Cỏ thơm có giống thạch
xương bồ
Sống ở hai nguồn tả hữu
trạch
Hơi thơm dầm nước nước
trong veo
Hợp thành sông thơm chảy
róc rách…
( Hương Giang Hành – Vân
Bình – Tôn Thất Lương)
Thạch Xương Bồ! Trong ký ức
của tôi chỉ còn lại mùi hăng hắc, vị đăng đắng của thứ thuốc nước sắc từ lá
Thạch Xương Bồ khô được mẹ cho uống những khi cảm ho nóng sốt.
Nhớ về dòng Hương quê nhà,
bốn mùa trôi qua: hạ có mùi của rong rêu, bèo tím, cát sỏi: những đò rong, đò
bèo, đò cát sạn từ thượng nguồn chở về, những đám rong rêu, những vạt bèo tím
lạc lõng, dòng sông cạn nước. Đầu thu khi gió nhè nhẹ thổi, bông mưng hai bên
bờ rơi rụng. Những mảng hoa mưng dập dềnh cùng hoa dại ven sông: ngũ sắc, dạ
hương, râm, ngâu, mắt mèo, cát đằng, lài… , mặt nước như cao lên, dòng sông như
rộng ra và có mùi thơm rất lạ: “mùi hoa dại ven sông”. Cuối thu dòng sông bạc
màu báo hiệu những ngày lũ lụt: mùi của phù sa, của gỗ mục trôi về. Sang đông
bến sông ngập trong sắc tím phơn phớt trắng của hoa thầu đâu, dòng sông nồng
nàn hương “sầu đông”. Hiếm hoi vào những ngày cuối đông rét buốt, khí trời hanh
khô cùng với ráng chiều vàng đỏ, mùi nhẹ nhàng thanh thoát của hải đường từ các
khu vườn lan tỏa. Khi xuân đến hương hoa bắp từ cồn Hến thổi về, mùi của “hoa
bắp lay”.
**
Thổ nhưỡng Vỹ Dạ không tạo
nên những thương hiệu cây trái như thanh trà Nguyệt Biều; măng cụt Kim Long;
cau Nam Phổ; quít Hương Cần; cau, ổi, cam quít, chuối Mỹ Lợi; mít, dâu, chè
Truồi... Vườn Vỹ Dạ trồng nhiều chủng loại cây, chủ yếu tự cung tự cấp cho
những nhu cầu hàng ngày, cúng giỗ, chạp, tết: nhãn, vải, thanh trà, quít, cam,
đào, ổi, mít, mãng cầu, sa bu chê, vả, chuối, cau, chay ... mùa nào thức ấy.
Vỹ Dạ ngày đó có một giống
ổi rất ngon gọi là ổi cam thảo. Ổi cam thảo có trái nhỏ như ổi sẻ, thon dài
bằng lóng đầu ngón tay cái, giòn và ít hạt, khi chín không bị mủn như ổi nếp và
có hương vị đặc biệt của vị thuốc cam thảo. Hạnh đào là cây cảnh của vùng này.
Hạnh đào mọc thành khóm,
trái nhỏ chỉ bằng đầu ngón tay cái có nhiều khía, khi non có màu xanh, lúc
đương thì có màu vàng cam và khi già ngã màu đỏ tía. Trái hạnh đào chín có vị
ngọt, mùi thơm nhẹ nhàng tinh tế. Hạnh đào còn là một vị thuốc: Trái chín chưng
với đường phèn là vị thuốc ho cho trẻ con, ngâm với rượu là vị thuốc đau khớp
cho người già.
Cây chay, vườn Vỹ Dạ trồng
nhiều. Trái chay chín có mùi thơm dịu dàng, vị chua chua ngọt ngọt hợp với khẩu
vị của các cô gái mười tám đôi mươi. Vỏ cây chay dùng để ăn trầu, nhuộm áo, đặc
biệt là lá chay ủ hoi là thứ phân bón rất tốt cho các loại cây, rau trái trồng
trong vườn.
Vỹ Dạ trồng nhiều mai. Loại
mai ưa thích là mai vàng còn gọi là thanh diệp mai, thanh diệp mai có lá non
màu xanh, khác với hồng diệp mai có lá non màu hồng tía. Thanh diệp mai khó gây
giống, hoa thường có năm cánh, hiếm khi có sáu hoặc bảy cánh, hương thơm nhẹ
nhàng, hoa lâu tàn, thân cành uốn lượn, thế dáng phong phú. Những gốc mai già,
thân cành sần sùi rêu bám trong các khu vườn dọc theo bờ sông tỏa hương mỗi độ
xuân về cũng là một nét riêng của thôn Vỹ.
