Peter S. Beagle - Doãn Quốc Sỹ dịch
Con Kỳ Lân Cuối Cùng
HIỆN ĐẠI THƯ XÃ xuất bản 1973
Nguyên tác: THE LAST UNICORN của Peter S. Beagle do Ballantine Book, Inc., New York xuất bản lần Thứ Tư, 1972.
Copyright © 1968 by Peter S. Beagle
Bản dịch Việt văn của Doãn Quốc Sỹ, do Hiện Đại Thư Xã xuất
bản, với sự chấp thuận của tác giả Peter S. Beagle.
HIỆN ĐẠI THƯ XÃ
28, Phùng Khắc Khoan SAIGON - Đt: 93771
TỰA CỦA DỊCH GIẢ
Đầu xuân năm nay, (1973), tôi được anh bạn thân trao cho cuốn THE
LAST UNICORN với lời giới thiệu trước rằng đây là một trong
những best-sellers hiện thời. Tôi vốn không tin cẩn
những best-sellers nên cũng chỉ hững hờ đọc mươi trang đầu,
nhưng rồi kế đó tôi đọc miết mải và đọc kỹ. Peter S. Beagle là một trong những
tác giả Tây Phương hiếm hoi thấu hiểu tinh thần Dịch lý âm trung chi
dương, dương trung chi âm, và tinh thần phá chấp, vô cầu cực kỳ thanh
thoát của Thiền. Tôi dịch THE LAST UNICORN với một tinh thần
tri kỷ.
Hãy xin ghi chú rất nhanh quan điểm dịch của tôi. Tôi muốn tác phẩm được
thật gần gũi với độc giả Việt Nam, nên chủ trương dịch thật thoát nghĩa. Rất
nhiều khi tôi phải thêm lời vào cho tròn trịa ý của nguyên tác, và cũng đôi khi
tôi tước bỏ đi một vài ý nhỏ xét ra chỉ làm rườm lời tối nghĩa với độc giả Việt
Nam. Đặc biệt những bài thơ, những bài đồng dao trong tác phẩm, hầu hết tôi chỉ
giữ lấy ý chính, còn hoàn toàn sáng tác lại theo lời Việt, tinh thần Việt. Tất
cả những thay đổi nhào nặn nhỏ đó chỉ để phục vụ nguyên tác, luôn luôn theo sát
nguyên tác về ý, cũng như về giọng điệu. Đặc biệt cách viết và trình bày đối
thoại, tôi cố ý giữ đúng theo dáng dấp nguyên bản, vì đó là nét đặc biệt của
văn chương Anh ngữ mà tôi muốn chúng ta làm quen dưới hình thức Việt ngữ.
Còn về nội dung CON KỲ LÂN CUỐI CÙNG - THE LAST UNICORN ra
sao đây? Tôi không dại gì tiết lộ trước tình tiết câu truyện ra đây để các độc
giả mất thú bất ngờ, chỉ xin ghi mấy cảm nghĩ nhân đọc và dịch CON KỲ
LÂN CUỐI CÙNG mà nẩy sinh. Những cảm nghĩ rất rời rạc, tôi cố ý vậy và
cũng chẳng thể nào khác hơn, nhưng khi các bạn đọc xong tác phẩm những cảm nghĩ
rời rạc đó sẽ kháp lại thành một hệ thống tô đậm mang nhiều ý nghĩa hơn. Xin
được tuần tự nêu như sau đây:
- Kỳ lân, lý tưởng chân thiện mỹ, nay với người đời chỉ còn là một huyền
thoại thôi hay sao? Có thực người đời ngày nay sa đọa đến nỗi không những quay
đi, mà còn cười mũi vào những gì là lý tưởng chân thiện mỹ, nhìn con kỳ lân
cuối cùng mà cho là con ngựa cái trắng? Biết kính trọng kỳ lân, mỉa mai thay,
lại là lũ gà, vịt, ngan, ngỗng, và bất kỳ con vật lớn nhỏ nào. Nhận được ra kỳ
lân chỉ có mấy người: Schmendrick và Molly vốn yêu kỳ lân; Bà Má Định Mạng và
Vua Haggard, kẻ thì muốn dùng kỳ lân như phương tiện, kẻ thì muốn độc quyền kỳ
lân.
Kể ra giữa đám người trần mắt thịt nhìn kỳ lân ra ngựa cái, thì kẻ nhận ra
kỳ lân, dù với tâm trạng nào, cũng vẫn là những cặp mắt tri kỷ. Có điều Bà Má
Định Mạng ở vào trường hợp tài bất cập chí, thực tội nghiệp, như đứa trẻ cố sử
dụng cây trùy lớn hơn mình và bị trùy đè bẹp. Giá trị phù phép của Bà Bá Định
Mạng nhẹ như hình nộm mà lại nhốt giữ hai trái núi Thái Sơn của Thiện (lân) và
của Ác (ác điểu Celaeno). Bùa phép chỉ là thứ bụi phấn vô cùng mong manh phủ
ngoài, khi được tự do, những thứ thiệt cỡ lớn đó chỉ sẽ rùng
mình là phủi đi hết, có còn gì nữa đâu. Sự thực nung chảy tà thuyết. Bi kịch
của những kẻ tài bất cập chí, đi vào tà đạo lừa người và tự lừa mình bằng ảo
thuật là ở đó. Chúng ta há chẳng đương sống trong thời đại yêu thuật của tuyên
truyền chính trị? Vua Haggard mới đích thực là phù thủy thứ thiệt đại diện cho
Ác, kẻ muốn độc quyền kỳ lân, kẻ có một chính sách vô úy, dùng Con Bò Mộng Đỏ
làm phương tiện khủng bố, đẩy hiệu năng tới mức vô tiền tuyệt hậu. Chỉ còn chút
xíu nữa, bắt nốt con kỳ lân cuối cùng, là ông ta làm bá chủ, dìm cả thế giới
vào vùng ảo thuật đen của ông, trong đó tất cả những vì sao lý tưởng đều bị dập
tắt ngấm.
Trong thế cheo leo chỉ còn đường tơ kẽ tóc đó, phải làm thế nào để cứu
mình và cứu người? Thực ra chẳng ai cứu nổi mình, nếu mình không có ý chí tự
cứu mình trước. Điều này chẳng mới lạ gì, nhưng không vì thế, mà chúng ta không
nhắc nhở luôn, khi có dịp. Trí nhớ con người nào hơn gì thỏ, dao năng mài mới
sắc. Vai trò của chàng ảo thuật gia tưởng như nửa mùa, Schmendrick là ở đó.
