Để nhớ những ngày tháng Kiên Giang... Chiều xuống dần. Xẩm tối
hồi nào hổng biết. Hoàng hôn chếnh choáng theo… Chú Út cầm chén rượu ực một tiếng “ót” thiệt ngọt rồi lên giọng
ngâm nga mấy câu thơ Nguyễn Bính: Trải mấy mùa qua én nhạn bay Xuân đến khắp trời hoa rượu nở Mà ta với người buồn vậy thay…* - Để con vô nướng thêm
con khô sặc rằn nghe chú. Kì này khô sặc rằn phơi được nắng, ba bữa đã vừa
ăn, con ướp lạt lạt, chú nướng nhậu hay ăn
cơm, ăn cháo trắng đều ngon. Mỡ nó thơm phức như bơ nghe chú. - Ôi, cần gì. Cứ ngồi đó
đi. Ghe bà con đi chài đi câu về ngang, người cho mớ cá, người cho mớ tôm…
Mà, tao nhậu chỉ cần cơm mẻ với mấy trái chuối chát là đủ rồi. Ra hè bẻ vô là
có nhậu liền. Nhà tao coi vậy chớ rượu không bao giờ thiếu. Rượu tăm hẳn hoi
à nghen hổng phải ba cái rượu cồn bậy bạ ngoài chợ đâu. Ngồi xuống
đi… - Dạ. Để con rót cho chú. Mà không uống cạn? mà không say?* - Dạ. Có dịp tụi con sẽ
về thăm chú. Làm sao mà đứt đoạn được hả chú! Ngày nào con mới ra trường,
chân ướt chân ráo xuống xứ U Minh này, tưởng đâu hát tuồng “Sống dang- sáng
dông” như mấy đồng nghiệp trước con rồi chớ…hihi. May có chú
lúc nào cũng thương, bảo ban, chỉ vẽ… - Mày trụ được. Nói được
làm được. Dân Sài Gòn mà chịu cực. Mấy đứa cái
miệng nói xạo
xạo đưa nó về vùng sâu này nó trốn hết. Đứa thì kiếm đường vượt biển thôi… Chú lại ực một hơi, khà thiệt ngọt, rồi hắng giọng ca tiếp: Chú Út vốn là Trưởng
phòng tổ chức Sở Giáo dục. Một thời cũng thét ra lửa. Tánh chú nóng như
Trương Phi. Mỗi khi giận hung, các thớ thịt bên gò má trái chú giựt giựt, môi
bặm lại. Nhưng thật ra tánh chú rất thương người, ngay thẳng. Đặc biệt là
trọng cái tình. Tiền bạc không nghĩa lý gì với chú, dù…chú lúc nào cũng chẳng
có tiền. Hào sảng, trọng ngãi khinh tài. Tất nhiên, ở vị trí béo
bở của chú, xếp chỗ này, cất nhắc chỗ nọ…thiên hạ lắm kẻ cũng sẵn sàng ‘bôi
trơn’. Nhưng tánh chú thậm ghét kiểu ăn bẩn đó. Lơ mơ
chú mắng thẳng vào mặt. Chấp nhận nghèo. Qủa xoài xanh, chút cơm mẻ, con cá khô sặc rằn
hay khô đuối chấm mắm me…vài xị đế, vậy là xong. Kiên Giang thuộc vùng sâu,
nhiều nơi không có giáo viên, trường lớp cũng không. Giáo viên cấp 1 dạy luôn
cấp 2. Giáo viên Cấp 2 thì dạy kê lên cấp 3 là “chuyện thường ngày ở huyện”. - Ba cái lẻ tẻ, nhằm nhò
gì…Mầy hổng nghe ông Ba Huỳnh tuyên giáo nói sao? Người biết chữ dạy người
chưa biết chữ. Cần gì bằng cấp! Tụi tao đi kháng chiến, lội khắp bưng biền,
có bằng cấp gì đâu, biết mặt chữ, lớp ba lớp năm thôi mà cũng đánh ngon lành… - À, mà có. Có cái bằng máu bằng xương chớ…Nhưng thời nay,
máu xương nghĩa lý gì, thôi bỏ, mậy… Bỏ hết… Nguyên nhớ lại ngày anh
cầm quyết định phân công xuống vùng đất này. 1979. Phải đi hai ngày đường mới
tới nơi. Một ngày ngồi xe đò, qua hai cái bắc Mỹ Thuận và bắc Cần Thơ ê ẩm...chưa kể
thường xuyên là chuyện kẹt cầu kẹt phà, 4h sáng ra bến xe miền Tây mà đằng
đẵng dằn lên xóc xuống, chờ mỏi chờ mòn, 1,2 giờ sáng mới tới Rạch Sỏi. Vật
vạ 6h sáng xuống tàu đi Vĩnh Thuận. Một ngày ngồi tàu đò mênh mông sông nước hai bên
chỉ toàn dừa nước, đước sậy mới tới được điểm trường. Rạch Giá vẫn còn là một thị xã heo hút.
