Từ
California khi trở lại thăm Saigon trong một dịp tết, điều thú vị nhất là tôi
được một mình rong ruổi trên những chuyến
xe bus, tôi đi khắp Saigon, Chợ Lớn, Phú Lâm. Chẳng cần biết trạm sẽ dừng nơi đâu, tôi đi hết đường hết sá,
ngắm nhìn mọi thứ xe lớn xe nhỏ, phố bé xíu hay
đường rộng thênh thang. Và để tôi thấy hết mọi người, cùng nhìn luôn mọi thứ…
Hôm
nay tôi cũng bước đại xuống một trạm dừng, chẳng cần biết tên gọi. Loanh quanh
rồi tôi định ngồi ăn trưa ở lề đường nào đó. Nắng và
bụi sẽ là gia vị cho những dĩa cơm đường chợ, ly
nước mía sẽ làm dịu bớt ồn ào của những tiếng còi xe không bao giờ dứt, khiến
thiên hạ chỉ muốn điên đầu. Saigon, những
ngày giáp tết, mọi sự vội vàng như đã được nhân lên qua đủ thứ màu trang trí nóng nảy, kiểu xanh vàng và
tím đỏ.
Em mời
tôi mua vé số, tôi mời em ngồi cùng với bữa ăn trưa. Khi chủ quán đặt lên chiếc
bàn nhựa bữa ăn lề đường thịnh soạn, tôi đã chẳng
nhìn thấy chút hân hoan nào trên gương mặt em.
Chắc em còn bận tâm, sốt ruột với tập vé số chưa kịp bán hết. Nắng chiều gió sớm đã làm tóc em cháy khô với
da mặt sần sượng. Tôi chưa hỏi tên, nhưng trên
cánh tay trần tôi thấy khắc chữ Hoang, còn có vẽ thêm cả một lưỡi dao vụng về xấu
xí.
Hoang
hay Hoàng? Em thích xăm nhưng chắc không tiền nên tự vẽ, viết ra bằng mực thường, rất đậm. Giang hồ, bụi đời hay chỉ xăm mình
nhằm dọa hù thiên hạ và tiện thể, để em tự vệ trước
những hung dữ ghê gớm của đời? Tôi lặng lẽ nhìn em ăn uống vội vàng, có vẻ gì
như em chỉ rình rình tẩu thoát khỏi nơi đây.
Sự
im lặng của em với nét mặt rất ngầu, như mời gọi trí tò mò của tôi về đời sống
chẳng biết gọi là gì của những gương mặt
chợt già trước tuổi, những đứa trẻ bị quăng ra đời một cách ngang xương, đầy bất nhẫn.
Còn
nguyên buổi chiều dài không biết đi đâu, tôi đề nghị theo em đi bán vé số. Tôi
muốn mình hiểu ra thế nào là lang
thang, là vất vả nhọc nhằn mà rất nhiều người như em đã từng bươn chải. Ngay lập tức em từ chối, vì sợ đi với
tôi thì sẽ chẳng ai mua. “Sự thảm thương”. Món trang
sức thời thượng không thể thiếu của đời sống trẻ thơ, em cần phải đeo mang nó một mình, và phải chỉ một mình em thôi.
Em
đã chào tôi và bỏ đi rồi, nhưng chợt quay lại hẹn 5 giờ chiều em sẽ gặp lại tôi
nơi đây.
Thú
vị với lời hẹn của em, nhưng tôi tự hỏi, gặp lại em rồi tôi và em sẽ đi đâu,
làm gì? Mời thêm bữa
ăn tối thì chắc cũng lại chán và nhàn nhạt như trưa nay thôi. Mới 2 giờ chiều, chẳng biết đi đâu, tôi ngồi
luôn tại chỗ, đợi em mà tôi uống hết những ly cafe, nước mía, sữa đậu nành, nước dừa và thêm cả
rau má…
Em
trễ khi trở lại, cười cười với vẻ mặt ít gượng gạo hơn. Em hỏi tôi có muốn theo
về nhà Ngoại không?
Chẳng
cần biết em mời tôi về đâu, nhưng nghe chữ “Ngoại”, tôi tưởng tượng ngay ra sự hiền lành, những chân chất dịu dàng của một tình
thương yêu, đằm thắm. Từ nơi xa xôi, tôi một mình
trở lại quê nhà, “Ngoại” biết
đâu sẽ là người cho tôi tìm ra chút thú vị, những ngọt ngào của đôi ba ngày tết mà đã lâu lắm rồi tôi như
đã lãng quên.
Bến
xe miền Tây chiều 29 tết. Tôi và em đã vô cùng vất vả, phải mua chợ đen mới có
trên tay 2 tấm vé đi chuyến xe đò cuối
cùng về Bến Tre.
