(Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi)
Năm
1981, tôi được gọi tên ra khỏi nhà tù Cộng Sản. Hơn sáu năm tù là tiêu chuẩn thấp
nhất cho tù quân, cán, chính, đảng phái, tôn giáo Việt Nam Cộng Hòa
Thông
thường, tù được thả về vào những dịp lễ, tết. Tôi ở tù vùng núi rừng tây bắc Việt
Nam, được thả về trước tết âm lịch. Đi xe lửa Hà Nội - Sài Gòn, về đến ga Bình
Triệu thì đúng vào 29 tháng chạp âm lịch. Tôi đi bộ từ ga Bình Triệu về đường
Võ Duy Nghi, Phú Nhuận (Sài Gòn). Khi đi tù, tôi có gửi thư về nhà cha mẹ vợ, ở
đường Võ Duy Nghi, là nơi vợ tôi và hai đứa con tá túc, nhưng không thấy trả lời
cũng chẳng được thăm nuôi trong mấy năm đi tù. Nhờ sức trai, tôi chịu đựng được
chứ mấy ông lớn tuổi mà không có thăm nuôi, bịnh hoạn, đói lạnh, chết gần hết.
Tôi từng thấy nhiều ông tù chết, được bó bằng cái chăn rách của ông ta, bỏ lên
xe cải tiến, kéo đi trong sân, ra cổng. Hai cái chân khô đét, xanh lét thò ra
khỏi xe, nhịp lên nhịp xuống theo bánh xe gập ghềnh, tưởng như người chết nằm
rung chân khoái trá được vĩnh viễn ra khỏi nhà tù, lên gò nằm ngủ khỏe, khỏi phải
“lao động là vinh quang”.
Khi tôi đến nhà bên vợ, mới bước lên thềm, tôi đã dội ngược. Nghe giọng Bắc Kỳ 75, tôi biết gia đình cán bộ đang ở trong đó. Như vậy, gia đình bên vợ tôi đã bị đánh tư sản, tài sản bị tịch thu, cả nhà bị đưa lên kinh tế mới. Chẳng biết vợ con tôi bây giờ ra sao? Tôi ôm gói đồ tù, gồm quần đùi, khăn lau mặt và bàn chải đánh răng. (Người tù, khi được thả về, tất cả áo quần, mùng màng, lương thực thăm nuôi, thuốc men... đều để lại cho bạn tù, chỉ đem theo vật dụng đi đường) đi lang thang mà chẳng biết về đâu? Anh em ruột thịt chưa chắc đã dám chứa “tù ngụy” trong nhà vì sẽ bị công an các cấp đến hạch sách, hăm dọa thường xuyên, nên tôi chẳng hi vọng gì ở từ tâm của bà con, bạn bè. Có lẽ phải sau tết, tôi đến hàng xóm của gia đình bên vợ hỏi thăm tin tức thì họa may.
Tôi cứ đi lòng vòng trên đường Võ Duy Nghi, Hai Bà Trưng, Hiền Vương với cái bụng trống rỗng, nhìn ngơ ngáo mấy chậu bông tết người ta bày bán trước nhà thờ Tân Định, chứ không dám nhìn vào mấy tiệm bánh, hủ tiếu, phở. Đói bụng nên mũi rất thính. Mùi thơm của thức ăn từ các tiệm đó làm chảy nước miếng. Khoảng mười giờ tối, đi rả chân, tôi nằm đại vào một hiên nhà người ta, trên đường Hai Bà Trưng, bên kia đường là nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi. Hai bên lề đường Hai Bà Trưng, giăng đầy mùng của dân kinh tế mới. Họ là dân Sài Gòn, sau năm 1975 bị đánh tư sản. Nhà nước Cộng Sản tịch thu tài sản, đẩy lên kinh tế mới với hai bàn tay trắng, nơi rừng núi hoang vu khai phá đất đai sinh sống, nhưng bịnh và đói, chết dần, họ bỏ về Sài Gòn, ngủ lề đường cùng với dân bụi đời, vô gia cư, cầu bơ cầu bất.