Chàng là hiện thân của nếp sống nghệ sĩ, chân thành trong thiên nhiên, tiên tri
tiên giác dưới hình thức lẩm cà lẩm cẩm, đã dạy ta một cách trọn vẹn nhất về
cái nhìn toàn diện và nếp sống vô cầu. Kỳ lân tiếc nuối khi phải trở về với bất
tử, Schmendrick tràn trề hạnh phúc khi được trở lại kiếp phù du có sống có
chết, nhưng chính vì có sống có chết mà trở thành sống động và quyến rũ muôn
vàn, trong đó thiện ác đều có vai trò của chúng. Cái nhìn sâu sắc nhất của
Peter S. Beagle chính là ở điểm này.
Tình yêu tất nhiên có sự hiện diện và đóng giữ vai trò tích cực lớn lao
của nó. Nếu như con kỳ lân cuối cùng không qua kinh nghiệm làm người có sống có
chết, có tình yêu trong cõi vô thường, con kỳ lân tất cũng bị dồn nốt xuống
biển để cho vua Haggard hoàn toàn làm chủ thế giới bằng thứ ảo thuật đen của
ông, dưới trướng là thứ phương tiện vô biên, sự khủng bố của Con Bò Mộng Đỏ.
Chính tình yêu là điểm le lói cuối cùng nổ tung thành cả một vùng hào quang cứu
lấy thế giới chỉ còn cách sự diệt vong có đường tơ kẽ tóc. Lý tưởng đơn thuần
cao vòi vọi của kỳ lân vẫn có thể bị con Bò Mộng Đỏ dễ dàng nhận chìm, nhưng
tình yêu thì không, dù là chỉ là một điểm nhỏ. Tình yêu thắp bừng ngọn đèn bất
úy, điều kiện cần và đủ để thắng Khủng Bố dưới mọi hình thức mà cứu lấy thế
giới này.
Cái Ác luôn luôn còn đó. Cái Ác không bao giờ bị tiêu diệt. Chỉ có chúng
ta là có thể bị tiêu diệt nếu để mất tình yêu. Đó là bức thông điệp tác
giả CON KỲ LÂN CUỐI CÙNG muốn để lại cho chúng ta.
Tất cả tình tiết truyện, nhân vật truyện, đối thoại, đều như xuất hiện
trong một giấc mộng bàng hoàng, không hẳn là ác mộng mà chìm đắm miên man trong
suy tư cho tới khi bừng tỉnh giữa ánh sáng, âm thanh, và hình ảnh quen thuộc
thường nhật.
Thoạt vào truyện, quả tình, chúng ta có cảm tưởng như thế giới ngày nay
hết chỗ cho kỳ lân, sau đó mới hay chẳng phải thế đâu. Mê có
thể trải nhiều kiếp, nhưng ngộ có thể chỉ trong sát na liền.
Thiện - Ác, Phúc - Tội chẳng hai! Như nước kia, gió thổi động thì thành sóng,
gió dứt, sóng vẫn là nước, cũng là ý trong Pháp Bảo Đàn kinh mà
ra. Nhưng tuổi trẻ nào cũng khao khát được chiêm ngưỡng lý tưởng tuyệt đối,
được ôm ấp, được thờ phụng cái Chân, cái Thiện, cái Mỹ tuyệt đối. Đành vậy chứ
biết sao bây giờ. Tam thập nhi lập, tứ thập nhi bất hoặc, ngũ thập tri thiên
mạng. Đường đời là thế, chẳng thể đốt giai đoạn được.
Điều thành công - điểm cuối cùng tôi muốn ghi nhận nơi đây - của tác
giả CON KỲ LÂN CUỐI CÙNG là đã khiến chúng ta phải lúng túng
một cách đáng yêu khi đọc truyện này, lúng túng trong việc loay hoay tìm cách
đặt những hình ảnh tượng trưng trong truyện sao cho khít khao với những hình
ảnh ngoài đời. Ta cứ phải loay hoay hoài, nghĩa là phải suy nghĩ hoài, vì có
cái gì trong lý tưởng tìm được chỗ nằm khít khao ngoài thế giới thực tai đâu.
Tìm tòi, suy nghĩ hoài, thấy được một ít, tiếp tục tìm tòi suy nghĩ... Một tác
phẩm mà đặt được những câu hỏi, những vấn đề vừa đứng đắn vừa ỡm ờ, vừa rõ
ràng, vừa huyền ảo như vậy, ta còn đòi hỏi gì hơn?
DOÃN QUỐC SỸ
1
Con Lân sống trong rừng Tử Đinh Hương (Lilac), sống hoàn toàn cô độc. Lân
sống đã lâu đời lắm rồi, lâu đời như một lão bà cổ kính, nhưng lân nào có lưu ý
đến điều đó. Lân không còn giữ được màu trắng phau phau của bọt biển như thuở
nào, giờ đây màu trắng của lân lâng lâng như màu tuyết đổ trong một đêm trăng.
Nhưng đôi mắt lân thì còn sáng, còn tinh, khi lân chạy dáng vẫn nhẹ như chiếc
bóng lướt trên mặt biển.
Thực ra lân không hề đơn giản là một thứ linh mã có sừng như nhiều người
đã từng thấy trong các hình vẽ cổ; lân nhỏ hơn, móng toác, và dáng dấp cực kỳ
uyển chuyển, ngựa làm sao sánh kịp, họa chăng hươu và dê có được đôi chút trong
dáng nhảy giễu cợt. Cổ lân thật thon, thật dài khiến đầu lân tựa như nhỏ đi; bộ
bờm thường rủ xuống khoảng giữa lưng, xốp như bông gạo, lồng lộng như mây. Tai
nhọn, chân thon với một cụm lông xinh trắng như tuyết ở khoảng mắt cá, vào
khoảng cao giữa đôi mắt là chiếc sừng lấp lánh ánh xà cừ ngay cả trong khoảng
đêm đen dày đặc. Lân giết rồng bằng sừng đó, chữa cho nhà vua khỏi vết thương
nhiễm độc cũng bằng sừng đó, mà rung cây cho hạt dẻ rụng xuống để mấy chú gấu
nhỏ ăn cũng bằng sừng đó.