Em rủ
tôi về nhà em chơi tết mà đơn giản như em mời tôi mua mấy tấm vé số. Tôi theo
em đi Bến Tre cũng dễ dàng như hăng hái chạy theo
những chuyến xe bus khắp Saigon, Chợ Lớn, Phú
Lâm.
+++++++
Nhà
Ngoại cách con lộ có bến xe chừng cây số. Đã 10 giờ đêm, dưới bóng mờ tối tăm
mà em bước nhanh, bước rành rẽ qua từng bờ đê, thước
đất. “Ngoại”
nói vọng ra sân, khi em múc nước vã lên mặt: “Dzìa với ai đó bây?”
Tôi
khom lưng theo em lần mò bước vô nhà, mái lá rũ xuống vách đất như một che chắn
an toàn, tôi hít hà mùi ngai ngái ẩm của lá ướt.
Tôi tự giới thiệu mình vì thiệt ra em có biết tôi là ai đâu? Chẳng nhìn rõ mặt nhau, nhưng qua giọng
nói tôi đoán chắc bà là người nhân hậu, dễ mến.
Tôi
tự nhiên, Ngoại đơn sơ và em hiếu khách. Chúng tôi ngồi quanh mâm cơm trễ tràng
dưới ngọn đèn điện chỉ sáng hơn bóng tối một chút.
Sáng
30 tết, tôi theo Ngoại ra vườn sau nhà cắt hết những buồng chuối ươm ươm chín,
mấy trái đu đủ bóng vàng và cột chân con gà duy
nhất bỏ vô chiếc giỏ lát cũ.
Chúng
tôi cùng với mươi người quanh khu xóm của Ngoại bày hàng ra bán trong buổi chợ
cuối năm.
Chợ
không có mái che. Mọi thứ đều được đặt trên những chiếc sạp siêu vẹo, chỏng
chơ, ngang dọc không hàng lối. Những rau xanh, ớt
tỏi hành ngò, rổ cà chua thắm đỏ hay những trái thơm
mập mạp chưa kịp chín. Còn có cả nến và nhang đèn làm cho chợ thoáng một chút hương thơm. Chỉ có hàng thịt là lúc nào cũng
in có khách hàng vây quanh. Ồn ào nhất chắc là con
heo bị trói, nằm bất mãn khi ủn ỉn, lúc la làng bên bầy vịt gà trong lồng đang
chen lấn, đập
vẫy
xôn xao.
Chợ
còn được góp thêm một giàn dây chằng chéo, vắt treo những bộ quần áo mới, xanh,
đỏ, trắng, vàng. Màu sắc trông đẹp như cờ quạt
reo vui, đang phất phơ bay đùa trong gió.
Tôi
thấy yêu mến những lời gọi vói hỏi han, những câu nói khơi khơi bông đùa quanh
chợ. Những kỳ kèo mắc rẻ, đôi khi còn ráng lườm
nguýt, với chê bai…Vài em nhỏ sốt ruột đứng chờ Mẹ
mau bán hết hàng, nũng nịu vòi vĩnh đòi mua quần áo mới. Những líu lo chân sáo,
thêm đôi mắt sáng ngời với ướm ướm đo đo, khen đẹp hoặc
chê rộng chật, không vừa… Cái
óng ả của buổi chợ cuối năm như lấn át hết những âu lo, những vội vã, dù ai
cũng chỉ mong bán hàng xong còn chạy vội về nhà, sửa
soạn mâm cơm đón Ông Bà.
Ngoại
vui mừng vì chuối cúng, đu đủ và cả con gà đẹp mịn màng đã bán xong. Tôi không
theo Ngoại về, tôi nấn ná trong khu chợ chẳng còn
lại một ai, ngó nhìn cái hoang sơ, cái hắt hiu của buổi chợ tàn.
Không
xa khu chợ nhỏ là bến đò lưa thưa. Băng qua con đường đất với những dấu chân
in, nhưng không còn đò và cũng chẳng thấy bóng
ai. Duy nhất trong chòi lá, một người đang loay hoay
dọn dẹp ghế bàn bên bếp lửa còn nghi ngút khói. Ông chào mời tôi với giọng Tàu
lơ lớ “Xây chừng?” và cũng chẳng cần đợi tôi nói
câu gì, chiếc vợt đã được Ông nhanh nhẹn bỏ thêm
cafe, nhúng, nấu trong chiếc bình đen màu khói bếp. “Xây chừng? ”. Ôi, cách gọi
của Cafe năm cũ, những quán xá đã mất tăm theo
cùng với Sài Gòn mưa nắng, ngày xưa.