Vừa thiu thiu ngủ, tôi bỗng bị đá vào người rồi có tiếng nạt “Ông nầy. Chỗ của tụi tôi, ai cho ông nằm đây?” Tôi giật mình, lồm cồm ngồi lên, ôm gói đồ tù “Xin lỗi. Tôi tưởng không có ai”. Qua ánh đèn đường, tôi thấy hai cậu trung niên, khoảng bốn mươi tuổi, tướng bậm trợn, đứng chống nạnh nhìn tôi. Khi tôi bước xuống thềm, đi được mấy bước thì bị gọi giật lại “Chú!” Tôi dừng lại, yên lặng quay nhìn “Chú có phải đi tù về không?” “Phải. Mà sao?” “Chú cứ ngủ đây đi. Tụi nầy ngủ lề đường cũng được” “Sao cũng được. Cám ơn!” Làm phật lòng mấy tay nầy chỉ thêm phiền nên tôi phải vâng lời, quay lại, nằm xuống hiên, gối đầu lên bọc đồ tù, nhắm mắt để đó chứ không ngủ tiếp được. Hai tay giang hồ nầy, lẽ ra, có thể nằm phần còn lại của hiên nhà nhưng lại giăng mùng ngủ trên lề đường, gần nơi tôi nằm. Hai cậu nằm trong mùng vừa chuyện trò vừa chửi thề rồi cười hắc hắc nghe thật ngang tàng. Tôi nằm nhìn thiên hạ qua lại. Xe gắn máy chạy vù vù, người đi bộ lê dép lẹp xẹp. Tôi không biết ngày mai đi đâu với cái túi trống trơn và cái bụng xẹp lép? Mấy năm tù đã làm cho đầu óc tôi mụ mẫm, chẳng thèm lo nghĩ. Đến đâu hay đó. Trong tù, sáng nghe kẻng báo thức, dậy ra ngồi trước cửa nhà tù để cán bộ coi tù đếm tù, lãnh mấy củ khoai mỳ hay trái bắp, ăn xong chờ kẻng để sắp hàng ra cổng, lao động. Chiều về, lại mấy củ khoai, trái bắp gì đó, ăn xong, ngồi cho cán bộ đếm tù rồi vô nhà tù nằm chờ giấc ngủ. Cán bộ khóa cửa nhà tù, bỏ đi. Tù kiệt sức sau một ngày lao động, đói và mệt rả rời nên ngủ vùi, có thao thức mà nghĩ đến gia đình cũng vô ích. Trong tù, chẳng ai biết ngày giờ, chỉ khi nào được chén cơm trắng với chút mỡ heo hoặc miếng thịt trâu mới biết là ngày lễ lớn hoặc tết nhất. Nghỉ một ngày lao động, ăn chén cơm là biết một năm đã đi qua nhưng không bao giờ tự hỏi mình đã bao nhiêu tuổi rồi? Càng suy nghĩ càng mau chết vì mất ngủ. Nhiều ông lớn tuổi, bịnh hoạn, tối nhắm mắt để rồi sáng hôm sau không thèm mở mắt. Cứ thế mà vào cõi hư vô... Đang suy nghĩ linh tinh thì có hai ông xuất hiện, dừng lại trước hiên, nơi tôi nằm. Thấy mỗi ông một gói đồ tù trên tay, tôi biết ngay là bạn “đồng tù” nhưng làm thinh. Một ông thấy tôi nằm lỏ mắt nhìn, bèn hỏi “Anh ơi. Chỗ nầy còn trống, cho tụi tôi nằm đỡ. Được không?” “Đây đâu phải nhà của tôi. Mấy anh cứ tự nhiên” Hai ông bèn bước lên thềm, ngồi xuống, tựa lưng vào tường, duỗi chân, ẹo mình coi bộ mệt mỏi. Họ nói chuyện rù rì nhưng tôi nghe rõ và biết họ cũng từ ngoài Bắc về chung một chuyến xe lửa cuối năm với tôi. Họ đối đáp nhát gừng nhưng vẫn đậm đà tình thân. Họ kể về các trận đánh trong đó có bạn bè, người còn, người mất. Khi nhắc đến người bạn nào đã ngã gục ngoài chiến trường, họ tặc lưỡi, thì thầm “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”. Tôi cũng tốt nghiệp sĩ quan nhưng về bộ binh, nghe họ chuyện trò, tôi biết hai ông là lính dù, một ông là đại đội trưởng, ông kia là sĩ quan pháo binh tiểu đoàn dù. Hình như họ cùng tiểu đoàn nên chuyện trò rất thân mật. Trong câu chuyện, chẳng ai nhắc đến bóng hồng nào mà toàn chuyện lính tráng, đánh đấm. Tuổi trẻ miền Nam lớn lên, vừa xong trung học, buông bút là vào quân trường cầm súng chiêén đấu chống xâm lược cộng sản miền Bắc.