Ngoài các loại cúc đại đóa
vàng, trắng, hồng tía, Vỹ Dạ vào ngày Tết, còn có một loại cúc đặc biệt màu
trắng gọi là cúc Lý Bạch. Cúc Lý Bạch hoa không lớn, chỉ bằng miệng chén múc
chè, cánh hoa thanh mảnh, khi hàm tiếu úp vào nhau trông như búp sen, khi nở
bung ra không lớp lang trong ngoài mà là cánh nọ chen cánh kia, cánh dài, cánh
ngắn, rất lạ mắt. Nhụy hoa là những sợi nhỏ màu vàng có lông tơ điểm những nốt
phấn nâu lấm tấm. Cúc Lý Bạch chăm bón rất công phu. Vào hạ tuần tháng tám âm
lịch các ngọn cúc được cắt đem giâm cành trong chậu đất cát pha (loại đất xin
từ các làng ven biển, như làng Triều Thủy), trộn với ít phân rong đã hoi, bắt
sâu, tưới nước sạch mỗi sáng, mỗi chiều và rồi chờ đợi cho đến sang xuân hoa
bung nụ cho hương. Ngày Tết nhà nào có được một chậu cúc Lý Bạch nở hoa xem như
người làm vườn năm đó đã thành công lớn. Theo lời của các cụ cúc Lý Bạch là
loại cúc đặc biệt của ngôi làng có tên Lý Bạch ở bên Tàu. Từ sau biến cố Tết
Mậu Thân, các ngôi vườn tan tác, giống cúc này cũng không còn. Nhiều năm trở
lại vườn xưa, thăm hỏi ngưỡi cũ, chẳng còn ai nhớ về giống cúc Lý Bạch này.
Về đêm ngọc lan, oanh trảo,
dạ hương, thị tỏa hương theo mùa. Mùi hương liêu trai này gắn liền với hình ảnh
những thiếu nữ trong thôn một thời vang bóng. Những đóa ngọc lan ướp khô trong
tập sách, những đóa oanh trảo bọc trong những chiếc khăn tay thêu, những bông
sứ trắng cài trên khăn quàng nhung đen. Những trái hạnh đào chín đỏ gói trong
giấy pelure tặng bạn. Thế hệ các chị đẹp quá! Mùi hương hoa Vỹ Dạ thơm nhẹ
nhàng mà ngấm sâu.
Mùi thơm của lá đinh lăng,
lá bưởi theo các chị đến chùa. Mùi hương bồ kết lá chanh mỗi chiều ngồi hong
tóc cùng nhau nói chuyện bâng quơ, cùng nhau mơ màng ước vọng.
Mùi hoa bưởi, hoa ngọc lan,
gói trong lá chuối cúng rằm, mùng một mỗi tháng biết nay có còn.
**
Kỵ ông, giỗ bà, quảy cơm
chú là những tên gọi tôi nghe cha mẹ hay nhắc khi gần đến ngày húy nhật của ông
bà nội và chú. Tôi không hiểu tại sao phải là “kỵ ông”, “giỗ bà”, “quảy cơm
chú”. Có lần tôi hỏi cha, ông bảo: “Ông nội quan hệ rộng có nhiều bè bạn nên
húy nhật ông phải mời nhiều người, ngoài người thân còn có bạn bè, sui gia hai
bên, lễ cúng phải lớn. Bà nội quen biết ít hơn chỉ mời người thân trong họ. Chú
mất khi còn nhỏ, chỉ tổ chức với người trong nhà”. Vậy là có sự phân biệt giữa
các từ kỵ, giỗ, quảy cơm.
Việc thờ cúng ở nhà tôi
ngoài các ngày kỵ, giỗ, quảy cơm, chạp còn có cúng rằm, mùng một mỗi tháng. Cho
dù cúng Phật, cúng ông bà tổ tiên, hoặc cúng các vị hữu danh vô vị, hữu vị vô
danh bao giờ trên bàn thờ cũng đều có bông và trái.