Giống lân bất tử. Bản tính của lân thích sống một mình trong khoảng rừng
nào đó, thường là rừng có khoảng nước trong đủ để lân tự soi thấy bóng mình,
bởi lân cũng có chút kiêu ngạo hiểu rằng mình là sinh vật đẹp nhất và quyền
phép nhất thế gian. Lân hiếm khi đi thành cặp, và chẳng nơi chốn nào kỳ diệu
hơn nơi chốn chứng kiến một lân nhi ra đời. Vào những lần cuối cùng lân gặp
đồng loại, những con lân còn tơ vẫn đeo đuổi lân, kêu gọi lân bằng giọng nghe
lạ hoắc; nhưng rồi sau đó lân không còn ý niệm về thời gian, năm, tháng, mùa.
Khu rừng lân ở bao giờ cũng bốn mùa xuân bất tận, và lân đi tha thẩn dưới bóng
những cây dẻ gai lớn, thật lớn, ngắm hoài hoài đám thú, đám cầm sống dưới hang
đất, sống trong bụi cây, làm tổ trên ngọn cây, trên mặt đất... Lân đã ngắm liên
tiếp thế hệ này qua thế hệ khác những họ hàng nhà sói, nhà thỏ, lân quan sát
chúng săn đuổi con mồi, ân ái nhau, sinh con đẻ cái, rồi chết. Và vì lân chẳng
hề bận tâm làm những việc đó bao giờ nên lân cứ quan sát chúng hoài mà không
chán.
Một ngày kia có hai người thợ săn cưỡi ngựa mang theo cung dài vào rừng
săn nai. Lân bèn lướt theo hai người, lướt rất thận trọng, thính tai đến như
ngựa mà cũng không biết. Trông thấy con người, lân lại có cảm giác như xưa, một
cảm giác lẫn lộn vừa âu yếm vừa hãi hùng. Không bao giờ lân muốn người phát
giác thấy mình, tuy nhiên lân lại muốn tới gần để ngắm người cưỡi ngựa và nghe
người nói chuyện.
"Tôi không ưa cái cảm giác đi vào khu rừng này," người đứng tuổi
lẩm bẩm lên tiếng. "Những sinh vật sống tại khu rừng có kỳ lân bao giờ
cũng biết chút ít pháp thuật, đặc biệt thuật tàng hình. Chúng ta đừng hòng săn
được con mồi nào ở đây."
"Đã từ lâu rồi, làm gì còn giống kỳ lân kia chứ, ấy là hãy cho rằng
xưa quả có giống kỳ lân," người thứ hai nói. "Đây chỉ là một khu rừng
như muôn ngàn khu rừng khác."
"Vây sao ở đây lá không rụng, không có cả tuyết rơi nữa? Tôi dám cá
với anh rằng vẫn còn một con kỳ lân sót lại trên cõi đời này - tôi nghiêng mình
kính cẩn trước sinh vật lâu đời cổ kính đó - và bao lâu kỳ lân còn sống trong
khu rừng này, những tay thợ săn như chúng ta đừng hòng săn được gì, dù là một
con chim bạc má nhỏ. Cứ việc quất cho ngựa chạy đi, chạy nữa đi, anh sẽ thấy.
Tôi hiểu kỳ lân quá mà!"
"Toàn chuyện hão trong sách vở hết," người kia trả lời.
"Toàn chuyện cổ tích, chuyện trong Kinh Thi. Há chẳng phải thuở ba vua trị
vì cũng đã có những lời đồn đại rằng kỳ lân ở xứ này, kỳ lân ở xứ nọ sao? Nhưng
nào có ai thấy kỳ lân bao giờ? Anh cũng chẳng hơn cóc gì tôi, có biết kỳ lân
mồm ngang mũi dọc ra sao đâu. Toàn chuyện sách vở ráo trọi."
Người thợ săn thứ nhất im lặng giây lâu và người thứ hai huýt sao cho mình
nghe, tiếng sáo gay gắt, rồi người thứ nhất lên tiếng, "Bà cụ tổ mẫu tôi
đã từng một lần gặp lân. Hồi tôi còn nhỏ cụ thường kể lại chuyện đó cho
nghe."
"Ồ, vậy à? Thế cụ có bắt kỳ lân bằng dây cương vàng không?"
"Không, cụ không có dây cương vàng. Mà cũng chẳng cần phải dây cương
vàng mới bắt được lân. Đó là chuyện cổ tích! Chỉ cần lòng mình trong sạch là
đủ!"
"Phải, phải." Chàng thợ săn ít tuổi hơn cười khúc khích,
"Thế cụ bà có cưỡi kỳ lân không? Cưỡi không yên cương, tất nhiên lãng đãng
dưới rừng cây, như một nữ sơn thần thuở khai thiên lập địa."
"Cụ tổ mẫu tôi vốn sợ những con vật lớn," người đi săn thứ nhất
trả lời, "Cụ không cưỡi con lân, nhưng cụ ngồi thật yên lặng, và con lân
ngả đầu vào lòng cụ thiu thiu ngủ. Cụ tổ mẫu tôi cứ ngồi yên bằn bặt như vậy
cho đến khi kỳ lân thức giấc."
"Thế kỳ lân giống cái gì? Người xưa cho rằng kỳ lân vốn cực kỳ dữ
tợn, mình ngựa đầu hươu, chân voi, đuôi gấu; khi rống lên, tiếng trầm, có một
sừng màu huyền dài khoảng vài tấc, theo người Trung Hoa thì..."
"Cụ tổ mẫu tôi chỉ nói rằng kỳ lân tỏa ra mùi hương thơm lắm. Cụ vốn
không ưa mùi bất kỳ một con vật nào, kể cả mèo hay bò, cụ kêu là mùi chúng
hoang dại. Vậy mà cụ ưa mùi kỳ lân. Đã có lần cụ khóc khi nhắc lại chuyện đó
với tôi. Đã đành cụ già lắm rồi và người già thường dễ mủi lòng khi hoài niệm
đến cái gì thuở còn trẻ.
"Thôi hãy quay trở lại, chúng ta sang săn một khu rừng khác,"
người thợ săn thứ hai đột nhiên nói. Lân vội lẩn ngay vào một bụi rậm, đợi cho
hai người quay ngựa và phóng xa được một quãng mới lại tiếp tục lướt theo. Hai
người yên lặng cho ngựa chạy đều đến gần ven rừng thì người thợ săn thứ hai lên
tiếng, "Tại sao những linh vật đó lại mất đi, anh có biết không, nếu quả
thật xưa có chúng?"
"Nào ai biết được. Thời thế xoay vần! Liệu anh có cho rằng thời thế
này hợp với kỳ lân?"