Tôi
nhớ khi còn nhỏ, lúc vừa biết cột tóc đuôi gà, những buổi sáng tinh sương ngày
Chủ nhật, tôi được Ba chở trên chiếc
xe đạp có chiếc chuông leng keng mà tôi vui tay hay bấm cho điếc tai, cho inh ỏi. Ba cho tôi theo ra Cafe Năm
Dưỡng, quán gần khu chợ Bàn Cờ. Tôi chỉ được đứng
chầu rìa, dựa lưng bên chiếc xe đạp, giữ xe và đợi Ba ngồi quán. Đứng chờ Ba mà
mắt tôi lim dim hít hà hương cafe thơm ngát, có
khi hết chỗ, Ba và nhiều khách phải ngồi chồm
hổm,
ngồi tràn lan ra cả lề đường. Khói thuốc bay mờ mịt, làm mắt tôi cay, nhưng
lòng tôi reo vui với hoạt cảnh hay hay của
những gương mặt quen thuộc tôi thấy hàng tuần…
Chiều
nay, tôi đang nghẹn ngào với ly cafe bí tất đầu tiên trong đời tại một bến sông
xa lạ. Ly xây chừng mà tôi nghe thơm
suốt cả tuổi ấu thơ. Tôi nhâm nhi như để dành từng giọt cafe nhỏ, lặng lẽ nhìn dòng nước đưa đẩy những cánh lục
bình trôi, xô dạt dưới ánh nắng vàng vọt của buổi
chiều 30 tết. Nắng bay bay vật vờ theo gió xuân, quạt trên những lá dừa cao
vút, lao xao như một lời chào chia tay
năm cũ.
+++++++
Ngoại
mặc áo bà ba vẫn còn nguyên nếp xếp, chiếc áo mà chắc chỉ để dành cho những
ngày lễ lộc. Tôi hít hà mùi thơm băng phiến, theo Ngoại
đi Chùa trong nắng sớm ngày mới của một đầu năm.
Tôi và em khi rón rén, lúc vội vàng băng qua những đường nhỏ dọc theo con lộ
chính hướng về nơi có ngôi chùa hoang liêu, cũ kỹ.
Nhìn
nền đất đen bóng tôi cảm nhận ngay ra cái mát lạnh của đôi bàn chân không, chẳng
ngại ngùng, tôi đi chân trần theo Ngoại bước vô
Chánh điện. Nhang khói như làm ấm lại khung cảnh âm
u, chỉ có chúng tôi, vị Sư, mấy chú Tiểu, và thêm vài ba thiên hạ.
Tiếng
mõ và lời kinh…Tôi đứng lặng lẽ nghe và dù không hiểu, câu kinh vẫn thoát ra sự
thư thái an bình. Chúng tôi quỳ rất lâu khấn bái
chờ cho đến giờ Ngọ, chờ khi tiếng chuông ngân.
Chuông
chùa, tiếng chuông dù âm u hay thẩm sâu hun hút, vẫn luôn là âm vang của sự an nhiên và niềm hy vọng.
Em hỏi
tôi đã nguyện cầu gì? Tôi nói đùa: mong sang năm về lại Bến Tre thăm em và thăm Ngoại.
Thoáng
chút ngại ngần ấp úng, nhưng rất thong thả, em nói với tôi về điều mơ ước. Về
những gì em đã chăm chú nguyện cầu khi nghe tiếng
chuông chùa đầu năm. Em kể với tôi, suốt mấy năm
nay, lang thang bờ bụi trên Saigon, bán vé số chỉ là chuyện phụ. Chuyện chính yếu
là vì “Mẹ”.
Em
nhất quyết phải tìm cho ra Mẹ, tìm để được thở với hơi ấm trong vòng tay Mẹ,
người bỗng dưng bỏ em ra đi, đã 4 năm rồi.
Tôi
ngạc nhiên, tôi giật mình, nhưng không dám nói thêm điều gì, dù sáng qua tôi đã
suýt tò mò hỏi thăm Ngoại về Ba Mẹ em…
Suốt hai ngày dài bên em, giờ tôi mới hiểu em hơn một chút. Chỉ một chút thôi, nhưng đã cho tôi cái nhìn
về em rất khác.
Hôm
nay đi lễ chùa, em phải mặc chiếc áo dài tay. Em muốn che giấu đi những nét vẽ
rằn ri, bặm trợn của một đứa trẻ ráng làm cho ra vẻ bụi
đời.
Nhưng
này em nhỏ. Dù lát nữa đây em có nhờ tôi
vẽ lên cánh tay xanh xao ốm yếu của em, bên cạnh lưỡi dao xấu xí đó thêm một “Bàn tay máu thì tôi cũng vẫn ôm em, khóc cùng em, hôn lên
mái tóc khét mùi nắng
mưa và sẽ đi với em khắp Sài Gòn, Phú Lâm, Chợ Lớn.
Tôi
và em sẽ đi theo tiếng vọng của chuông ngân, tiếng chuông vang xa như một lời cầu
khẩn.
Tiếng
gọi réo rắt của em và tôi sẽ vang vọng, sẽ bay cao theo với gió xa vời tìm tới
bên Mẹ, dù Mẹ em bây giờ có ở mãi tận
nơi đâu…
Lê
Chiều Giang