Thứ Tư, 31 tháng 12, 2025

677 . NGUYỄN VY KHANH : Hoài Ziang Duy, Tác phẩm như cuộc hành trình đời.


 

Nhà văn Hoài Ziang Duy tên thật Thái Sanh Lợi, sinh năm 1948 tại Châu Đốc. Khởi viết rất sớm và từ 1965 có truyện và thơ đăng trên các nhật báo ở Sài-Gòn cũng như các tạp chí văn học. Sĩ quan Quân Đội VNCH, sau khi VC cưỡng chiếm miền Nam, ngày 9-5-1975, ông bị tù “cải tạo” 6 năm. Đến Hoa Kỳ theo diện H.O. năm 1991, định cư ở tiểu bang Virginia, làm việc cho Bưu điện liên bang cho đến khi về hưu. Ông khởi viết lại với truyện ngắn Nghe Chút Tình Chi Lạ đăng trên tạp chí Văn Học (số 100, 8-1994), làm chủ bút tuần báo Diễn Đàn Hải Ngoại và chủ trương tập san Thân Hữu, cộng tác với nhiều tạp chí hải ngoại – những tờ sau cùng là Thư Quán Bản Thảo, Ngôn Ngữ Văn Học Mới, cùng một số trang mạng. Ông mất tại Virginia HK ngày 1-6-2022.

Tác phẩm đã xuất-bản ở hải ngoại: - Ông Tướng Sang Sông (truyện; Alpha, 1999) - Lối Đi Dưới Lá Đời Thà Như Mưa (thơ; Thân Hữu, 2007) - Bốn Ngàn Năm Chen Lấn (truyện; Thư Ấn Quán, 2010) - Những Bài Thơ Tháng Tư (CD thơ; Thân Hữu, 2014) - Còn Không Chốn Quay Về (tự truyện; Thân Hữu, 2017) và Đứng Tựa Bên Đời (thơ, Hiện Diện, 2019). Ngoài ra, ông còn góp mặt trong các tuyển tập văn chương.

Sự nghiệp văn học của Hoài Ziang Duy không nhiều về số tác phẩm đã xuất bản cũng không gây biến cố, tranh luận, có vẻ bình yên như cuộc sống mới của ông và gia đình ở đất tạm dung, tuy vậy Hoài Ziang Duy trội bật và đặc biệt ở những thơ văn về đời lính tâm nguyện bảo vệ quê hương bị định mệnh tàn nhẫn cắt ngang mà di chứng vẫn kéo dài nơi quê người. Sĩ quan tác chiến Sư đoàn 9 Hoài Ziang Duy bị chiến thương nhiều lần và có lần bị rớt máy bay nhưng sống sót cùng chỉ huy là Đại tá Hồ Ngọc Cẩn (tháng 10-1972) – Ông kể lại trong Lần Theo Nỗi Chết, mà nay sau hơn 30 năm “vết lói phía lưng thỉnh thoảng khi trở trời thân thể yếu, làm mỏi, khó chịu khi nằm, ngược lại với hồi trước” (CKCQV, tr. 182).


Tập Ông Tướng Sang Sông ngoài hai truyện về chiến-tranh-đang-diễn-ra và đăng tạp chí Trình Bầy [Cánh Lá Ưu Phiền (số 23, 7-1971) và Bên Trường Giác Đấu (số 18, 4-1971, sáng tác năm 1970 lúc bị thương nằm điều trị tại quân y viện Phan Thanh Giản Cần Thơ)], và vài truyện liên quan đến thời trẻ và lưu vong, các truyện còn lại chủ yếu viết về thời “cải tạo” như Mù Sương Cũng Biết Mơ, Trời Như Nhỏ Lại, Người Chôn Ký Ức, Mỗi Ngày Mỗi Xa, Ông Tướng Sang Sông – cũng như thơ và các truyện khác trong Bốn Ngàn Năm Chen Lấn Còn Không Chốn Quay Về phần lớn đưa người đọc trở về vùng ký ức mới đó đã xa và đã mất, ngỡ như đang sống ở miền Nam Cộng hòa trước 1975, đang ở Sài Gòn hoặc các tỉnh miền Tây: cảnh trí, con người, ca nhạc, thơ văn của một thời cứ bao vây, làm khó tâm tư và hành cử hôm nay.

Riêng Còn Không Chốn Quay Về được ghi chú là “tự truyện” chất chứa thêm tính cách đời riêng tư và lịch sử kinh qua: Hoài Ziang Duy đã sống, đã hành cử như thế và một số biến cố đã xảy ra như thế và ở nơi chốn đó! Truyện ký về một giai đoạn lịch sử của một chứng nhân trong vai trò người lính trận Miền Nam, theo ông, là “một cuốn sách viết về lính, những điều chưa nói, chưa biết trước đây: viết về một thời quá khứ không phải nhìn lại một trận đánh, không phải cao ngạo chiến thắng hy sinh, mà nhìn lại chính chúng ta, thân phận những người trong cuộc; những câu chuyện thực về người đã khuất, người còn sống, tâm tình người lính ở tuổi xế chiều giữa hai miền chia cắt” cũng như tập sách này có thể giúp cho những người tuổi trẻ hôm nay hiểu về tuổi trẻ ngày ấy, hiểu “người lính như thế nào trong cuộc sống hành quân, bộ mặt thực ở chiến trường”.