"Dĩ nhiên là không rồi, nhưng tôi tự hỏi trước chúng ta có ai tự hào
là thời mình hợp với thời kỳ lân xuất hiện? Nay nhớ lại thì hình như tôi đã có
lần được nghe kể chuyện... nhưng lần đó tôi lại say bí tỉ đến díu cả hai mắt
lại, hoặc giả lan man nghĩ sang chuyện khác. Nhưng mà thôi, cũng chẳng sao. Còn
đủ ánh sáng để săn nếu chúng ta lẹ lên một chút, lẹ lên nào!"
Họ thoát ra khỏi rừng thúc ngựa phi nước đại, lướt nhanh về phía xa. Trước
khi cả hai khuất bóng, người thợ săn thứ nhất quay đầu lại, nói như thể nói với
chính bóng con lân mà chàng đang thực mục sở thị, "Hãy ở lại nơi ngươi
đang ở, hỡi linh vật đáng thương! Thế giới bên ngoài này chẳng có chỗ nào xứng
cho ngươi đâu. Hãy ở lại nơi rừng sâu ngươi trú ngụ, giữ cho cây xanh hoa nở,
giữ cho những loài vật bằng hữu sống bên ngươi được trường thọ. Đừng chú ý làm
chi đến đám thiếu nữ, vì rồi đây họ cũng chẳng thể trở nên gì khác hơn là những
bà già lẩm cẩm, thôi chúc ngươi may mắn."
Lân đứng lặng khoảng ven rừng và thốt thành tiếng: "Ta là con kỳ lân
duy nhất cuối cùng." Đó là những lời đầu tiên lân thốt ra kể đã từ trên
một trăm năm nay. Có thể như thế lắm. Lân nghĩ vậy và cũng chẳng ngại gì về nếp
sống đơn độc nơi đây, chẳng bao giờ gặp một đồng loài nào khác, bởi lân luôn
luôn nghĩ rằng tất nhiên còn những lân khác ở những nơi khác trên cõi đời, với
những ý nghĩ đó há chẳng đủ sao. "Nhưng dù sao ta cũng cần biết đồng loại
của ta có bị tuyệt diệt không. Nếu quả thực như vậy thì rồi tất đến lượt ta,
tránh sao thoát. Ý nghĩ đó làm lân hoảng sợ và muốn chạy. Bóng lân lấp lánh
lướt nhẹ dưới bóng rừng, lướt qua những khoảng rừng trống sáng đến khó chịu, có
cỏ, có bóng đổ xuống đu đưa; lân nhận thức cực kỳ tinh tường mọi vật xung
quanh, từ tiếng cỏ lướt chạm dưới chân, đến thoáng chim gõ mõ vù bay màu xanh
loáng bạc, trong khi gió lùa tung từng đợt lá vàng. "Chao ôi, ta thực
chẳng bao giờ nên dời khỏi nơi này, chẳng bao giờ cả, không, nếu quả thực chỉ
còn mình ta là con lân cuối cùng trên cõi đời này. Ta quen sống ở đây quá rồi,
ta biết từng mùi, từng vị, hiểu thấu bất kỳ cái gì hiện hữu nơi đây. Dù đi đâu
chăng nữa, ta còn biết tìm những gì khác ngoài chính những thứ đó?"
Nhưng khi lân ngừng chạy, dừng lại, đứng lặng, nghe tiếng quạ đen, và
tiếng lũ sóc cãi nhau trên đầu, lân lại tự hỏi. "Ừ mà ngộ như đám đồng
loại của ta đã kéo nhau đi tới một nơi xa nào đó và đương ẩn núp chờ đợi ta thì
sao?"
Ngay giây phút đầu tiên nghi ngờ đó đã làm cho lân thấy mất bình yên; rồi
từ lúc manh nha ý tưởng sẽ dời khu rừng này, lân bỗng thấy bứt rứt không thể
dừng lại bất kỳ nơi nào mà lại không muốn di chuyển ngay sang một nơi khác. Lân
hết đi ngược lại đi xuôi ven hồ, dáng bứt rứt, không vui. Giống kỳ lân đâu có
phải băn khoăn, chọn lựa. Lân nói không, rồi lại nói có, rồi lại nói không hết
ngày rồi đêm, và lần đầu tiên lân cảm thấy giây phút bò lên mình như những con
sâu, "Việc gì phải đi đâu. Đã từ lâu con người không hề gặp bóng kỳ lân,
đâu có nghĩa là giống kỳ lân tuyệt diệt. Mà dầu sự thể có vậy đi nữa thì ta
cũng chẳng đi đâu. Ta cứ ở đây."
Nhưng rồi vào một đêm ấm trời kia, lân sực tỉnh giấc nồng và tự nhủ.
"Có chứ." Và lân vùng chạy nhanh xuyên ngang rừng, cố gắng không muốn
nhìn thấy gì, ngửi thấy gì, cố gắng không muốn cảm thấy bốn vó đương lướt trên
mặt đất. Đám cầm thú đang di chuyển trong đêm, mấy anh cú, mấy chú cáo, mấy bác
hươu cùng ngửng đầu lên khi lân lướt qua, nhưng lân không hề để ý tới chúng. Ta
phải đi, đi thật nhanh, lân nghĩ, nhưng ta sẽ trở lại ngay, càng sớm càng hay.
Có lẽ ta cũng chẳng phải đi xa lắm đâu. Dù có gặp đồng loại hay không, ta cũng
trở về ngay, càng sớm càng hay. Con đường từ ven rừng vươn ra xa lấp loáng như
ánh nước, nhưng từ lúc dời khỏi rừng cây, đặt bước trên đó, lân mới cảm thấy
hết nông nỗi đoạn trường. Lân đã muốn quay trở lại, nhưng rồi hít một hơi dài
để giữ lấy hơi rừng còn lẩn quất đâu đây, lân ngậm lấy hơi rừng thân yêu đó nơi
miệng như ngậm một bông hoa, cố gắng lâu được chừng nào hay chừng ấy.
°
Con đường dài thăm thẳm trườn ra vô tận, qua những làng mạc, những phố
nhỏ, qua miền đồng bằng, qua miền sơn cước, qua miền sỏi đá khô cằn, qua cánh
đồng cỏ xanh mướt, nhưng con đường có bao giờ chịu dừng chân lại bất kỳ nơi nào
đâu, con đường trườn hoài, trườn hoài vào vô tận, thúc đây, cuốn hút bước chân
lân, không ngớt, chẳng để lân được một phút nghỉ ngơi mà nghển cổ lắng nghe
không khí như xưa. Đôi mắt lân giờ đây mờ bụi, bờm rủ cũng bị khô cứng vì bụi.