Đi đầu đến cuối thị xã chẳng tìm ra một hiệu sách nào. Kiếm không ra một ổ
bánh mì. Người Sài gòn mà xuống miền Tây, món quà được
yêu thích chỉ cần mấy ổ bánh mì to vàng ruộm bày bán dọc dọc hai bên đường Xa
cảng miền Tây và vài chục nem Lai Vung Đồng Tháp. Phở càng là món hiếm hoi.
Chỉ có bánh bao, mì hoành thánh, hủ tiếu, cháo Quảng…Vùng đất phương Nam này
ẩm thực, phong tục, xưng hô đậm chất người Quảng và Tiều của Trung Hoa bởi
theo chân Mạc Cửu, một người Minh Hương lưu vong. Năm 1739, Mạc Thiên Tứ lập
ra huyện Kiên Giang, đặt trấn lỵ tại Rạch Giá này. Trong Đại Nam nhất
thống chí, mục “Thành Trì” có ghi: “Huyện nảo (đồn canh của huyện) Kiên
Giang mặt trước dài 19 trượng 2 thước, bề ngang dài 12 trượng 6 thước, ở địa
phận xã Vân Tập, vào năm Thiệu Trị nguyên niên (1841). Chợ Sái Phu, ở huyện
Kiên Giang, tục danh là chợ Lạch Giá, phố xá liền lạc, ghe buôn đến đậu đông
đảo.” Theo khẩu truyền, có tên gọi Rạch Giá vì xưa kia nơi đây có rừng cây
Giá mọc theo ven biển, có một lạch nước chảy ngang qua ra biển. Theo sách Gia
Định thành thông chí: Lạch Giá có tên chữ thường gọi là Giá Khê. Ngoài ra, còn
gọi là Giá Đà, Sái Phu…Tương truyền xưa, khu rừng cây giá này rất nhiều ong
mật đóng ổ, người “ăn” ong cạo mật bỏ tàng ong, sáp trắng trôi đầy sông, từ
đó người Khmer mới gọi là chợ Kramuol-so (sáp ong màu trắng). (Nguồn: http://rachgia.kiengiang.gov.vn). Chuyện khai thiên lập đia ra sao của đất này thì không biết tường tận nhưng khi Nguyên ra trường về đây, rõ ràng vẫn còn là “chốn vắng” của chữ nghĩa văn chương… Không một sạp báo. Không một nhà sách. … - Ủa, mày đổi qua họ “cầm” họ “để” hồi nào vậy… Mấy thằng đó tao xử bắn hết rồi đa. Dzô đi chớ! - Dzô! Gì mà nóng dữ vậy chú…Trương Phi! - Phi gì mà Phi. Tao bây giờ…Trương Phì thì có. Haha… Tánh chú thẳng. Không
binh ai hết. Điều chuyển, phân công đâu đó công bằng. Một đồng xu hạt gạo
không tơ túi. Đã nói chú ghét nhất những kẻ “ăn dơ tanh rình” (Nguyễn
Đình Chiểu). Cũng không luồn cúi bợ đỡ…Có bữa đang trong cuộc họp, chú bặm
môi trợn mắt, chỉ mặt đuổi thẳng một ông Phó phòng dân chi viện, kết bè kết
phái phân biệt vùng miền, hại người này, vu người kia, bản thân ông ta còn
trai gái lăng nhăng. Nghe đâu chú còn lên văn
phòng Đảng Ủy
gặp ngay ông Bí thơ trả thẻ Đảng: - Còn thằng đó trong Đảng thì cho tui ra. Nghe đâu cái ông Phó
phòng chi viện ấy, vô xứ nầy chưa đầy hai năm đã bị trả về nguyên quán vì bè
cánh, tham ô,
hủ hoá… Kiên Giang thời ấy, có cái lệ bất thành
văn, mấy anh ngoài kia chi viện, bằng cấp gì cũng chỉ đề bạt đến cấp phó, cấp
trưởng dứt khoát phải là người địa phương gắn bó dài lâu mấy đời… Cấp
dưới là vậy, với cấp trên cũng không khác, chú đã không phục thì
đừng hòng chú nể. Hôm tổng kết thi đua cuối năm, trong tiệc liên hoan, ông Giám đốc Sở mới
