo dục toàn cầu. Ông đã chứng kiến nhiều thách thức trong cuộc sống, từ chiến tranh và bất ổn xã hội, nhưng những khó khăn này đã khích lệ ông tìm kiếm những giải pháp giáo dục mang tính đổi mới.

Một trong những đóng góp quan trọng nhất của Comenius là ý tưởng về giáo dục toàn diện. Ông đề xuất việc giảng dạy mọi kiến thức theo một cách có tổ chức và hệ thống, giúp học sinh phát triển toàn diện cả về lý thức và thực hành. Phương pháp giảng dạy của ông tập trung vào việc sử dụng hình ảnh, minh họa và kỹ thuật trực quan để truyền đạt kiến thức.

Tác phẩm nổi tiếng "Orbis Pictus" (Thế giới hình ảnh) của Comenius, xuất bản năm 1658, được xem là bản sách giáo trình đầu tiên dành cho trẻ em. Cuốn sách này giúp trẻ em học một cách hiệu quả, thúc đẩy sự phát triển tư duy và sự sáng tạo.

Ngoài ra, Comenius còn nổi tiếng với tư duy về "giáo dục công bằng," mà ông tin rằng giáo dục nên dành cho mọi người, không phân biệt giai cấp xã hội hay địa vị. Ông mong muốn xây dựng một hệ thống giáo dục lành mạnh, phát triển toàn diện cho nhân loại

Tư duy và nguyên tắc giáo dục của John Amos Comenius có đóng góp quan trọng đối với sự hiểu biết về giáo dục hiện đại. 

 Isaac Newton: Nhà khoa học, quả táo và định luật vạn vật hấp dẫn

Isaac Newton (1643-1727) là một trong những cái tên không thể không được kể đến trong số những nhà khoa học lừng danh trong lịch sử. Ông không chỉ là một nhà toán học và nhà vật lý xuất sắc mà còn có ảnh hưởng lớn đối với khoa học hiện đại: toán học, vật lý, thiên văn học, và triết học.

Công trình nổi tiếng của Newton bao gồm "Nguyên tắc Toán học Nghiên cứu Tự nhiên", xuất bản năm 1687. Trong tác phẩm này, Newton giới thiệu ba định luật chuyển động và định luật về trọng lực, mở ra một thời kỳ mới trong lĩnh vực vật lý học.

Newton cũng nổi tiếng với phát minh ra phương trình vi phân và nền toán học mới, mang lại những công cụ mạnh mẽ cho việc nghiên cứu vận động của các đối tượng và hiểu biết về các hiện tượng tự nhiên. Công trình của ông đã định hình nền tảng cho toán học và vật lý hiện đại.

Isaac Newton không chỉ là một nhà khoa học mà còn là một nhà giáo tận tâm, ông giảng dạy tại Đại học Cambridge. Sự đóng góp của ông không chỉ là những công trình nghiên cứu xuất sắc mà còn là lòng nhiệt huyết với giáo dục, với sự phát triển của khoa học hiện đại.

Maria Montessori: Nữ bác sĩ sáng lập phương pháp giáo dc Montessori

Maria Montessori (1870-1952), một người phụ nữ đầy tài năng và sáng tạo, đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lĩnh vực giáo dục với phương pháp Montessori, một hệ thống giáo dục độc đáo và có ảnh hưởng lớn trên toàn thế giới.

Maria Montessori theo đuổi sự nghiệp y học và trở thành bác sĩ phụ sản đầu tiên tại Ý. Tuy nhiên, đam mê của bà không chỉ dừng lại ở y học mà còn mở rộng sang lĩnh vực giáo dục.

Phương pháp Montessori, được Maria Montessori phát triển từ những nghiên cứu và quan sát về sự phát triển của trẻ em, tập trung vào việc tôn trọng và khuyến khích sự tự do và tự chủ. Thay vì giảng dạy theo kiểu truyền thống, phương pháp này đặt trẻ vào môi trường tự nhiên, tự quản lý, nơi họ có thể phát triển theo cách tự nhiên nhất.

Bằng cách sử dụng đồ dùng giáo dục đặc biệt thiết kế cho từng giai đoạn phát triển của trẻ, Phương pháp Montessori không chỉ hỗ trợ việc học mà còn khuyến khích sự sáng tạo, lòng tự tin và tư duy phê phán. Bà Montessori tin rằng "Hãy để trẻ làm những việc họ có thể làm đúng cách, họ sẽ phát triển thành người tự tin và tự trọng."

Maria Montessori không chỉ là người sáng lập Phương pháp giáo dc Montessori, được áp dụng rộng rãi trên khắp thế giới, bà còn là biểu tượng của lòng say mê với giáo dục, lòng nhân ái và sự cam kết với sự phát triển toàn diện của trẻ em.

     Vào ngày này, trò đến thăm thầy bằng tấm lòng tôn kính, không cần phải quà cáp gì. Trò cần nhớ rằng, ngày nay dù mình có quyền cao chức trọng gì thì cũng một mực lễ phép với thầy giáo cũ. Gương sáng thường được nhắc là chuyện Ông Carnot.