Nhớ lại thuở còn sống ở trong rừng, thời gian trôi lững lờ bên lân, giờ
đây chạy mải miết trên con đường thiên lý, lân thấy chính mình đương phải trườn
qua thời gian. Lá cây đổi màu, bộ lông loài thú cũng khi rậm khi thưa; mây trời
bay khi chậm khi nhanh theo sức gió, khi ửng hồng, khi vàng lộng với ánh mặt
trời, khi xám ngoét, khi tím bầm với gió bão. Không khi nào lân tìm thấy dấu
vết của đồng loại, qua những ngôn ngữ khác nhau, lân cũng chẳng hề nghe thấy
thiên hạ nhắc nhở đến đồng loại mình.
Vào một buổi sớm kia, lân đã toan rẽ khỏi con đường để ngủ, thì trông thấy
một người đương cặm cụi cuốc vườn. Đáng lẽ phải ẩn mình đi, thì lân lại đứng
nguyên đấy ngắm, cho đến khi người đó đứng thẳng lên và nhận ra lân. Hắn béo
quá, mỗi bước tiến lại làm má hắn rung rinh. "Ồ," hắn nói. "Ồ,
trông mi thật đẹp."
Khi hắn rút dây lưng ra, thắt một cái nơ, và bắt đầu vụng dại tiến lên,
lân thấy vui hơn là sợ. Hắn hiểu lân là gì và hắn đương làm gì: cuốc đất trồng
xu hào, và đuổi theo một vật gì lấp lánh sáng và chạy nhanh hơn hắn. Lân lẹ
làng bước né sang bên khi hắn vừa bắt đầu tiến tới như thể chính bước chân hắn
phát ra gió và gió thổi lân ra khỏi tầm tay của hắn. "Thuở xưa, khi muốn
săn ta, họ tổ chức chuông trống, xờ xí trịnh trọng và tưng bừng," lân nói
với hắn. "Người xưa hiểu rằng phải tổ chức săn huy hoàng như vậy mới quyến
rũ được ta đến gần. Vậy mà cũng chưa hề một lần họ bắt được ta."
"Sao ta trượt ngã hoài," hắn nói. "Đứng lại nào, hỡi vật
xinh đẹp kia."
Lân nghĩ thầm trong khi hắn lồm cồm bò dậy, "Ta không hiểu nếu như
bắt được ta ngươi sẽ làm gì." Hắn nhảy tới lần nữa, và lân đã lẹ làng lùi
xa như làn mưa bụi. "Ta ngờ rằng vị tất ngươi đã tự hiểu mình," lân
nói.
"A, đứng yên, chóng ngoan." Khuôn mặt hắn nhễ nhại mồ hôi với
những ngấn dọc cát bụi, hơi thở hổn hển. Hắn vừa thở dốc vừa nói: "Đẹp.
Con ngựa cái xinh đẹp làm sao."
"Con ngựa cái?" Tiếng lân thét lên lanh lảnh khiến hắn
đứng sững lại, hai tay bịt vội tai. "Con ngựa cái?" lân hỏi,
"ta, một con ngựa? Vậy ra từ nãy đến giờ ngươi vẫn coi ta là ngựa, vẫn
nhìn ta là ngựa?"
"Con ngựa thật đẹp", con người béo bệu đó vừa thở hổn hển vừa
dựa vào hàng rào, một tay lau mặt. "Chải cho mi, tắm cho mi, lập tức mi sẽ
thành con ngựa cái đẹp nhất." Hắn lại lăm le tiến lên với sợi dây lưng.
"Phải cho mi đi dự thi hội chợ," hắn nói. "Nào, hãy dừng
lại!"
"Một con ngựa," lân nói. "Một con ngựa cái với khoảng bờm
rủ trắng, đó là con vật ngươi đương rượt bắt." Trong khi hắn tiến tới gần,
lân bất chợt dùng sừng móc lấy dây lưng, giật mạnh khỏi tay hắn, rồi hất tung
lên cho văng ra xa, rơi vào một luống cúc vàng. "Ta mà là một con ngựa
ư?" lân càu nhàu. "Là ngựa này!"
Trong một khoảng khắc, người đó tiến tới thật gần lân, và đôi mắt mở to
của lân nhìn thẳng vào đôi mắt của hắn, đôi mắt nhỏ, mệt nhọc, ngạ, nhiên. Rồi
lân quay đi, phóng mình lên đường, phóng nhanh đến nỗi những ai trông thấy đều
thốt lên, "Cha, con ngựa kìa, ngựa ấy mới là ngựa!" Một cụ ông bình
tĩnh nói với cụ bà: "Đó là loại ngựa Ả Rập đấy, bà nó ạ, tôi đã từng một
lần ở trên chiếc tầu biển có con ngựa Ả Rập."
Kể từ đó, lân hết sức tránh đi qua những thị trấn, trừ trường hợp bần cùng
bất đắc dĩ lắm không có lối nào đi quành. Tuy vậy mà vẫn còn gặp một số người
rắp tâm rượt bắt, và vẫn là lề lối rượt bắt một ngựa cái, không hề có chuyện
săn đuổi linh đình và trang trọng một con kỳ lân như ngày xưa. Họ rượt đuổi
bằng dây thừng, bằng lưới, họ lấy những thỏi đường làm mồi nhử, huýt sáo gọi
lân bằng những tên quen thuộc của loài ngựa. Đôi khi lân cũng chạy chậm một
chút để tụi ngựa tiến tới đủ gần mà nhận ra mùi hương lân; lập tức lũ ngựa chồm
lên, lùi vội lại, chạy miết, và đoàn kỵ mã thì kinh hoàng. Ngựa bao giờ cũng
nhận biết ra lân.
"Sao có thể như vậy nhỉ?" lân tự hỏi. "Cứ cho rằng con
người đã quên hẳn loài kỳ lân đi; cứ cho rằng bản tính con người nay đã thay
đổi và đâm ra ghét kỳ lân, hễ gặp là tìm cách giết. Nhưng lân không thể quan
niệm nổi con người không chịu nhìn kỹ, chỉ trông mà không ngắm, đến nỗi lẫn kỳ
lân với loài khác. Có thật lân giống các loài khác? Làm sao thân cây, căn nhà,
con ngựa mà lại giống lân cho được?"
Đôi khi lân nghĩ, "Tuy con người không còn nhận ra lân, rất có thể
loài kỳ lân vẫn còn trên cõi đời này, và sống yên vui trong quên lãng đó."