Cuối năm 2018, ông bị tai biến, sau đó khó khăn hơn khi viết và sử dụng máy điện toán, tuy vậy ông vẫn tiếp tục làm thơ viết truyện cho đến khi mất vào ngày 1-6-2022. Tập thơ cuối Đứng Tựa Bên Đời thành hình vào thời hồi phục sức khoẻ, tác giả cho biết đây “là bức tranh toàn cảnh, một giai đoạn lịch sử trả giá bằng máu và nước mắt của quân dân miền Nam Việt Nam kéo dài” và mời gọi “Đọc để thấy lại thực trạng đất nước quê nhà, tâm tư người lính còn ở lại. người lính lưu vong trên xứ người, những góc nhỏ ở đời thường. Một tập thơ giúp cho anh em bạn trẻ, thế hệ sau này hiểu hơn về sự có mặt của mình trên xứ người…”.

 

Hành trình ở quê nhà trước 1975

Trước hết là thời chiến, thơ truyện tiếp nối kể những đoạn đường chiến binh. Trong Còn Không Chốn Quay Về, truyện Chia Nửa Vầng Trăng hồi tưởng về chiến trường An Lộc vào “Mùa Hè Đỏ Lửa” 1972 mà tác giả là Trung úy Đại đội trưởng, đã có mặt vào những ngày sôi động nhất, toàn quân quyết chí giải tỏa, tái chiếm lại thị xã An Lộc thuộc tỉnh Bình Long: “Trận tiến quân giành nhau năm mười thước đất, tấn lên dạt xuống. Địch chiếm thủ, ta công phá vào vòng đai An Lộc. Ngày ta tiến công. Đêm xe tăng địch tràn vào. [Cho đến ngày] chúng tôi được trang bị loại ra-đa mới, mang xuống từ viên trung tá Mỹ thay thế viên cố vấn bị thương. Lúc này đây oanh kích không cần hướng dẫn như thường lệ. Máy ra-đa được đặt theo chu vi phòng tuyến. Loại bom tinh khôn nhận biết từ những tia laser phát sóng chỉ điểm vị trí phòng thủ, đơn vị bạn. Chúng tôi được báo, bom sẽ trút xuống tiếp cận ba mươi thước. Lần đầu tiên bom được ném gần, ném sát như vậy. Hoàn toàn khác với qui định an toàn về khoảng cách trước đây. (…) Địa thế đất rung rinh, hầm rung rinh, tưởng như mình cùng chung số phận ở đợt bom vừa thả xuống. Từng đợt bom nổ sát vòng tuyến đánh trải ra từng lớp một. Một mặt, đại bác bắn trực xa, loại đạn từ máy bay AC-130 bắn xuống. Âm thanh từ trên đưa xuống, nghe như tiếng trống. Tốc tốc rồi tùng tùng. Đó là lúc máy bay săn đuổi xe tăng địch di động ở khoảng giữa chia cắt. Đợt oanh kích tiếp cận vừa dứt, lệnh xung phong đồng loạt tràn lên. Địch bị ép hai đầu. Cho tới sáng Tiểu Đoàn 3/15 của Sư Đoàn 9 BB và tiểu đoàn Nhảy Dù bắt tay. Gương mặt người lính rạng rỡ. Sau bao ngày chịu đựng, chúng tôi hoàn thành nhiệm vụ nối liền trong ngoài thành phố An Lộc, trong trận đánh khốc liệt cuối cùng, chúng ta đã giành chiến thắng khai thông nối liền đường vào An Lộc” (ÔTSS, tr. 138, 139, 140).

Cố Đại tá Hồ Ngọc Cẩn là chỉ huy của ông ở Sư đoàn 9 Bộ binh, từng là trung đoàn trưởng 15 BB chỉ huy hành quân tăng viện giải tỏa An Lộc, đã được ông ghi lại trong vài truyện và ký, như Lần Theo Nỗi Chết, hành quân ớ miền Tây, trực thăng của đại tá và ông bị đạn SA-7 bắn rớt: “Lần đầu trong đời tôi biết cảm giác của người sắp chết. Khi con người trong một tình huống không còn lựa chọn nào khác. Không hốt hoảng, không là mình, không là gì hết, bởi mọi sự chỉ diễn ra trong tích tắc (…) Một tiếng động vang lên, khi máy bay rớt dựng chúi thẳng xuống sình đất. Bên trong máy bay, mọi người bị tung lên, đầu chúi xuống đất, chân đưa ngược lên trời (…) Tiếng người phi công la lên: “Chun ra, chun ra, Đại Tá”. Tôi lấy bàn tay chùi vết máu từ tuyến mang tai chảy xuống, biết mình còn sống” (CKCQV, tr. 177). Mọi người thoát vào rừng, trực thăng nổ và được trực thăng khác đáp xuống cấp cứu. Sau thời gian dưỡng thương, Đại tá Cẩn làm tỉnh trưởng Chương Thiện và sau ngày 30-4-1975, ông bị VC xử bắn. Trong Rất Gần Mà Cũng Rất Xa, ông kể lại chuyện 36 năm sau, ông và các đồng đội Sư đoàn 9 gặp lại phu nhân của cố Đại tá.

