Thứ Bảy, 18 tháng 1, 2025

89 . NGUYỄN VĂN SÂM Bà Thũng ở Chợ Cây Điệp

 


 Thiệt tình thì tôi không muốn nhắc/kể lại những chuyện xưa mà  mình chứng kiến khi còn nhỏ sống ở đất Sài gòn nay đã trở thành thứ gì mờ nhạt trong ký ức của người già.

Thế nhưng một nhà văn trẻ thân tình đã gợi ý rằng thầy mà không viết thì chẳng ai biết những chuyện xa xưa đó - đã trên ¾ thế kỷ rồi, người chứng kiến chắc cũng chẳng còn ai. Vã lại thầy có lợi thế là cường ký và khả năng viết lách trơn tru, kể lại từng chuyện nho nhỏ trên fb chắc sẽ là rất ích lợi cho một số người muốn biết về dật sử của Hòn Ngọc Viễn Đông ngày  trước.

Thôi thì tôi tà tà kể lại những gì mình có thể nhớ - thêm thắc chút đỉnh dĩ nhiên, đó là cái bịnh của người ‘cầm bút’ –

Bắt đầu bằng chuyện ở Chợ Cây Điệp.

Nhưng mà cái chợ nầy còn mất và trước đó ở đâu? Chợ nầy nay đã không còn.

Xưa nó ở giữa khúc đường Bà Hạt  trước khi đâm ra khúc Lacaze, tức Nguyễn Tri Phương ngày nay.

Phải nói chợ nầy tự phát, nó có cái tên đó là vì chợ nhóm  gần một cây điệp lớn mọc bên mé một khuôn đất  rộng. Chợ Cây Điệp thì cũng như thể Xóm Nhà Thờ ở chỗ nào có nhà thờ hay Xóm Gò Dưa, Xóm Gò Dừa  của Thủ Đức, hoặc là  Xóm Mả  ở nhiều chỗ rải rác trong Sàigòn mà thôi.  Chợ nhóm mỗi sáng sớm tới chừng độ trưa trưa, lúc hơi đứng bóng thì tan, chỉ còn lát đát vài ba người hơi đứng tuổi với mớ rau héo héo cố ngồi nán thêm chút đỉnh để vớt vát vài ba đồng bạc lẻ về mua thứ gì đó cho con cháu bỏ bụng. Những người nầy thường bợ ngợ khi có ai hỏi mua vì họ không phải là người chuyên bán buôn mỗi ngày.

Và lúc đó  là lúc xuất hiện bà Thũng. 

Bà Thũng không ai biết tên, người ta kêu bằng Bà Thũng  thét rồi thành tên vì mặt bà bũng rệu, đen xạm của người bị bịnh gan tới thời kỳ phát tán, tay chưn bà đều sưng tròn lẵng mà lâu lâu để dọa con nít bu quanh chọc ghẹo bà lấy ngón tay trỏ của bàn tay nầy nhấn lên cánh tay kia, hay mặt mày chưn cẳng – phải nói rằng bà Thũng bận quần cụt quanh năm để lộ ra hai cẳng bự như chưn voi - để biểu diễn rằng thịt của mình ngoan cố, hay là đặc biệt, không chịu trồi lên. Bị ấn chỗ nào thì bao nhiêu thịt chỗ đó lún xuống lâu lắm mới trồi lên. Con nít, học trò lúc đó đã tan giờ học buổi trưa về nhà ăn cơm để hai giờ rưởi vô học lại buổi chiều, bu quanh hít hà hoặc cười nói, chỉ chỏ. Đó là bọn con trai, tụi con gái thì mắt lắm lét, mặt xanh như tàu lá, chùm nhum lại với nhau nhưng cũng trố mắt ngó.

Người lớn thì la rầy tụi nhỏ:

‘Ối, ngộ nghiệt gi mà coi như coi hát bội vậy bây! Ngày nào  bà ta cũng biểu diễn bao nhiêu đó, bộ mấy đứa bây coi không chán mắt sao mà bữa nào cũng bu quanh. Thôi dìa đi ăn cơm trưa để còn chiều đi học.’

Lủ trẻ con chán chê tản lần lần. Thế rồi cuối cùng cũng có người đem tới  đổ vô cái  ca  nhôm mà bà treo lũng lẵng ở lưng chừng quần chút cơm, chút cá, chút canh. Loại cơm thừa canh cặn nhưng bà ngó người cho bằng cặp mắt biết ơn dầu rằng không nói gì. Bà Thũng cũng móc từ trong túi ở trước ngực lấy ra một cái muỗng thiếc trộn trộn món quà vừa mới nhận được, nhón một muỗng bỏ vô miệng nhai nuốt ngon lành.