Nghĩ vậy thôi, chứ thực ra ngoài mọi hy vọng, mọi phù hoa, lân cho rằng con
người thay đổi, thế giới loài người cũng thay đổi chính vì loài kỳ lân đã mất.
Tuy nhiên lân tiếp tục rong ruổi trên đường trường, mặc dầu cứ mỗi ngày qua đi,
lân lại càng thiết tha tự nhủ rằng giá như lân vẫn ở lại khu rừng cũ đừng đi
đâu cả thì vẫn hơn.
Rồi một chiều kia có một chú bướm theo gió lao đao bay lại lấp lánh trên
đỉnh sừng lân, chú bướm có đôi cánh nhung xẫm màu phấn bụi với những đốm vàng,
trông chú mỏng như cánh hoa bay. Múa rỡn trên sừng lân, chú chào lân, cặp râu
cong rung động. "Tôi là một kẻ bê tha lang thang. Chào bà bạn."
Lần đầu tiên trong cuộc viễn du này, lân bật cười. "Chú bướm, chú bay
lang thang đi đâu vào một ngày lộng gió như hôm nay? Chú không sợ bị lạnh và
chết yểu trước kỳ hạn sao?"
"Tử thần lấy đi những gì người ta muốn giữ," bướm nói, "để
lại những gì người ta muốn bỏ. Gió cứ việc thổi lộng nữa đi và làm nẻ toác đôi
má bà bạn. Tôi hơ tay sưởi ấm trước ngọn lửa của đời, lòng luôn luôn thơ thới
hân hoan." Bướm hấp háy như mắt cú trên sừng lân.
"Chú bướm, chú có biết ta là ai chăng?" lân hỏi, lòng tràn trề
hy vọng. Và bướm đáp, "Biết lắm chứ, bà bạn là người bán cá. Bà bạn là tất
cả của tôi, bà bạn là ánh sáng mặt trời của tôi, bà bạn già, luống tuổi, chín
chắn, bà bạn có khuôn mặt muối ướp, ốm ho." Bướm ngưng lại, rung rinh đôi
cánh trước gió, thủ thỉ tiếp, "Tên bà bạn là chiếc chuông vàng treo trong
tim tôi. Tôi muốn thân thể tôi tan ra thành nhiều mảnh một khi được gọi tên bà
bạn."
"Hãy nói tên ta, chú bướm," giọng lân khẩn khoản. Nếu quả thực
chú biết tên ta, hãy nói lên nghe thử." "Bà bạn là chú lùn quay rơm
thành vàng," bướm vui vẻ đáp, rồi nhún nhảy trên sừng lân mà ca rằng,
"Về đi thôi, hỡi chàng Bình Bá về thôi.
Đi mà chẳng đặng thì thôi ta về.
Gắng lên chàng Vĩnh Sơn ơi.
Gắng lên bắt ánh sao rơi trên trời.
Đất kia đứng lặng, máu chảy lang thang,
Gọi ta là quỷ nhập tràng cũng xong."
Đôi mắt bướm càng sáng lên dưới ánh hồng quang của sừng lân.
Lân thở dài và nặng nề tiến lên vừa vui vừa thất vọng. Thế cũng phải, lân
tự nhủ. Làm sao mình lại có thể đợi bướm nói đúng tên mình nhỉ? Tất cả những
điều chú ta nói đều là bài thơ khúc hát chú nghe được. Loài bướm thi sĩ nói thì
được, nhưng chả giữ vững được cái gì, vả lại điều này cũng dễ hiểu, bướm thường
chết yểu mà.
Vẻ bướm nghênh ngang trước mắt lân, rồi vừa quay tít vừa cất tiếng ca,
"Một hai ba, tcha tcha tcha,
Đừng khéo dỗ ngọt bánh đa,
Lối mòn sỏi cát, nẻo xa bóng chiều.
Chán phè câu chuyện nói điêu,
Tìm vui ta hát ta trêu cô nàng.
Yêu ai chân bước vỗi vàng,
Đuổi con cú ọ đuổi đàn yêu tinh.
Lơ thơ tơ liễu buông mành,
Què chân đến đó bất bình mà chi."
Tiếng bướm ca văng vẳng như tiếng tiền đồng gieo trên mâm bạc.
Bướm ngao du nhởn nhơ cùng lân suốt quãng ngày tàn đó, rồi khi mặt trời đã
xế đỉnh non Tây, cả vòm trời bát ngát vẩy tê tê hồng, thì bướm dời sừng lân,
bay bổng lên cao, lơ lửng trước lân, "Tôi phải dông thôi," giọng bướm
lễ độ. Lân ngước nhìn, qua ánh chiều tà thấy rõ những đường gân đen nổi trên
đôi cánh nhung của bướm.
"Vĩnh biệt chú bướm," lân nói. "Hy vọng rằng chú còn được
nghe nhiều bài ca khác nữa," lân nghĩ chẳng có cách nào chúc bướm hay hơn
thế. Tưởng rằng bướm chia tay tức khắc, nhưng không, bướm chẳng hề vội vã tuy
hơi có vẻ bứt rứt trong ánh trời chiều. "Về đi thôi," lân giục bướm.
"Lạnh rồi, về mau đi thôi. Bay phất phơ hoài bên ngoài gió lạnh thế này,
chú chịu sao thấu." Bướm vẫn bay lửng lơ, miệng ngâm thơ khẽ: sau đó giọng
bướm bỗng rành rọt, "Kỳ lân. Hình giống con ngựa, có một sừng, tính cực
hiền, vì vậy người ta còn gọi là nhân thú. Người xưa nói kỳ lân xuất hiện để
báo sắp có thần nhân ra đời.
Ô này, ta là chú bếp nhà ai,
Ta là thuyền trưởng ở ngoài biển khơi.
Cánh buồm no gió chơi vơi.
Lấy ai bầu bạn cho nguôi nỗi lòng."
Cánh bướm tưng bừng và kiêu hãnh. Đã có những ánh đom đóm đầu tiên vây
quanh, ngỡ ngàng.
Lân sửng sốt nghe bướm sau cùng nói đến tên mình như vậy nên cũng bỏ qua
việc bướm trước đây đã đả động đến ngựa. "Ồ, thì ra, chú biết ta!"
lân reo vui như vậy, hơi thở mạnh thổi tung bướm ra xa dễ thường đến sáu, bảy
thước. Khi bướm lao đao bay lại, lân nài nỉ, "Chú bướm, nếu quả thật chú
đã nhận biết ra ta, vậy chứ trước đây chú có gặp đồng loại ta lần nào chăng.
Làm cách nào gặp được đồng loại ta đây, đi lối nào?"