Những nhung nhớ về người thân đã ra đi: Mẹ Trong Cuộc Sống Đời Thường về người Mẹ mất sớm. Nhân Gian Một Chỗ ghi lại hình ảnh và ám ảnh về người Cha “Tôi không biết bắt đầu từ đâu cho một nỗi nhớ. Tôi không biết bắt đầu từ đâu nói lại cảm giác nầy”. Đó là ngôi trường và khu đất quanh đó: “Thuở nhỏ tôi theo cha đến trường. Cái cảnh gà trống nuôi con, con gà con như tôi chỉ biết ngồi trên nhìn xuống, những người bạn nhỏ lớn tuổi hơn tôi đang thu mình ở dười, nhìn lên bảng phấn, giơ tay trả bài, cái thước bảng gõ vào tay, đánh vào đít. Ngồi coi buồn chán, tôi trèo xuống chạy vào phía trong. Ở đó là thế giới của riêng tôi thu nhỏ lại. (…) Nơi nầy mỗi ngày tôi có đời sống bên cha tôi”. Cuối bài khiến người đọc bồi hồi “… Tôi bước ra cửa trước. Cứ cho là không có gì xảy ra, lấy cái tôi của câu chuyện ra khỏi cái tôi của đời mình. Cái chất liệu nếu có chỉ như một màu vẽ đậm chết, một bức tranh treo trút ngược không hiểu là gì, để lòng thanh thản hơn. Chuyện có thật hay không thật, lúc thoáng qua, bỗng chốc đâu ai ngờ. Phải. Tôi không ngờ mình vẫn yên ổn ngồi đây trên chuyến xe lăn bánh lạc đường nầy. Tôi không nghĩ mình vẫn ngồi đây mỗi sáng, nhìn ra khung kính cửa, lòng trống không. Cha tôi cũng ngồi vậy đó, trên cái bục xi măng dưới bóng cây mỗi ngày mỗi buổi ngóng con về. Chim xa cành còn thương cây nhớ cội. Câu ca dao tiếp theo thôi đừng hát. Không có giọt nước mắt cho lần hạnh ngộ. Bóng chim tăm cá vẫn biền biệt cho đến ngày người nằm xuống.. Năm xưa người ngồi chốn cũ. Bây giờ tôi ngồi đây. Đâu ai chia xẻ, một hình ảnh hai cuộc đời chung cùng nỗi lặng” (BNNCL, tr. 183, 184, 209).

Còn Buổi Chiều Vàng kể chuyện “vòng tay học trò” phiên bản Hoài Ziang Duy học trò nhưng đã nổi tiếng với thơ văn đăng báo, với cô giáo Ái Khanh. Khi tái ngộ ở xứ người, tác giả tự hỏi “bến cũ, đò xưa, có phải là tình yêu?”.

 

Hành trình gian nan và sống còn sau biến cố tháng Tư

Hoài Ziang Duy, như bao công cán chính của VNCH đã bị VC lừa gạt đưa vào tù “cải tạo”. Chuyện Người Năm Cũ ghi lại những gì còn nhớ về thời gian bị đày đọa đó nhân được tin về một trong số những đồng tù, “người bạn tưởng đã mất đi ở một chốn rừng sâu vượt trại. Bây giờ mới có tin. Là thật, là còn sống?”. Chuyện khổ sai thường ngày ở trại và nhân quả nhãn tiền cho một chuẩn úy bộ đội tên Bé tàn bạo, tham lam, cuối cùng bị “một cái cuốc của người tù Miên, từ phía sau đập bổ vào ót Bé, tấn công xong là cả bọn đào thoát chạy. Chuẩn úy Bé chỉ kịp hự lên một tiếng, rồi gục xuống, chết liền. Mắt mở trừng như nhìn thấy rõ oan khiên, nghiệp báo” (CKCQV, tr. 28).

Trời Như Nhỏ Lại mô tả cảnh tượng sinh hoạt đày đọa ở trại “cải tạo” vốn là làng cùi ngày trước - “Vườn Đào” với những cảnh ngập lụt nước dâng cao khiến người tù phải nếm “biết được cảm giác bồng bềnh cô độc” “Thực phẩm nhận từ người thân, được đón vào trong những chảo nấu cơm to lớn, đựng trong đó, một người lội theo, đẩy chảo đi như những chiệc phao thả nổi” (ÔTSS, tr. 58).   

Mùa Xuân, Chút Tình Nhớ Lại là hồi tưởng những năm tháng bị tù “cải tạo” và ngày được thà về: “Tôi trở về, nhìn lại căn nhà xưa, trông nó cũ kỹ buồn thảm với thời gian vắng chủ. Cái không khí thê lương sau bao năm dài trở lại. Tất cả người về đều chung cùng mặc cảm của kẻ bị trị trên phần đất không còn gì là của mình. Tất cả thu mình lại như sợ cái âm thanh vang xa, không tưởng tượng được những vô lý đang chấp nhận. Không có một lựa chọn nào khác. Sống là nhìn lấy bóng chính mình. Không ai hiểu xã hội nầy hơn những người đang sống. Không ai hiểu bản chất cuộc đời này hơn, những người đã trải qua năm tháng dài trong trại tập trung ” (CKCQV, tr. 117). Ông đã “bị giữ lại khi theo lệnh trình diện. Qua hàng rào kẽm gai, đứa con gái đầu lòng mười tháng tuổi đã được đưa qua lỗ vuông rào cho tôi bồng. Đó là buổi chiều đầu tiên gia đình biết tin qua loa phóng thanh. Từ buổi đó tôi ra đi, chung cùng số phận với anh em, đồng đội, chuyển tiếp qua nhiều trại…” (Mơ Giấc Đời Thường, CKCQV, tr. 79).