Người nầy cho chút ít, kẻ khác cho chút ít... Có người lại tử tế dặn:

‘Bà ăn từ từ thôi, coi chừng mắc xương, đồ ‘xà bần’ nầy coi vậy mà xương nhiều lắm.

Hai ba con chó ở đâu bu tới, ý chừng chúng nói tại sao bà dám giành đồ ăn của tụi tui. Bà Thũng lấy một chưn quơ quơ đuổi tụi chó đi rồi kiếm một cái sạp trống nào đó ngồi thưởng thức bữa tiệc của mình.

Tụi nhỏ cũng từ từ tan, chỉ còn lại một mình bà Thũng chậm chậm múc từng muỗng một cho vô miệng, ngậm lại hồi lâu mới nuốt để thuởng thức hương vị của món ăn.

Tôi bữa nào cũng dự phần vô hoạt cảnh đó, thở dài buông ra hai tiếng tội nghiệp... Và cảnh tượng bà Thũng ngồi một mình, ăn  dè xẽn từng muỗng cơm bố thí ám ảnh tôi  suốt trên đường về bữa nào cũng vậy.

***

Xóm chợ Cây Điệp sáng Chủ Nhựt nào cũng có nhiều người gầy sòng bầu cua cá cọp để lột áo những người máu me cờ bạc. Lũ trẻ, ôi thôi thấy bầu cua thì a thần phù vô bất kể giờ giấc, đặt đặt, tả tả, mấy tiếng quen thuộc lấy cái tay, ba con nai vang lên in ỏi. Bà Thũng  quanh quẩn ở đó lầm bầm, chỉ chỏ: Cộ lương, cộ lương. Lắc cọp, lắc cọp. Dĩ nhiên là bà bị mấy tên chủ sòng đuổi đi sau khi dọa là sẽ đánh nếu còn lẩn quẩn phá nồi cơm của chúng.

Rồi thì tôi cũng hiểu cộ lương là gì khi vô nhà thương Sàigòn thăm bà Thũng nằm để các bà Phước phụ trách ở đây săn sóc sau khi bà bị một trận đòn oan quá mạng. Tất cả điều bí mật nằm trong cái nắp hộp để lắc bầu cua, tụi gian làm một miếng giấy xếp thành nửa hình lập thể, dán phía trong hộp. Khi đậy hộp để lắc, chúng cố ý cho cái cộ lương nầy chụp lên một hột nào đó mà chúng nhớ, chẳng hạn như con nai. Khi tay con đặt ít hay không đặt cửa con nai thì anh ta giở lên nhẹ nhàng, hột con nai vẫn nằm yên và thế là chủ sòng chỉ cần tính toán ăn thua với hai hột kia. Nếu tay con đặt nhiều ở cửa con nai thì khi giở hộp lên anh ta đẩy nhẹ tay cho cái hột ở trong cộ lương lăn đi và vậy thì xác xuất ra con nai rất ít.

Người nào phát kiến cái cộ lương trong trò chơi Bầu Cua Cá Cọp thiệt là thông minh...  vặt. Sau khi nghe Bà Thũng cắt nghĩa tôi thầm nghĩ như vậy, nhưng cũng không thắc mắc thêm là nhờ đâu bà ta biết cái trò gian lận nầy.

Còn trò lắc cọp nữa. Nhà cái xếp ba con nào đó lên trên mặt trên, thí dụ như ba trái bầu, cố không xếp ba con giống nhau ở mặt nhà con và lắc gằn một cái kêu là lắc cọp, để cho thiên hạ đặt. Dĩ nhiên là có khi thì còn một con, khi thì đi hết không còn trái bầu nào. Thủ pháp lắc cọp kết hợp với thủ thuật cộ lương dĩ nhiên tụi nhỏ và cả người lớn cũng cháy túi.

Tôi ở trong số nạn nhơn đó. Tuổi trẻ mà, loại bài bạc nào cũng hấp dẫn, nhứt là khi có nhiều thời giờ lang thang trước khi về nhà.

Bà Thũng xáp vô gần sòng miệng láp dáp cộ lương, cộ lương, lắc cọp, lắc cọp thì dĩ nhiên bị chủ sòng ghét, đuổi đi.

Có lần tôi chứng kiến sự trả thù của một tên anh chị ăn tiền do lảnh việc canh lính cho mấy chủ sòng bầu cua. Trả thù cũng đơn giản nhưng kết quả hơi nặng cho Bà Thũng.