từ Huyện điều lên, cầm ly bia khệnh khạng đến cụng mời, chú tỉnh queo: - Quen uống đế rồi. Thứ
này tui hổng hạp. Giống như anh là anh thứ Hai còn tui là thứ Út. Cực này cực
kia… Anh ở đầu sông tui cuối sông…Hề hề… Rồi chú quay qua rót ly
rượu cụng với mấy Hiệu trưởng cùng bàn Nguyên: - Mày có công nhận mấy
thằng lãnh đạo là mấy thằng ngu hôn? Ông Giám đốc tái mặt. Anh em nháy chú.
Chú lại hề hề, hướng về anh Hai Giám đốc: - Ngu chứ còn gì nữa. Anh
Hai nghĩ coi phải hôn, lãnh đạo cỡ Đường Tăng đó hổng phải ngu là gì? Tôn Ngộ
Không giúp Lão vượt qua không biết bao nhiêu nạn kiếp vậy mà Lão chỉ nghe lời
thằng Trư Bát Giới mặt heo xúi bậy, suýt bị bọn yêu nhền nhện bắt ăn thịt, bị Bạch Cốt Tinh
lừa gạt…không phân biệt ta địch mà đi niệm chú phạt con Khỉ tề được cả thiên
đình đó. Thậm chí còn đuổi về Hoa Quả sơn không cho đi theo Thỉnh Kinh. Ngu
không biết đâu chân đâu giả. Ngu mà lại có quyền hành phạt bậy phạt bạ…Chân
lý ở đâu? Chân lý thời nay dính sình U Minh hết rồi… Anh Hai Giám Đốc đành ngậm bồ hòn làm ngọt: ừ ừ à à… ực một hơi cạn ly rồi bỏ
đi chỗ khác. Năm sau, chú về hưu non.
Còn hơn năm nữa mới đến tuổi về hưu. Chú lại không có
giấy tờ xác
minh được thời bưng biền nóp với giáo ở căn cứ địa “Muỗi kêu như sáo thổi
đĩa lội lền như bánh canh” ấy. Đồng đội cùng thời chết bom
chết đạn chẳng
còn ai. Tụi trẻ sau này mới tấn lên không ai biết. Cuối cùng cộng trừ nhân
chia sao mà chú không đủ thời gian trong
ngành giáo dục để nhận lương hưu, chỉ được trả một khoản tiền nhỏ đủ để rong chơi vài tháng… Hồi còn công tác trên
tỉnh, chú ở nhà tập thể, có bếp ăn tập thể…Bạn bè lên thường xách theo rượu,
khô sặc rằn, tôm khô, khô mực…Có khi rắn đã may miệng bẻ răng, khi rùa, khi
ba ba…Chú có nghề làm đồ nhậu cực nhanh. Có lẽ do sống một mình đâm ra tháo
vát. Chú hay chửi sa sả mấy thằng biết gắp mồi mà hổng biết làm mồi nhậu. Rắn
bằm nhuyễn xúc bánh tráng nướng, phần thì nấu cháo đậu xanh… Rùa bỏ vô nồi
đất rang muối nổ lóc bóc, thịt ngọt thơm hơn thịt gà. Chú làm gọn hơ. Phụ nữ
còn thua. Có khi phụ huynh ở đồn biên phòng đi biển về đem đến biếu cả cần xé
cá, tôm, sò huyết…Chú kêu hết anh em giáo viên nhà tập thể đến chia…Sống
không tính toán.... Phòng chú hình như không ngày nào không có khách vãng
lai. Giáo viên các huyện. Ban giám hiệu các trường. Ai cũng thương. Nhưng Nguyên biết sau
những phút mềm môi chén chú chén anh hề hà tưởng như quên hết sự đời ấy, chú
vẫn thiếu vắng cái bến nước ngày xưa…Thời thanh xuân mơ mộng, chú vẫn chèo
xuồng mỗi ngày qua lại mấy bận, khua mái dầm hát hò dơi dơi trên sông cho cô
hàng xén ven bờ để ý. Chú hát hay. Ngày nào cũng qua lại mấy bận... Cô để ý
thiệt. Cứ tủm tỉm cười. Một bữa, đánh liều, chàng ấy ghé bến cô uống nước.