Truyện Ông Tướng Sang Sông không có “tướng” mà cũng chẳng có “sông”, mà là chuyến trở về sau khi ra khỏi trại “cải tạo”: “một người tướng thầm lặng, sống vững với khổ ải truân chuyên, không làm mất đi nhân cách chính mình.  Bây giờ đây tôi trở về. Đã thay cánh áo. Bỏ lại màu áo sọc xanh trắng. Sống một cuộc sống tầm thường trong một xã hội bất bình thường. Đôi lúc phải quên mình là ai thì làm sao dám nghĩ mình là tướng” (ÔTSS, tr. 79). Rời lò ác quỷ tiếp tục chạm trán với cuộc sống gian manh, lươn lẹo để sống còn trong cái xã hội “mới” từ khi VC chiếm đóng miền Nam, hậu quả của “cuộc chiến tật nguyền” “huynh đệ tương tàn” mà đám cưỡng chiếm không chịu nhìn nhận!

 

Hành trình thời lưu vong

Nghe Chút Tình Chi Lạ có thể xem là truyện về cuộc chào đón tác giả đặt chân đến nước Mỹ định cư. Cuộc sống ở xứ người có đủ hỉ nộ ái ố, có tình yêu mà cũng có chắp vá cho đỡ cô đơn, có kẻ vẫn mơ làm nghệ sĩ, nhà văn (Nghe Những Tự Tình), có nhà văn nữ kể chuyện tình (Buồn Chi Níu Lạ), và cũng có “nhà văn của tình dục” (Lạ Một Chỗ Ngồi), có người thất nghiệp sống nhờ xã hội (Cởi Áo Cho Nhau). Bốn Ngàn Năm Chen Lấn nhắm đi theo người hai miền Nam-Bắc và một Sài-Gòn hỗn tạp ra đến ngoài nước với những nét bi hài trong tình cảnh bế tắc, vô định. Mà nhà văn trong truyện cũng chẳng thành công lắm vì “chân thành” trên “giấy trắng” sợ chữ nghĩa!

Hoài Ziang Duy đã độc đáo một bài thơ chỉ hai câu, tựa là 30-4-75, như không thể nói hết lời cái mất mát của toàn thể người miền Nam:

“Đâu ai nghĩ một ngày ta mất nước

Lá cờ thiêng, hồn sông núi đứng ngậm lời” (ĐTBĐ, tr. 80)

Trong Gió Đàng Sau Vẫn Thổi, ông nói thêm: “Chỉ hai câu ngắn ngũi, trình bày trên một trang sách. Gọi là bài thơ được không, khi chỉ với hai câu cho ngày tháng 30/4/75. Cảm giác khi viết xong, tôi không muốn viết thêm một chữ nào. Cái thói quen cho mỗi năm một tháng tư. Nhưng lần nầy chỉ có vậy. Rồi phải làm gi? Tôi tự hỏi.

Phải chăng từ sau năm tháng ấy, Đã xa. Đã lâu. Nhưng chưa ai quên. Ở đó còn lại, là sự yên lặng dài lâu cho đến bây giờ, trong tâm tư những người lính hôm nay không còn mang áo trận. Đôi khi tôi biết có những người không thích nghe, nhắc tới. Họ cứ nghĩ cho qua đi, nhắc làm chi một quá khứ u buồn. Họ không sống trong thời chiến tranh hai miền, lớn lên khi đất nước đã thay ngôi đổi chủ, nhất là bây giờ trên xứ người. Không ai có thể hiểu, cảm thông được nỗi niềm trong nhận nghĩ, ở tâm hồn người cầm bút. Tôi viết bài nầy ở cuối tháng tư, với tâm trạng, chắc hẳn như bao người lính, người dân một thời chung cùng mệnh số dân tộc, và trên trang giấy nầy, tôi muốn ghi lại những vẫn vơ bất chợt” (…) Ở đất nước nầy, chúng tôi trở thành những người thầm lặng, sống với nỗi đau không thể chia lìa. Tuổi trẻ qua đi, trả giá cho chiến tranh và đời sống tù đày. Nó trở thành một nỗi ám ảnh ăn sâu trong ký ức, trong ngòi bút, trong thân phận của quá khứ vương vấn mang theo. Khi ở tuổi hoàng hôn của đời sống, nó lại hiển hiện khi gặp lại bạn bè cũ, một thời để được nói, được nghe nhiều hơn ở những người cùng chung cảnh ngộ, sống lại một thời qua. Đi ra ngoài cuộc sống đời thường, hoà lẫn sống theo, mới thấy mình đứng lại, lạc lõng trong đời sống gia đình”.