Nguyên do là bà Thũng  thường mót tàn thuốc của thiên hạ quăng ra hít hít vài ba hơi cho đở thèm. Hể bà thấy tàn thuốc lá đen rẽ tiền như  MIC, Bastoz,  Melia đen thì bà lầm bầm nho nhỏ trong cổ họng dế nhũi rồi lượm lên, nếu thấy tàn thuốc kia còn le lói chút khói cuối cùng thì bà hít lấy hít để, mũi phồng lên xọp xuống thoãi mái. Nếu thấy tàn thuốc đầu lọc như Golden Club, Melia vàng, Craven ‘A’ hay Capstan thì bà lượm cất bỏ cùng vô cái túi chứa chiếc muỗng thiếc cũng là với một cử chỉ từ tốn, không lộ vẽ gì mừng rỡ khi cúi xuống  lượm lên, miệng đếm một hai ba con dế cơm mập quá! Trong cả hai trường hơp nếu tàn thuốc đã tắt thì bà lận lưng để dành.

Mấy tên anh chị chủ sòng bầu cua bàn nhau hạ độc thủ với Bà Thũng. Một tên  lượm tàn thuốc, đốt cho cháy từ từ rồi lấy thuốc dán Con Rắn vốn là thứ xức lên mục ghẽ để cho ung mủ, rất dính, trét lên đầu kia của tàn thuốc rồi lừa dịp gắn vô bắp vế non của một đứa nhỏ nào đó đương được chị nó ẵm mà không chú ý. Lửa ngún từ từ tới  cuối tàn làm phỏng da non đứa nhỏ, nó khóc ré lên. Chị nó lật đật phủi thì càng phủi càng dính vô da do thuốc dán nóng chảy, đứa nhỏ càng khóc ré.

Cả bọn lắc bầu cua hùa lại đỗ thừa cho Bà Thũng và còn quả quyết rằng mình thấy chính tay bà ta chơi dại gắn vô đùi đứa nhỏ. Bà Thũng ít oi, chỉ ú ớ nói không phải mình...

Ba của đứa nhỏ, vốn là người của Bảy Viễn làm trong lực lượng Công An Xung Phong nên rất ỷ quyền lại nóng ruột con nên chỉ nghe lời của mấy tên lớn họng nói rằng biết bao nhiêu người, sao họ không chỉ ai mà  xúm lại chỉ bà.... Và bà  Thũng đã bị tên nầy đánh nhừ tử tới nỗi phải nằm lăn ra đất chết giấc...

Sau sự kiện đau lòng đó chừng độ một tuần, nhơn chiều Thứ Năm nghỉ học, tôi lại lang thang ra chợ Cây Điệp để thăm thú cảnh mình quen thuộc bao nhiêu ngày trước, tháng trước vì bó chưn nằm nhà thì quá nóng với lại chồn chưn chồn cẳng không đi chịu không được. Phải nói thêm là tôi thèm hoạt cảnh của chợ Cây Điệp. Đứng coi bà bán mắm tráo tráo, trộn trộn những con mắm no tròn đầy thịt thấy mà thèm. Bà thỉnh thoảng vớt lên những miếng dưa chuột dài mập ú được nhận chìm trong hủ mắm mấy ngày trước, coi chừng đã thấm mấm để lên mặt.

Thấy tôi đứng ngó xửng bà nói, giọng giải thích:

‘Ém dưới lớp mắm để dưa chuột trở mình thấm mắm thành dưa mắm, trộn hể có ai mua thì mình khỏi bới lên tìm kiếm hư hủ mắm của mình.’

Dòm mắm thì thấy thèm nhưng khi bà ta đứng dậy thì áo quần bay ra một  thứ mùi không dễ chịu chút nào! Nó như là mùi lâu ngày không tắm của Bà Thũng. Tôi bước qua sạp kế bên. Bà bán thịt heo.

Sáng sớm bà ta đã cắt ra từng cục lớn đâu chừng nửa kí-lô bày lên trên từng miếng lá chuối để trên sạp cây, không đậy điếm gì. Thấy thịt mà phơi bày trần trụi như vậy tôi nghĩ thầm, cũng là theo ý của thầy giáo năm rồi: Hóng bụi đất, rước ruồi nhặng như vậy thì thịt đâu còn ngon bổ gì nữa.  Ai mua về rửa không sạch ăn thì phải biết, bịnh tiềm phục trong mình!

Lúc đó thì trên không, khỏi đầu người chừng 1 thước tây thì cả bầy nhặng bay vo ve như biểu diễn một điệu luân vũ. Tôi ngước lên, lấy tay đuổi mấy con bay thấp ra rà gần đầu mình.