    Chuyện kể rằng ông Marie Francois Sadi Carnot nguyên là tổng thống nước Pháp. Một hôm, nhân chuyến về thăm quê nhà, ông đi ngang qua trường làng, trông thấy người thầy dạy mình lúc bé, bây giờ đã rất già, nhưng vẫn đang ngồi trong lớp.

     Ông Carnot ghé vào thăm trường và đến ngay lại trước mặt thầy giáo, mà rằng: Chào thầy, con là Carnot đây, thầy còn nhớ con không?”. Rồi ông bảo những học trò nhỏ: Ta trước là mang ơn cha, ơn mẹ, sau ơn thầy đây, vì nhờ thầy chịu khó dạy bảo, ta mới làm nên sự nghiệp ngày nay”.

   Chuyện ông Carnot là vậy, đơn sơ mà cảm động. Vị tổng thống không yêu cầu chính quyền địa phương sắp đặt đón mình, không cần dọn dẹp trường lớp, trang hoàng lộng lẫy với băng rôn, biểu ngữ và cũng không bắt học trò làm hàng rào danh dự chào mừng. Nhưng cảm động nhất là hình ảnh một nguyên thủ quốc gia “đến ngay lại trước mặt thầy giáo, chào hỏi lễ phép” trong lúc thầy vẫn điềm nhiên giảng dạy các trò nhỏ. Đối với người thầy giáo già, chẳng cần biết có “ông lớn” tới, chẳng cần chạy vội ra cổng trường xum xoe đón tiếp, rồi hộ tống vào lớp tham quan, huấn thị này nọ. Người thầy giáo già vẫn dạy học bình thường như mọi ngày. Carnot quyền uy hôm nay vẫn là cậu học trò nhỏ tinh nghịch của ngày xưa đã từng bị thầy đánh vào tay, véo tai, bắt quì phạt!

   Nghe chuyện xưa để ngẫm chuyện nay. Nghề Giáo được vinh danh bằng nhiều mỹ từ “Giáo dục”, Mô phạm”, Kỹ sư tâm hồn”. Thời Nho học thịnh hành, vai trò, vị thế của người thầy chỉ đứng sau vua, quân - sư - phụ”. Câu Nhất tự vi sư, bán tự vi sư’’ khẳng định lòng kính trọng tuyệt đối, nghĩa thầy trò sâu nặng. Vì lẽ đó, xã hội đòi hỏi ở các người thầy bao tiêu chuẩn, là tấm gương để học sinh noi theo.

    Xã hội tiến bộ, giáo dục cũng đổi thay tùy hoàn cảnh đất nước. Vị thế của người thầy vô hình trung bị “kỹ nghệ hoá’’ như bao ngành nghề khác. Đáng buồn hơn, có lúc, có nơi, không ít các bậc cha mẹ nghe lời con mà phê phán, gây hấn, hăm dọa thầy, cô giáo; thậm chí có học sinh còn thượng cẳng chân, hạ cẳng tay” với thầy cô.

   Là người, không ai hoàn hảo cả. Thầy, cô giáo cũng không ngoại lệ. Nhưng nếu xã hội thiếu kỷ cương, luật pháp thiếu nghiêm minh thì hậu quả tai hại không phải chỉ một thế hệ đương thời mà nhiều thế hệ tương lai. Bởi lẽ, nghề dạy học đòi hỏi nhiều thử thách, công sức, sáng tạo và nghệ thuật. Thầy, cô giáo như con ong chuyên cần đắp xây tổ tươm mật ngọt, nhận lãnh thiên chức đào tạo hữu hiệu con người biết sống có tình, có nghĩa. Một điều căn cơ là giáo dục không phải công cụ, sản phẩm ca riêng ai.

    Bất cứ thời đại nào, từ ngàn xưa, hôm nay và mãi đến ngàn sau, người thầy vẫn tượng trưng cho khuynh hướng thế hệ đương thời, chiếc gương thời đại phản ảnh ước vọng tuổi trẻ, nguồn cảm hứng dồi dào trong mọi lĩnh vực mà đạo đức phải luôn đồng hành với kiến thức. Câu Tiên học lễ, hậu học văn” là vì lẽ đó.

   Tôn vinh nghề giáo, tôn kính thầy cô không chỉ là truyền thống ngàn đời của người Việt Nam; đó còn là góp phần xây dựng nền móng vững chắc cho lâu đài học vấn của mỗi công dân, cho tương lai đất nước.

Trong giáo dục, có lẽ có rất nhiều công việc cụ thể phải làm, có rất nhiều việc cụ thể phải nắm bắt. Nhưng việc bồi dưỡng học trò tốt nhất chính là bồi dưỡng phẩm chất đạo đức, bồi dưỡng những giá trị nhân văn, trong đó căn bản nhất, quan trọng nhất chính là đánh thức lương tri biết trân quý, tôn trọng sinh mệnh của học trò.

    Dù đang học hay đã nghỉ học rồi nay về thăm thầy cô giáo, trò cũng nên diễn đạt bằng lời, dù đơn sơ mộc mạc nhưng phải thành thật không màu mè. Là trò rồi là thầy, mỗi năm đến tháng 11 là trong lòng lại dấy lên những suy nghĩ về công việc mình đã làm trong quá khứ. Phải chăng chỉ là lẽ thường tình?

Tháng 11

THÂN TRỌNG SƠN.