Dài dòng hơn nhưng vẫn cô đọng tâm sự trong bài Bốn Mươi Năm Đời Ta Vẫn Thế:

Bốn mươi năm đời ta vẫn thế
Cũng buồn vui trong thế sự an bày
Bốn mươi năm rỏ lòng bao chuyện kể
Gánh rao hàng trĩu nặng gíó heo may

Ở trời Tây hay trời Đông đối mặt
Phố đâu còn một thuở dáng thân quen
Đâu ai biết tâm tình người bỏ xứ
Vẫn nợ hồn tử sĩ tháng tư đen
(…)”

(ĐTBĐ, tr. 75)

Tháng Tư là thời gian đau buồn cho người VN nhất là người miền Nam:

Buồn dùm tôi mỗi năm một tháng tư
Tháng tư đau cả một miền đất nước
Máu xương khô vất bên đường xuôi ngược
Hành phương Nam tang trắng quấn xuôi dòng

Tiếng kêu thương tựa sóng gầm biển động
Núi rừng sâu mưa mất hút lạc loài
Súng tay buông, lòng như còn níu lại
Ngóng bên trời cùng khắp những oan khiên

Nửa miếng cơm dở chừng ta khấn nguyện
Hồn linh thiêng theo mấy ải đèo bồng
Nợ núi sông, đường còn xa trước mặt
Đời chỉ như hơi thở ngắn sau cùng

Đêm là đêm cầu giấc ngủ mông lung
Đêm như thể đổi ban ngày trận địa
Mắt trẻ thơ mở trừng theo tiếng pháo
Bao vong hồn vất vưỡng – những vì sao

Đường giang sơn tô đậm nét máu đào
Ai chấm phá bức tranh màu ly tán?
Những đóa hoa nở trên đầu lửa đạn
Sao nguội lòng từng giọt chảy trăm năm?

Đã lâu lắm một mùa tang sâu thẳm
Vọng bên lòng buồn cố xứ quẩn quanh
Người là Em? Những mồ hoang cô quạnh
Biết tìm đâu mẫu đất máu tạ từ 

Nhớ dùm tôi mỗi năm một tháng tư
Tháng tư đau mối tình ta vĩnh biệt
Đời phù vân, anh làm mây thua thiệt
Thời Nam Mô, lòng lắng tựa trăng rằm”

(Tháng Tư Còn Có Nỗi Buồn).

Nhìn về tương lai, ông viết Thơ Cho Ngày Sau, Có Người Tìm Thấy:

Tôi viết bài thơ cho năm tháng sau nầy
Cho chính chúng ta
Những người nằm xuống
Không còn chứng nhân trong câu chuyện kể
Khi quá khứ trôi xuôi
Thời gian bước tới / Là những lãng quên
Ở năm, ở tháng, ở tuổi chất chồng
Cuộc sống nuôi thân

Thế hệ con trẻ rồi sẽ hỏi nhau
Việt Nam tôi đâu? / Sao thân phiêu bạt?
Xa lấy cội nguồn ngút ngàn trùng lấp
Xa lấy tình xa, xứ người lưu lạc
Làm sao nhắc nhớ
Từng đoàn người bỏ nước ra đi
Trên những chuyến bay, chuyến tàu ra khơi ngày cuối
Ba mươi tháng tư năm một chín bảy lăm
Một ngày chung cuộc tan hàng
Miền Nam Việt Nam (…)

Bài thơ nầy được viết từ người bỏ nước ra đi
Mang theo một trang sử buồn
Chữ nghĩa sống còn hôm nay / Đau lấy nỗi đau
Nói lại một thời khuất bóng / Chuyện cũ. Đã xa
Chỉ gần hơn / Cổ tích
” (ĐTBĐ, tr. 141-2, 145).

Trong Rồi Cũng Qua Đi viết để tưởng niệm Thiếu tướng Trần Bá Di - tư lệnh Sư đoàn 9 của ông, đã chỉ huy sư-đoàn đánh VC trên đất Cam Bốt năm 1970-71, đã mất ngày 23-3-2018, ông tâm sự:

“Mọi việc rồi cũng qua đi. Câu nói quen thuộc dặn lòng ở những lần chịu đựng trong hoàn cảnh khốn khó. Tất cả là những đổi thay, như mơ ước sẽ có một ngày tốt đẹp trở lại với đời sống chúng ta. Năm xưa nếu không mất nước, không gãy đổ tương lại, ắt hẳn không có đời sống lưu vong bây giờ. (…)

Trong hoàn cảnh và tâm trạng chung cùng, chúng tôi có một quá khứ, có một trời dĩ vãng để ngậm ngùi ngó lại quãng đời qua, gần gũi ở nỗi buồn chung mất nước. Còn ở quê nhà sau bốn mươi năm, một thế hệ mới sống dưới chế độ Cộng sản, được rèn luyện trong khuôn khổ thể chế chính trị mù, không thể nói khác những qui định dưới áp bức, nhận chịu sự ban phát lâu ngày trở thành một điều hợp lý tự do cho mình, đâu biết gì khác biệt năm xưa, hay thế giới bên ngoài. Cho nên khó mà có sự hiểu biết, cảm thông lẫn nhau ở tuổi trẻ, cùng một thế hệ người Việt trong và ngoài nước.  (…)

Người lính năm xưa giờ đây không màng đến súng đạn. Đất nước Việt Nam không còn tên bay đạn lạc. Nhưng có điều không thể hiểu là từ buổi giao thời cho đến bây giờ. Hơn bốn mươi năm qua, nhà nước CS Việt Nam vẫn sợ, sợ người chung quanh trong và ngoài nước, sợ lấy bóng ma người lính, chế độ Việt nam Cộng Hoà. Dù rằng tất cả đã mất hết, già cỗi với tuổi đời thời gian. Cơ quan tuyên truyền lúc nào cũng dè chừng, coi tình trạng dân trí đòi hỏi nhân quyền, chống đối bất công ở xã hội là thành phần phản động chế độ cũ. Cho dù họ không lấy đâu ra, vẽ được hình tượng chế độ cũ như thế nào. Nó là sự ám ảnh, sợ hãi bằng cách qui trách để bắt bớ giam cầm. Họ sợ sự thật và ngay cả sự thật cũng không hiểu làm sao họ sợ, khi quyền lực đã gom về một mối đảng trên quốc gia trị.