Bướm hát trong ánh chiều chạng vạng:
"Bướm hỡi bướm, cõi trần đã chán,
Đường lợi danh luống nản chân bon.
Cuồng điên theo gió thả hồn.
Rượu say ta hát trăng tròn mặc trăng."
Bướm lại đậu trên sừng lân một lần nữa, run rẩy.
"Làm ơn cho ta hay đi bướm!" lân nói. "Ta chỉ cần biết liệu
có còn những kỳ lân khác trên cõi đời này chăng. Hãy nói cho ta hay điều đó chú
bướm. Ta tin lời chú. Nói đi chú, để ta còn quay trở lại khu rừng của ta ngay.
Ta đi đã quá lâu rồi."
Bướm lại ngâm nga: "Núi ca tít từng mây,
Lũng sâu thẳm địa ngục,
Giữ cho lòng hăng say, Vượt gian nguy khổ cực."
Bướm bỗng ngừng lại, rồi giọng trầm xuống, nghiêm trọng hẳn:
"Không, không, nghe tôi hay chẳng nghe tôi, hãy nghe này! Nếu can
đảm, bà bạn sẽ tìm gặp được đồng loại mình. Trước đây, đã lâu lắm rồi, tất cả
kỳ lân đều bị con Bò Mộng Đỏ săn đuổi, bám sát, và dồn xuôi theo các ngả đường.
Đừng hốt hoảng rụng rời, đừng yên vui nửa vời." Cánh bướm nghiêng nghiêng
chạm lướt lên da lân.
"Con Bò Mộng Đỏ," lân hỏi. "Con Bò Mộng Đỏ như thế nào
vậy?"
Bướm bắt đầu hát:
"Hãy theo ta xuống đây, hãy theo ta xuống đây, hãy theo ta xuống đây,
hãy theo ta xuống đây." Nhưng sau đó bướm lắc đầu lia lịa, kể, "Đó là
con bò mộng đầu tiên của loài bò mộng, uy nghi lắm, sừng như sừng bò rừng, nó
dùng sừng đó để dồn kỳ lân tới khoảng tận cùng của đất liền. Nghe đây, nghe cho
lẹ."
"Ta vẫn nghe mà," lân kêu lớn. Đồng loại ta hiện ở đâu, và con
Bò Mộng Đỏ ra sao?"
Nhưng bướm đã lao sát tới tai lân, cười sặc sụa và cất tiếng hát:
"Trong ác mộng ta bò quanh đất,
Lũ vện, vàng bé oắt sủa vang.
Rắn phun nọc độc rộn ràng,
Ăn mày xuống phố, ốc vàng hến xanh."
Bướm còn đi lả lướt thêm mấy đường trước mắt lân, trong ánh hoàng hôn, rồi
bay lạng ra xa dần, bay sâu vào khoảng chiều tím ngát ven đường, vừa bay vừa ca
như khiêu khích,
"Này chú thiêu thân, Ta hay chú vậy,
Tay nắm lấy tay,
Xin đừng nghĩ bậy..."
Hình ảnh cuối cùng lân còn giữ được của bướm là chiếc cánh nhỏ lao vút vào
đám lá cây. Cũng có thể là lân hoa mắt trông lầm, vì vào giờ chạng vạng đó,
trông đâu cũng thấy thấp thoáng những cánh bướm.
Dầu sao thì chú bướm cũng đã nhận ra ta; lân buồn rầu nghĩ vậy. Thế cũng
là có ý nghĩa rồi. Nhưng rồi lân lại tự nhủ, Không, vẫn chưa có ý nghĩa gì hết,
trừ phi phải có người làm bản nhạc; hay bài thơ về giống kỳ lân mới chắc. Nhưng
còn con Bò Mộng Đỏ là cái gì vậy? Một bài hát khác chăng, ta chắc vậy.
Bước lân chầm chậm, bóng đêm bắt đầu phủ dầy. Trời thấp xuống với màu đen
gần như trong vắt, trừ một khoảng vàng lộng, đó là khoảng chị Hằng lẩn sau cụm
mây dầy. Lân hát khẽ một bài ca mà một cô gái trước đây lâu lắm đã nhiều lần
hát trong khu rừng cũ của lân:
Bao giờ chim sẻ với mèo
Sống chung hòa thuận, tôi chiều ý anh.
Bao giờ cá chán biển xanh
Nhảy lên ở cạn, tôi anh một nhà
Lân không hiểu lời ca, nhưng bài ca làm lân nhớ khu rừng nhà kinh khủng.
Hình như khi lân bước chân ra đi trời vừa sang thu thì phải.
Sau cùng lân phủ phục xuống, nằm dài trên cỏ lạnh, thiu thiu ngủ. Lân vốn
cực kỳ thận trọng, nhưng khi đã ngủ thì ngủ thật say. Quả thực nếu không mơ
thấy mình đã trở lại cố hương thì lân đã thức giấc ngay khi nghe tiếng bánh xe
và tiếng chuông leng keng đang tiến tới gần, mặc dầu bánh xe quấn giẻ để lăn
cho êm, chuông bọc len để kêu vừa đủ. Lân mơ về chốn xa, quá xa, xa hơn vùng
chuông kêu nhiều lắm, vì vậy lân vân thiêm thiếp nằm đó, không thức giấc.
Có chín xe ngựa bốn bánh, hết thẩy đều phủ vải đen và kéo bởi những con
ngựa đen gầy, mỗi lần gió thổi tung tấm rèm đen lên, những chấn song lộ ra như
hàng răng đen ngòm. Xe dẫn đầu trên có một mụ già mập lùn ngồi cầm cương ngựa,
dọc theo phần hông được phủ kín của xe là tấm biển có viết dòng chữ lớn: GÁNH
XIỆC NỬA ĐÊM CỦA BÀ MÁ VẬN MẠNG. Và bên dưới là dòng chữ nhỏ hơn: Những
sinh
vật thuần sống về đêm được mang ra ánh
sáng.
Khi chiếc xe tiến ngang khoảng lân đang thiêm thiếp giấc nồng, mụ già vội
ghìm con hắc mã. Tất cả những xe sau cùng phải dừng lại, đợi mụ già uốn mình
nhảy xuống, yểu điệu một cách dễ ghét. Lướt nhanh đến sát lân, mụ cúi nhìn kỹ
giây lâu rồi nói, "Lạy trời, có lẽ là ta đã được gặp con vật cuối cùng của
loài này." Lời nói của mụ để lại một dư vị vừa đường mật vừa gay cấn.