Nói vu vơ vài câu, rồi chèo đi ngay. Riết rồi thành nợ thành duyên. Chú lại ực cái “ót” và ngâm tiếp Hành phương Nam,
giọng buồn cứ loang ra trên mặt sông: Mà vẫn cười bên chén rượu đầy Vẫn muốn tiêu hoang cho đến hết Ngày mai ra sao rồi hãy hay…* Nghe chú đọc những câu thơ cảm khái của Nguyễn Bính mà có chút gì đó như rạn vỡ trong hồn Nguyên. Ừ. Buồn lắm mà không khóc. Đàn ông, nước mắt chảy ngược vào chén rượu. Đâu chỉ là cuộc chè chén tiêu hoang lãng phí cuộc đời. Trước mắt anh, người đàn ông cao ráo rắn rỏi đầy bản lĩnh vừa bước qua tuổi lục tuần kia đã đi qua những ngày tháng ngang tàng mạnh mẽ của đời mình nay đang thật sự cô đơn đến tội nghiệp. Chỉ có rượu, thơ và những câu vọng cổ đẫm tình người, tình đời bầu bạn với ông. Ta đi nhưng biết về đâu chứ? Đã dấy phong yên lộng bốn trời Thà cứ ở đây ngồi giữa chợ Uống say mà gọi thế nhân ơi!* Không. Chú đã không ngồi
lại giữa chợ như nhà thơ Nguyễn Bính. Có ai tri âm để chú uống say? “Rượu
ngon không có bạn hiền. Không mua không phải không tiền không mua”. Thâm
thúy thiệt, cụ Tam Nguyên Yên Đỗ à. Chú trở về An Biên. Nơi quá nhiều kí ức đớn đau. Vợ chú bỏ
chú, bỏ trần gian này đã lâu. Mùa nước nổi, khi sanh thằng Út bị sót nhau mà
không biết. Bà mụ vườn bên kia sông có qua lạy lục khóc than xin
chú bỏ qua…Nửa
đêm, chú cùng hai vợ chồng cô Tư hàng xóm chở xuồng máy tốc hành lên bệnh
viện tỉnh. Còn nước còn tát. Tới bệnh viện rồi mà nửa đêm bác sĩ cấp cứu kêu
chưa kịp dậy, có mỗi cô y tá mắt nhắm mắt mở biểu nằm chờ và phát cho cái
mùng bắt kí tên. Nóng như lửa, máu Trương Phi mà, chú quát luôn: - Lột cái tấm biển “Lương
y như từ mẫu” của mấy người vụt ra biển Rạch Giá cho rồi đi! Người ta sốt mê
man chết tới nơi mà ở đó mấy cô lo mất cái mùng. Cái mùng mấy ngàn bạc? Thôi,
khỏi. Cô ôm cái mùng của cô đi, tôi bó chiếu đem vợ tôi về chôn! Bác sĩ, y tá lúc đó mới
xin lỗi rối rít và đẩy vào phòng cấp cứu khoa Sản. Muộn
màng. Thím Út
không qua khỏi. Đường bộ chưa có. Sốt 2,3 ngày rồi mới di chuyển gần ba tiếng
đò máy từ An Biên lên Rạch Giá. Tim đã suy, phổi ứ nước, trụy hô hấp… Chú già đi cả chục tuổi. Giọng ca càng mùi. Rượu uống càng dữ… -
Thôi. Tao tự ký cho đất mà. Nhất ngôn ký xuất tứ mã nan truy chứ mậy. Chú vô rừng, xin miếng
đất, cất chòi bên sông, câu cá, phần sân trên bờ trồng ít rau thơm, vài bụi chuối… Mùa xuân vô