Tôi đứng lại đây chốn nầy, như năm tháng qua đi dài cơn đứng đợi. Trời đã về chiều tựa vào đời sống tôi, cái tuổi phải nghỉ sau nhiều năm dài vất vả. Cái khoảng cách ở tuổi còn đi làm và tuổi về hưu, thấy vậy mà ngắn lắm, ngắn như thời gian còn lại để thấy mình không còn bao lâu ở một kiếp người. Cảm giác tất bật sáng đi tối về trước đây, giờ sống cho phần đời còn lại, mới thấm thiá nghiã tình một đời riêng, mới thấy sống gần, nhớ nhiều hơn quãng đời qua lặp lại…” (CKCQV, tr. 256, 257, 258).

Trong Mơ Giấc Đởi Thường, ông nghĩ chuyện trớ trêu của định mệnh: “Năm xưa [1970-71], trên đất Kampuchia, chúng tôi đến đưa người dân Việt về nước. Hai mươi năm sau chúng tôi sống lại đời sống di dân” (CKCQV tr. 86).

Hoài Ziang Duy đã thật buồn vào mỗi tháng Tư, như tháng Tư năm 2003:

“Em à, thế là đã hai mươi tám năm

Như một nỗi tình cờ / Ta buông đời rớt xuống

Nhớ năm xưa cảm giác bồi hồi

Ta ôm em, ôm con ngày nầy bật khóc

Đâu có nỗi đau nào / Hơn nỗi đau chung

Như con cá lội ngược dòng

Trong đêm khuya mất hút

Ai chém xuống miền Nam nhát dao / Tuyệt vọng

Như bài ca vọng cổ não lòng

Hát câu ai oán

Về đâu hai bờ nhân nghiã

Đổi chác máu xương”

(Như Là Như Thế Sao. ĐTBĐ, tr. 95)

Tâm  tình người lính và nỗi ám ảnh chiến tranh không thiếu trong truyện và thơ của Hoài Ziang Duy. Chuỗi suy tư đó bàng bạc khắp, như trong Cuối Năm Chỗ Bắt Đầu “Tôi là nỗi ám ảnh, là nỗi trống không, sống chung quanh kề cận bên trí nhớ bạn đang sống, ngồi gần. Có những điều bạn không nghĩ đến, nhưng không có nghĩa lãng quên. Một lúc nào đó, ở tuổi già, cái tuổi bất chợt hay nhớ về quá khứ rành mạch hơn là chuyện sống thiết thực bây giờ, chừng đó là lúc nỗi trống không nầy, thực sự nó hiện diện như một tình thân. Tôi không muốn nói về những đau thương trong trận đánh, những mất mát nào đó. Bạn còn ngồi đây. Còn sống, hãy sống với những nhánh tâm tình, nó ăn sâu nhiều ngả rẽ. Nghe lại những nhỏ nhoi không ai buồn nói đến, thật ra nó lại là phần đời, là tay chân, là hơi thở của bạn ngày nào (…)” (CKCQV tr. 96).

Dòng Sông Xuôi Chảy là dòng sông êm đềm của ký ức và thời ban đầu làm thơ viết truyện: “Đã hơn bốn mươi năm qua, nói lại chuyện văn nghệ, những người quanh tôi, kẻ còn người mất. Người buông tay bỏ nghiệp cầm bút. Kẻ còn nặng nợ với cái tình năm xưa. Còn đeo đẳng là còn nghèo cơm áo. Được chăng là niềm vui sống với chính mình, với anh em bạn hữu. Tôi chỉ viết lại theo trí nhớ. Chuyện buổi đầu ở tỉnh lẽ, vùng đất Thất Sơn từ những năm 64, 65 về sau. Mượn câu chuyện bạn tôi, chuyện hàng xóm, những người cầm bút trước năm 75, trong đnh hoạt văn nghệ cùng thời, như một tâm tình xớt chia

Tuổi trẻ sung mãn, buổi đầu ở người cầm bút, là những sáng tạo kỳ thú bất ngờ, coi như tài không đợi tuổi.  Dòng xuôi chảy đó thẳng tiến về sau, định vị cho danh phận mỗi người, đường dài ở cuối cuộc chơi như một mệnh nghiệp trong cuộc sống. (…) Phải nói tinh thần văn nghệ ở tuổi trẻ chúng tôi tự phát. Giản dị một điều. Ưa thích là làm. Biết yêu cái đẹp, sống với tâm hồn lãng mạn là gần với thơ văn. Ở đây hoàn toàn không có tính cách chính trị, đảng phái. Vào thời điểm đầu ở lãnh vực nầy không ai biết, nghĩ gì về chính trị. Văn thơ chỉ để bày tỏ những điều mình muốn nói. Như một niềm kỳ vọng, một tiếng hát cất cao giửa trời cao biển rộng.  Một lời tỏ tình, hay nỗi đau tình lở, một hiện thực xã hội, đề tài chiến tranh. Tất cả là một tâm tình rất thực ở tuổi đời mới lớn.