Bỗng có tiếng bà bán bánh canh chỏ miệng qua nói vói:

‘Không biết Bà Thũng bây giờ ra sao rồi! Tôi nghe nói bà ta được chở vô nhà thương Hui Bòn Hỏa, ở đây họ săn sóc cái xương chậu bị đánh gảy.’

Tiếp theo là cái chép miệng:

‘Tội nghiệp quá, đã thũng mà còn bị gảy xương chậu nữa, đi đứng đâu có được. Nằm một chỗ ai mà săn sóc, rồi làm sao xin ăn. Thằng cha Tư Bình Xuyên ỷ thế lực, ác thiệt tình, tin lời tụi cờ gian bạc lận chỉ chỏ ẩu, a thần phù vô mà đánh người ta...’

‘Hay là tụi mình cùng nhau đi thăm bà ta!’

Một bà  bán hàng bông ngồi xa xa lên tiếng.

Chỉ cần bao nhiêu tin tức đó, tôi đi mau cho hết con đường Bà Hạt, ra tới đường Pierre Pasquier, đón xe bu-út ra chợ Mới Bến Thành. Thường thì đi xe bu-út tôi hay bị chóng mặt, nhức đầu, muốn ói do mùi dầu của nó vì không quen đi xe, nhưng bữa nay thì những cảm giác trên không có, nhường chỗ cho những dự kiến mình phải làm gì khi tới nhà thương Hui Bòn Hỏa  để thăm một bà già bịnh hoạn mà mình không liên quan họ hàng gì.

Rồi thì xe cũng ngừng ở trạm chót: Ga Cuniac, trước bùng binh chợ. Tôi băng qua con đường lớn bước lên lề thềm tòa nhà cao ngất ngưỡng có một hàng chữ Tây: Chemin de Fer, rồi đi vòng qua trước mặt nó để tới nhà thương...

Thằng nhỏ là tôi hơi e ngại khi tới trước cửa vô, bèn cà rà bên ngoài. Sẵn thấy có cái khung  dán tin tức của Phòng Thông Tin Anh Quốc tôi tò mò đọc rồi tin nầy kéo tin kia, tôi coi hết những hình ảnh trên đó.

Nào là công chúa Margaret đương ngồi trên ngựa, có anh chàng Townsend nắm dây cương. Lúc đó nghe đồn hai người nầy có tình ý với nhau nhưng Nữ Hoàng không khứng, bây giờ tôi mới thấy hình của họ. Coi cũng xứng đôi vừa lứa quá! Chàng cao lớn điển trai, nàng đẹp gái, thanh tú.

Nào là Thái Tử Charles, chừng 4, 5 tuổi, bận một bộ đồ quá đẹp, có viền vàng, có nút vàng lấp lánh đương đứng nói chuyện gì đó trong khuôn viên rộng lớn với người chăm sóc mình. Một hình khác là Nữ Hoàng tay dắt cháu nội, cả hai  cười tươi sửa bộ trước ống kiếng của máy chụp hình.

Tôi ngó xuống chưn mình, không dép giày gì hết, quần xà lỏn, đầu trần, áo cũng đã phai màu, sờn vai. Mình lớn hơn Thái tử nầy cở 7, 8 tuổi nhưng quá cách biệt. Sau lưng cậu ta là cung điện đồ sộ, trước mặt là khuôn viên minh mong, còn mình thì chui rút trong căn nhà lá ọp ẹp, tuối lại không bao giờ có tiền tới một đồng....

Tôi quay lại, không nghĩ thêm, rồi lấy hết can đãm bước vô cửa nhà thương. Mấy bà phước đầu ai nấy đều đội cái lúp trắng hình mỏ quạ, áo chùng đen dài phết  gót, người đi tới người đi lui lo công chuyện của mình. Họ thấy tôi nhưng  đương bận rộn, không hỏi han cũng không ngạc nhiên gì hết.

Đây là nhà thương thí, thầy lớp Ba của tôi ở trường Hãng Đinh năm ngoái cắt nghĩa là chỗ nầy người ta đem tình thương mà săn sóc người bịnh không lấy tiền, thương ở đây là tình thương dịch từ chữ hôpital, gốc từ hospitalité gì đó có nghĩa là tình thương, không phải là nơi chửa trị những người bị thương tật cho nên mấy bà phước vô làm việc không lấy tiền. Họ vui vẻ, thân thiện và đầy lòng nhơn ái.