rừng gác ong lấy mật. Một năm chỉ có mùa xuân mật mới thật kẹo không lẫn nước
mưa. Cái thứ mật U Minh thơm lừng mùi hoa tràm không mật xứ nào sánh được. Hột gà
so vừa rớt, đập lòng đỏ vào quậy uống với mật ong là thang thuốc dân dã có
sẵn chữa bá bệnh. Mùa hè tát đìa bắt cá lóc
nướng trui, làm khô, làm mắm. Cơm mẻ, chuối chát, chén nước mưa là có thể qua
bữa. Tháng sáu đầu mùa mưa, cá rô con bằng ngón tay cái lóc lên đầy trên bờ
ruộng …, chỉ chịu khó một chút xăn quần đi bắt về nấu canh chua bông sua đũa,
bông điên điển quanh nhà, dầm trái dấm, trái me…
Cuộc sống cứ an nhiên ngày tháng… Thỉnh thoảng, anh em giáo
viên ngày xưa chú từng giúp đỡ mà không hề lấy đồng xu cắc bạc nào vẫn nhớ, có dịp chạy
ngang qua Miệt Thứ lại ghé vào thăm. Chú lại đốt rơm nướng cá lóc
đặt lờ hay câu được, rượu cất còn ấm rót ra mời…Bất kể ngày mưa, ngày nắng, có bạn,
chú lại đỡ cây đờn kìm treo trên vách xuống, đờn ca sáng đêm…Chúng tôi vẫn gọi nhà chú
là bến nước của 108 anh hùng Lương Sơn Bạc… Nguyên nhỏ tuổi hơn chú nhiều. Chú và Nguyên tuy khác “hệ” nhưng
chú thích tính khẳng khái của Nguyên. Có lần, đang cuộc nhậu, chú cười cười: - Được. Thằng này đầu gối nó có lông. - Là sao chú? - Là nó hổng biết nịnh.
Khà khà…Nó đi bằng hai chưn. Còn mấy thằng nịnh chuyên ‘đi bằng đầu gối’
làm sao mà lông mọc nổi mậy… khà khà... Rót đi mậy. Mọi người phá lên cười.
Từ đó, cụm từ “đầu gối có lông”/”hổng có lông” bắt đầu trở thành “mật mã”
chung của mấy anh em thân thiết mỗi khi có dịp ngồi với chú cà phê cà pháo
hay khề khà ly đế, ly bia… Chú cũng nể đầu óc nhớ
dai, tích nào, truyện nào chú hát Nguyên cũng rành sáu câu và lập luận sắc
bén đố ai cãi nổi trong các cuộc trà tam rượu tứ…hay hội nghị hội thảo… Đặc
biệt, Nguyên sống có tình, có nghĩa. Dân Sài Gòn mà chịu chơi, biết trên biết
dưới, khẳng khái…như chú. Kêu chú, nhưng chú coi Nguyên như bạn. Mầy tao, nạt
nộ mà âu yếm. Chú nói chú khoái cái tính Lục Vân Tiên và anh hùng Lương Sơn
Bạc hào sảng tài ba chẳng kém thua ai, nhưng cũng bất cần đời không cúi đầu
trước cái xấu, cái ác, cũng chẳng bo bo hai chữ lợi danh hay chức quyền của
Sáu Nguyên. (Nhỏ lớn, chưa có ai gọi thứ của Nguyên kèm tên như chú. Ờ, miền
Tây vậy đó, ít ai gọi tên trỏng trỏng. Phải có thứ…mới đúng là dân miền Tây).