Ở ngoài nước: “Ra hải ngoại, tôi cầm bút viết lại, chung cùng với anh em bạn hữu ngày trước 75, bạn văn nghệ có, bạn nhà binh, bạn tù hay những người mới quen sau nầy.  Tôi viết, như thể cần viết, nơi chốn dung thân, tôi tìm lại chính mình.  Rất nhiều, qua ngòi bút mọi điều mọi chuyện để khỏa lấp đời sống, những đau thương chịu đựng, và gần nhất là sự cô độc nơi xứ người. (…)  Hơn bốn mươi năm sau nhìn lại một quãng đời qua, những mái đầu đã bạc. Chiến chinh, sương gió, tù đày, lỡ làng, mất mát. Cái giá chúng ta phải trả, là hiện thực đời sống bây giờ. Tâm tình chúng ta còn giữ lại phải chăng là những bài thơ muộn phiền. Một câu, một lời thôi để nhớ, là hạnh phúc cho người cầm bút. Một vầng trăng lơ lững. Một rừng cây trút lá. Rồi thôi, cuối cùng tựa như một dòng sông xuôi chảy” (CKCQV tr. 208, 212, 216, 220)

Nhà văn sống thường trực với chiến tranh và bất trắc, Hoài Ziang Duy đôi lúc tự vấn mình có “lãng mạn” chăng, như trong Gió Đàng Sau Vẫn Thổi: “Những lãng mạn trong vần điệu thi ca, mô tả bắn lên trời, bắn khơi khơi khi đi hành quân của thi sĩ nhà ta, là trận chiến trong trí tưởng ngồi nhà, tự mình đi tới đi lui, không bao giờ xảy ra ở bất cứ một đơn vị, một chiến trận nào.  Không hiểu sao lại có người ca tụng, cho là những vần thơ hay. Những câu thơ không thực, đó là sự bôi bác tinh thần chiến đấu, hy sinh của ngườì lính ở chiến trường, xương máu đổ xuống, bảo vệ an nguy cho kẻ nằm nhà làm thơ vớ vẫn”.

Hoài Ziang Duy đã hơn một lần đặt vấn đề sáng tác, làm nhà văn trong tình cảnh lưu vong, như trong Sống Trong Đời Sống, đã khác với ngày trước “Nhớ ở tháng năm đầu sống đời quân ngủ. Tôi mang theo trong tôi không khí văn chương, lý tưởng đi vào đơn vị. Bây giờ nghĩ lại tôi cũng không hiểu sao hồi đó tôi chịu ép mình ngồi viết lách được vậy.  Hành quân sáu tháng mới được về hậu cứ nghỉ dưỡng quân. Chỉ có mấy ngày ngắn ngủi yên thân. Ngày thì anh em ở phố, đêm về tôi lại làm bổn phận của người cầm bút như trước kia. (…) Tôi là người lính tác chiến, nhưng trong tôi vẫn có tâm tình lãng mạn ở người cầm bút. Chung quanh tôi là tình đồng đội, sống chết với nhau trên chiến trường. Còn ở phố thị, trên mặt sách báo tôi vẫn là người viết văn như ngày nào. Như vậy có phải hai nhiệm vụ trong tôi song hành.Tôi vẫn sống với chữ nghĩa ở đó và con người thực tôi ở đây”.

Khi bị mất tự do: “Cho đến sau ngày mất nước. Là người tù binh trong trại tập trung, tôi vẫn viết, dù lén lút thiếu thốn hiểm nguy. Bài văn không thể viết dài, thì viết bằng thơ. Tôi không có trí nhớ tốt để học thuộc lòng, giữ lấy trong đầu, nên thơ tôi viết rời từng câu, từng đoạn trên bất cứ giấy báo gói, giấy tay, món đồ nào, được lén trao đổi đem ra lúc thăm nuôi. Biết ý, vợ tôi về nhà ghép, chép lại trọn vẹn thành bài. Những bài thơ được viết trong tù, những ý tình tư tưởng đều phải lựa câu chữ, không thường tình để nếu bị phát hiện, người đọc vẫn không rõ ý. Sau nầy đọc lại tôi vẫn không tưởng mình viết được, bởi đó chính là những rung cảm chân thật, bằng đau khổ, bằng tủi nhục khốn cùng xót đau. Ở đó là nỗi tuyệt vọng, hố sâu chôn lấy cuộc đời danh dự, sống dở chết dở. Ở đó là không gian đích thực cách chia điạ ngục, trần gian. Không ở hoàn cảnh nầy, không thể viết được. Cho dù có tưởng tượng, nghe kể lại để viết, thơ vẫn không có đủ hình ảnh, âm thanh, giai điệu thiết tha, hay tiếng gào tuyệt vọng từ nỗi đau thực sự, lặng câm chôn kín”.