Rồi thì tôi cũng lên được phòng của bà Thũng, lầu 3, phòng ở kế bên cầu thang.

Bà Thũng ngó ra, ngạc nhiên khi thấy có người lấp ló trước của phòng. Thâm tâm bà nghĩ rằng chẳng bao giờ có ai tới thăm mình. Quá sững sờ khi nghe tôi lặn lội tới  đây chỉ để coi tình trạng của bà ra sao. Bà quen mặt thằng nhỏ nầy là tôi, nhưng chưa bao giờ nghe tên, tuy vậy sự thân thiện đã có ngay từ phút đầu. Trong bộ đồ nhà thương sạch sẽ và rộng thùng thình coi bộ bà Thũng khác lạ hơn những lúc ở chợ Cây Điệp: Mặt mày sáng sủa, tươm tất tóc tai.

Bà  ngồi dậy, từ tốn chỉ cho tôi ngồi trên giường kế bên bà,  hào hứng hỏi thăm về những người đã tử tế với mình cũng như những bạn hàng quen mặt nhưng chưa từng cho bà chút quà mọn nào. Trong cuộc nói chuyện tôi cảm giác lờ mờ rằng bà Thũng từng là người có học...

‘...Gia đình tôi đương êm ấm ở Vĩnh Long, Thiềng Đức, nhưng rồi chiến tranh tràn tới, nhà cháy, người thân lớp bị chết, lớp bị bắt, không biết bao giờ mới được thả về. Vợ chồng cô em chồng thấy anh của họ bị Tây bắn chết, tôi một thân cô độc đã không cưu mang thì chớ lại đành lòng giành gia tài đuổi tôi ra khỏi nhà cha mẹ chồng. Tay trắng, cô đơn tuyệt cùng, tôi bương chảy kiếm sống  trong cực khổ rồi lần lần lên Sàigòn. Nhà cửa không có, bà con cũng không ngơ, nghề nghiệp thì...  đàn bà mà đâu làm nặng nhọc được, tôi thức khuya dậy sớm, buông đầu nầy bắt đầu kia kiếm sống qua ngày nhưng cũng không đủ ăn. Rồi cái...  cả chục năm nay do ăn uống sống sít, dơ dáy, bữa có bữa không, chịu đói uống nước lạnh thuờng xuyên để no bụng, tôi mắc chứng  bịnh ung thư gan nầy khiến thành ... Bà Thũng.

Bà ta chấm dứt câu với cái cười nhẹ trong nước mắt, kéo vạt áo nhà thương lên lau mắt... nói như ngâm thơ, theo giọng đọc ca dao mà ông thầy Tế  lớp Nhì của tôi thường biểu diễn:

Ông Trời thiệt ở bất công, kẻ ăn khôn hết người  lần không ra.

Khi bà nói câu nầy thì tôi nhớ tới hình ảnh hình Thái Tử Charles  trong khuôn viên cung điện mà mình mới vừa coi hồi nảy rồi nhớ tới thân phận nghèo hèn của mình. Cũng buồn theo câu chuyện của bà Thũng.

Bà Thũng nuốt nước miếng  như cố gắng nuốt cục nghẹn đời mình rồi nói như than: Làm người khổ thiệt tình. Trời sanh con người ra để đày dọa thôi chớ đâu có làm ơn làm phước gì cho con người.

Ngồi  hơi lâu, coi bộ mệt, bà Thũng cài cái gối  sau lưng, dựa vô vách, chép miệng:

‘Không biết sau khi ra nhà thương thì tôi sống cách nào nữa. Lúc trước thì còn lê lết được, bây giờ hễ nhúc nhích thì đau  thấy ba bốn ông Trời. Chắc phải giải quyết đời mình thôi, cách nào thì chưa biết!’

Tôi ra về với nỗi xót xa cho một cảnh đời, mang trong trí chút sự oán than trời đất đã bất công khi tạo ra con người dưới ngôi sao xấu là bà Thũng và bất cứ ai ở trong cảnh quá nghèo mà không có người thân thích để dựa nương.

Tuổi trẻ dễ quên và tôi đã quên lửng chuyện bà Thũng nếu chừng hai tuần sau đó không tình cờ nghe được bạn hàng ở chợ Cây Điệp bàn tán rằng bà Thũng đã nhảy cầu Bình Lợi tự tử khi họ nói về những người đàn bà ham đánh tài xỉu ở sòng bạc Đại Thế Giới phá hết gia tài của chồng, cùn đường đành mượn giòng nước bỏ đời....

 

NGUYỄN VĂN SÂM

(Victorville, CA, 1/18/2025)