"Liệu hắn có biết," mụ vừa nói vừa cười, nhe những chiếc răng
nhọn như những viên sỏi. "Sức mấy mà ta nói cho hắn biết." Mụ quay
mặt nhìn lại đoàn xe màu đen, bật móng tay làm hiệu hai lần. Hai người điều
khiển hai xe số hai và số ba nhảy xuống, cùng tiến lại phía mụ; một người dáng
lùn, da mặt đen, vẻ lạnh lùng như mụ; người kia thì cao, gầy, vẻ ngơ ngác cương
quyết, bên ngoài khoác một chiếc áo bành-tô màu đen cũ, đôi mắt màu xanh.
"Ông bạn thấy gì nào?" mụ hỏi người lùn. "Rukh, ông bạn
thấy vật gì nằm đây nào?"
"Con ngựa chết," hắn trả lời. "À mà không, không chết. Cứ
cho là thuộc loại bà con với loài rồng đi, hay với loài quái vật đầu người mình
sư tử cũng được." Tiếng cười khúc khích của hắn nghe như tiếng que diêm
quẹt."
"Điên! Ông bạn thật điên," Bà Má Định Mạng nói với hắn thế. Rồi
bà quay sang người kia, "Còn ý kiến ông bạn này thì sao, hỡi ông bạn phù
thủy, ông bạn tiên tri, ông bạn làm trò quỷ thuật. Với con mắt phù thủy ông bạn
nhìn thấy gì nào?" Bà Má và Rukh cười ầm lên, nhưng tiếng cười đó ngừng
bặt khi mụ nhận thấy người cao lớn vẫn còn dán mắt vào lân. "Thế nào, ảo
thuật gia, ông trả lời đi chứ!" Mụ lầu bầu, nhưng người cao lớn vẫn không
quay đầu. Mụ vươn bàn tay như càng cua ra, nắm lấy cằm y quay mạnh lại. Đôi mắt
y đối chiếu với cái nhìn vàng vọt của mụ.
"Con ngựa," y lẩm bẩm. "Một con ngựa cái trắng."
Bà Má Định Mạng nhìn y giây lâu. "Ông bạn ảo thuật gia, ông cũng điên
nốt," mụ cất tiếng cười hi hi, "nhưng cung cách điên của ông còn tồi
tệ hơn, nguy hiểm hơn. Rukh nói dối vì tham, nhưng ông bạn nói dối vì sợ. Hoặc
đó là lòng tốt chăng?" Người đàn ông không nói năng gì. Bà Má Định Mạng
cười tủm.
"Ừ thì đây là con ngựa cái trắng đi, " mụ nói. "Tôi muốn nó
gia nhập vào gánh xiệc của mình. Cái chuồng thứ chín còn trống đấy."
Để tôi đi kiếm thừng," Rukh nói. Hắn vừa toan quay đi thì mụ ngăn hắn
lại.
"Chỉ có một thứ thừng là có thể buộc được nó," mụ nói. "Đó
là thứ thừng mà các thần linh đã dùng để trói con sói Fenris, thừng làm bằng
hơi thở của cá, nước rãi của chim, râu của đàn bà, tiếng kêu của mèo, thần kinh
hệ của gấu, và còn một thứ nữa. À tôi nhớ ra rồi - rễ núi. Không có những thứ
đó cũng chẳng có giống người lùn nào bện thừng cho ta. 1 Thôi
thì với tài nghệ của chúng ta, đành thay thứ thừng vi diệu đó bằng cũi sắt vậy.
Để tôi niệm chú giữ cho nó ngủ như thế này," nói đoạn mụ làm điệu đan
những sợi tơ không khí, miệng lẩm bẩm niệm thần chú. Nhường như có mùi khét lẹt
bao quanh lân.
"Nào bây giờ hãy nhốt nó vào cũi," mụ nói với hai người đàn ông.
"Con vật sẽ ngủ say cho đến khi mặt trời lên dù ta có ồn ào đến mấy, trừ
khi quý vị ngu xuẩn mó tay vào nó. Hãy giở cái cũi sắt thứ chín ra và quây chấn
song sắt quanh nó, nhưng cẩn thận đó! Bàn tay nào vuốt bờm nó tức khắc sẽ biến
thành móng chân lừa, có hối cũng không kịp." Mụ lại nhìn người đàn ông cao
gầy bằng con mắt riễu cợt. "Ông bạn phù thủy, e rằng những trò vặt đó của
ông rồi đây cũng chỉ thực hiện được một cách khó khăn hơn mất thôi," mụ
vừa nói vừa thở phào. "Vào việc ngay đi, trời chẳng còn tối được bao lâu
nữa đâu."
Mụ đi lướt trở lại vùng có bóng xe đổ xuống như thể mụ chỉ vừa ra để xem
giờ. Khi mụ đã đủ xa khỏi tầm nghe, Rukh nhổ nước bọt và nói, vẻ ngạc nhiên,
"Tôi không hiểu mụ già lo lắng cái gì kia chứ. Chúng ta mó vào con vật thì
làm sao nào?"
Ảo thuật gia đáp lời hắn bằng một giọng nhẹ sớt phải lắng tai mới nghe
nổi. "Tay người chạm vào làm thức giấc con vật. Ma quỷ đã khiến nó ngủ say
như vậy. Mà Bà Má Định Mạng thì không khiến được ma quỷ."
"Nhưng mụ lại muốn chúng ta tin là có," Rukh cười nửa miệng.
"Đụng vào, tay biến thành móng lừa, cha a a!" Nhưng hắn cũng thục hai
tay sâu vào túi. "Thần chú với chẳng thần chú, đó chỉ là con ngựa cái
trắng già chứ gì.
Nhưng ảo thuật gia đã đi về phía toa xe cuối cùng, "Lẹ lên nào,"
ông ta nói. "Trời sáng đến nơi rồi." Họ rỡ cái chuồng thứ chín, rỡ
chấn song, rỡ sàn, rỡ mái, rồi dựng lại quanh lân để nhốt nó. Rukh giằng mạnh
cái cửa để kiểm soát xem đã được khóa thật kỹ chưa, đúng lúc những lùm cây xanh
phía trời đông bắt đầu nổi bật thì lân mở bừng đôi mắt. Hai người vội lẩn đi,
nhưng ảo thuật gia còn ngoái cổ lại quan sát lân đứng dậy trừng trừng nhìn
những chấn song sắt, đầu lắc lắc như đầu một con ngựa trắng già.
--------------------------------
|
Theo thần thoại Bắc Âu. (Chú thích của người dịch) |