Chuẩn bị lễ vật bông trái
cho các ngày cúng kỵ là cả một quá trình. Cha tôi và ông cậu Mới (em của bà
nội) phải tính toán trái gì, bông gì làm sao cho đến ngày Tết, ngày kỵ có đủ
bông, đủ chuối để đơm đặt. Trái cây cúng ở nhà tôi cũng như các nhà khác ở Huế
và có lẽ cả ở Quảng Nam và các tỉnh nam trung bộ được đơm đặt trên các quả bồng
là những dĩa có chân, gọi là đơm “quả phẩm”. Đơm quả phẩm gồm một nải chuối bên
dưới, bên trên đặt cam, quít, xoài, sa bu chê, mãng cầu, đào... Trái cây không
nhất thiết phải là ngũ quả như trong nam mà chỉ cần màu sắc hài hòa, chân đế
vững chắc. Về chuối người Huế chỉ cúng chuối mật mốc hay chuối cau, tuyệt đối
không cúng chuối bà lùn (gồm chuối bà hương hay chuối lá) như các tỉnh phía
Bắc.
Bông và trái cúng phải được
tưới nước sách, bón phân sạch. Nước sạch là nước gánh vào những sớm tinh mơ khi
dòng sông chưa bị đánh thức bởi sinh hoạt của các cư dân ven bờ. Phân sạch là
hố phân ủ từ lá cây (lá chay, lá cỏ hôi...), rong, xơ dừa, vỏ trái cau và tro
bếp. Còn hố phân tạp bì lù gồm tất cả các thứ phế thải từ nhà bếp, phân chuồng
và cả nước tiểu của trẻ con dùng để bón cho rau và cây trái dùng trong nhà.
Bông huệ đơn, bông sen cúng
Phật; bông phượng ta (bông điệp) màu vàng hay đỏ tía, bông trang đỏ, bông cúc
vàng, bông thọ cúng ông bà tổ tiên; bông ngọc lan, bông bưởi gói trong lá chuối
cúng rằm, mùng một mỗi tháng.
Ngày nay, bông trái cúng
không còn cầu kỳ và tinh khiết như xưa. Trái cây mua từ chợ, đủ các mặt hàng
trong nước có, hàng nhập ngoài cũng có. Đơm quả phẩm hay bày dĩa ngũ quả tùy
nhà. Bông cúng cũng đủ mặt hàng: huệ đơn, huệ kép, lay dơn, thiên điểu, cúc,
cát tường, cẩm chướng và cả hoa kèn.
**
Ngày tôi đi lấy chồng, mẹ
cho tôi một ít chén đọi, dĩa, đũa, muỗng gọi là “quà mơi xưa” của mẹ với lời
dặn dò: “Con ơi! Nhà sạch thì mát, bát sạch ngon cơm”.
Hương vị những món ăn mẹ
nấu, những chiếc bánh mẹ làm cùng với số chén đọi “làm mơi xưa” đó, tôi đã gây
dựng riêng cho mình một chốn về.
Nhớ mãi mùi rau sưng, rau
lốt, mùi của bột bình tinh quê nhà...
... Mấy thứ rau “thập toàn”
quanh vườn: bồ ngót, bát bát, mồng tơi, rau lang, rau má, mã đề, bồ công anh,
tàu bay và cả rau rìu rau éo thêm một ít cỏ hôi, một vài ngọn rau sưng, rau lốt
của đọi canh tập tàng đã cho tôi cái mùi, cái vị không thể nào quên: mùi “canh
tập tàng nấu tôm”
.... Mít non xắt mỏng nấu
với tôm thêm tí ruốc, rau sưng, rau lốt xắt rối. Món ăn ngày mưa lạnh. Bây giờ
tìm đâu ra lá sưng giữa thị thành này. Rau lốt ở đâu cũng có, nhưng rau sưng
hình như đã đi vào quá vãng.
... Cá ngạnh mùa lũ nấu
măng chua.
... Khuyết (tép) tươi nấu
lá me đất.
... Bánh thuẫn bột bình
tinh vừa giòn, vừa thơm, bỏ vào miệng miếng bánh tan thao từ từ với mùi thơm
riêng biệt của bột bình tinh.
... Còn bao nhiêu mùi vị
nữa làm tôi quay quắt nhớ mỗi khi nhớ nghĩ về.
Mãi viết, ngẫn lên, nắng
quá mái hiên đã lâu. Bỗng thấy mình “ như đá ngây ngô”*
(*) Mượn ca từ “Đôi khi
nắng qua mái hiên làm tôi nhớ” của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn
Nguyễn Thị Kim Thoa