Chôn kín vì không người nghe giãi bầy hoặc người người đều quay lưng lại với quá khứ, nhà văn không chốn quay về, làm Người Chôn Ký Ức: “Từ ý thơ trong em ta có cõi miền thịt da, đã buộc ông bồi hồi khi làm công việc này. Người đàn ông dáng cao gầy, đang cuốc xuống đất từng nhát. Khu vườn với hàng cây lá rậm, phía sau ngôi nhà lặng lẽ. Lúc nầy biết ai chia sớt cùng. Năm xưa Tử Nha câu cá chờ thời với sợi dây không lưỡi. Còn ông đang trốn chạy cuộc đời, trốn chạy chính bản thân mình. Những nhát cuốc chém xuống đất hay cuốc xuống lòng ông, cái hố thẳm của người lỡ vận.” (…) Ông vẫn cuốc xuống vừa đủ một chỗ nằm. Càng đào sâu, càng nhìn rõ hình ảnh vợ ông. Lần nầy chắc bà không trở về nữa. Gần năm tháng nay ông đã mỏi mòn vào ra  chăm sóc, phải bỏ cã việc làm để đánh đổi cái chi phí chánh phủ trợ cấp trị liệu. Bà nằm đó, ngồi lên để nói chuyện cùng ông, như người bình thường. Từ bình dưỡng khí, hai sợi dây thọc vào mũi. Tim đập, bà còn thở, còn nhìn. Còn được bao lâu, còn được bao ngày để ông nắm níu. (…) “Những nhát cuốc đào sâu xuống. Em vẫn ngồi đó, chờ mong mỗi ngày tôi đến thăm nom. Lặng lẽ với đôi lời xa vắng mơ hồ. Em đã quên thật ký ức cưu mang từ ngày cái nón lưỡi trai trên đầu tôi lột xuống, cây súng ngắn bị tước đi trước lần đứng nghiêm, người bạn đồng minh chào tôi lần cuối, danh dự sau cùng. Mừng biết mấy khi em quên thật, để từ nay thân phận tôi không dối trá tình cờ.

Gã hàng xóm đâu biết rằng, “tôi” đào hố là để chôn cái không thể nhìn thấy: “Người đàn ông đang lấp từng xẻng đất. Cái chữ để mai đến với ông thật lỡ làng. Ông đang chôn xuống. Ông muốn giữ bà lại, cho vẹn nghĩa, trân trọng cái hạnh phúc chung thân một đời gần gũi. Ông đang chôn phần đời trước của ông, lúc còn chở che bảo vệ. Ông muốn bà mang theo hình ảnh sống còn một thời liệt oanh, trên phần đất quê nhà. Cuộc đời lưu vong với ông chỉ là bài toán không đáp số, giọng ca lỗi nhịp. Con người phân hai ở ông, ở hai thời điểm, chỉ cần bà hiểu. Mối tình tôi dành cho em là những bù đấp một thời dang dở. Quãng đời còn lại, tôi chỉ là một đứa trẻ từ trước biết thủy chung…” (ÔTSS, tr. 141-2, 147, 152)

Chôn ký ức còn là vì nỗi sợ: “Đôi khi tôi muốn quên. Không nhắc, không nhớ. Không nghĩa gì hết. Tôi sợ sống lại với nỗi đau không gì bù đắp nổi. Thà với hư không. Quá khứ là nỗi lặng. Mây vẫn bay trên đầu. Tôi sống lấy cùng tôi” (CKCQV, tr. 184).

*

Hoài Ziang Duy đã lấy đời sống và kinh nghiệm bản thân làm chất liệu văn-chương. Với ông, quá khứ như đối tượng của một đặt lại vấn đề cho hôm nay hay ngày mai. Tự truyện là văn bản bám vào hiện thực; người viết truyện kể lại như sống lại quá khứ qua tâm tưởng và ký ức, cảm tính hay ý thức, trở thành nhu cầu tự nhiên hoặc thiết yếu cho cuộc sống ở xa quê-hương, đất nước! Hình thức tự truyện ở ông đi theo khuynh hướng phi-cấu-trúc dù toàn bộ tác phẩm của ông mang trong mình những mảnh cấu trúc của chiến tranh và quá khứ. Ở đây, nhân vật và cuộc đời như được viết lại!

Với ba tập truyện, hai tập thơ và thơ văn đăng báo chưa xuất bản, tất cả góp phần cho hành trình đời thực và đời văn, Hoài Ziang Duy đã trình bày và “đối thoại” với độc giả hôm nay và mai sau một liên-văn-bản vừa hiện-thực vừa siêu-thực về đất nước và con người Việt Nam, dưới nhiều dạng-thức và mầu sắc, xuyên suốt và rõ ràng có, mà chìm sâu trong tiềm thức cũng không thiếu. Bảy năm cầm súng, sáu năm “cải tạo”, ba mươi năm làm lại cuộc đời nơi xứ người, Hoài Ziang Duy đến và góp phần làm nên một nền văn học hải ngoại, đã từ cây bút chiến sĩ đi ra đến tận cõi nhân sinh chung. Ông vừa mất, nhưng thiển nghĩ, văn học Việt Nam luôn sẽ trân quý tác phẩm thơ văn của ông!

Ngày song thất 2022

 

[Văn-học Việt-Nam 50 Năm Hải ngoại. Q. Trung, 2025, tr. 284-298]