Chú Hai Hữu, chú Út Nhứt…. Hà hà, mầy thấy tao ngược đời hôn. Út mà Nhứt à
nha. - Rót đi mậy. Đã biểu là kêu án tử hình mấy thằng họ
“cầm” họ “để” rồi mà… - Hông thôi mày qua chợ mua cho tao chục cái ly mới coi. Nguyên mau mau rót vô ly
chú. Tánh Trương Phi của chú vậy đó… - Bài thơ này độc. Ông Nguyễn Bính này cũng từng lưu lạc ở phương Nam. Ngươi giam chí lớn vòng cơm áo Ta trói thân vào nợ nước mây Ai biết thương nhau từ buổi trước Bây giờ gặp nhau trong phút giây Nợ thế chưa trả tròn một món Sòng đời thua đến trắng hai tay - Xứ Miệt Thứ, U Minh này
hồi đó hổng biết ổng có qua chưa mà sao tao tưởng như ổng đang ngồi đâu đó ở
chợ Kinh Xáng, chợ Vàm… sao nói đúng tim gan phèo phổi mình quá… Nợ thế trả
chưa tròn…Thua. Thua thiệt cái nhân tâm trắng dã, mầy
thấy hôn. - Buồn quá chú! Thôi dzô! Cạn nghe chú! Trăm phần trăm! - Thua. Tao thua thiệt rồi mầy. Trắng tay. Thiệt là sòng đời… Đó là câu cuối cùng
Nguyên nhớ mỗi khi nghĩ về chú. Một đời ngang tàng giờ hắt hiu cô độc ven
sông. Chú vẫn cắm con sào neo con thuyền nhỏ bên bến sông như chờ, như đợi… Bữa nay, có lẽ chú đã gặp lại cô gái mãi mãi hai mươi trong lòng
chú… Cũng bến sông này… Đêm xuống nhanh rồi mịt
mùng chơi vơi…Hàng dừa nước ven hai bên bờ kênh đang ồm oạp tiếng nước vỗ bờ
mỗi khi có một chiếc xuồng ghe có gắn máy đuôi vịt chạy qua. Tiếng chim vịt
kêu chiều đâu đó xa xa như tan loãng trên mặt sông… Mắt Nguyên thẫn thờ nhìn
ra bến sông. Đêm U Minh. Hai mươi năm xưa và hai mươi năm này dường như vẫn vậy… Buồn não nùng mà sao thương quá đỗi. Căn nhà sàn cheo leo ở bến sông như tách biệt cả thế gian… Anh nghe như có tiếng “dzô” “dzô”, tiếng cười, tiếng đàn, và giọng ngâm ngậm đầy nước mắt của chú đâu đây: Ngươi ơi buồn lắm mà không khóc Mà vẫn cười qua chén rượu đầy Vẫn dám tiêu hoang cho đến hết Ngày mai ra sao rồi hãy hay…* Ngày mai. Ngày mai. Ừ,
mình đã tiêu hoang cho đến hết…cả cuộc đời, cả tuổi trẻ, cả thân thế…mà biết
ngày mai ra sao…hả chú? Nghẹn đắng. Bơ vơ… Chú Út ơi! Ta đi nhưng biết về đâu chứ? Đã dấy phong yên lộng bốn trời Thà cứ ở đây ngồi giữa chợ Uống say mà gọi thế nhân ơi! Đêm Miệt Thứ, nước đang
lên, ngoài kia, gió vẫn lồng lộng thổi qua bến phà không ai qua sông… HKO Đã in trong Quán văn số 41, tháng 11 năm 2016, trang 5-14,
tựa Chiều Kiên Giang, nghe Hành phương Nam -------------------------------------- Chú thích: Phần in nghiêng trong bài là trích từ hai tác phẩm: 1. *Hành phương Nam, thơ Nguyễn Bính 2. **Tần Quỳnh khóc bạn, vọng cổ, soạn giả: Viễn Châu. |
Chủ Nhật, 12 tháng 1, 2025
38 . HOÀNG KIM OANH Đêm Kiên Giang nghe bài Hành Phương Nam
Ảnh Internet