Lúc đó đã về khuya, đường phố vắng tanh, hai cậu bụi đời đã im tiếng, hình như đang nằm lắng nghe hai ông bạn tù của tôi trò chuyện. Bỗng cái mùng động đậy và hai cậu chui ra, đứng dưới thềm, trước hai ông bạn tù, người thẳng đơ, đưa tay lên chào theo kiểu nhà binh. Một cậu nói lớn “Trung sĩ nhất Nguyễn văn X. số quân…trình diện thảm quyền, chờ lịnh!” Một cậu ngậm ngùi “Từ ngày mất nước, các cấp chỉ huy đi tù, tụi em tan hàng, bơ vơ, buồn muốn chết. Tụi em nhớ đơn vị, nhớ cấp chỉ huy, nhớ súng đạn, ba lô... nhớ đủ thứ. Tôi ngồi lên “Mình nói chuyện có làm phiền chủ nhà không?” “Ông thầy khỏi lo. Họ ngủ trên lầu. Hai ông bà chủ nhà có con là đảng viên làm lớn, được cấp nhà tịch thu của tư sản. Tụi em ngủ ở đây, giữ gìn sạch sẽ, khỏi sợ trộm cắp nên họ để yên”. Hai cậu bụi đời thì thầm với nhau rồi cậu trung sĩ đứng lên, trịnh trọng thưa “Thưa, mấy khi thầy trò được gặp lại nhau, tụi em có ý kiến như thế nầy. Tụi em đi kiếm rượu và mồi nhắm để mấy ông thầy và tụi em lai rai đón giao thừa...” Một ông cười khan “Nghe văn chương của cậu là hiểu ý rồi đó. Tụi nầy vô sản, mấy cậu kiếm xị đế là đủ rồi, khỏi mồi miết phiền phức, tốn kém” “Không bao nhiêu đâu. Mấy tiệm phở sắp đóng cửa, họ bán xí oách rẻ đui. Mình không lấy họ cũng đổ bỏ” “Khuya rồi, ai mà còn bán rượu nữa?” “Ông thầy khỏi lo. Tụi em là mấy con ma, chỗ nào không biết!”. Buổi “tiệc đón giao thừa” gồm hai xị đế và thau xí oách (xương bò, xương gà) với một cái li nhỏ để trên một tờ báo được trải ra. Người nầy “dzô” xong một li thì rót cho người kế tiếp, cứ thế xoay vòng. Nhờ hơi men, những câu nói nhát gừng đã thành rôm rả. trường đã im tiếng súng, họ là kẻ chiến bại, là kẻ mất nước, bị đối phương khinh miệt, tù đày, hành hạ để trả thù. Buổi “tiệc” cuối năm càng về khuya càng thân mật, thỉnh thoảng có tiếng cười.
Ngoài đường đã vắng bóng người. Đường phố như
ngủ say dưới ánh đèn vàng vọt. Lúc đó đã vào khuya. Đột nhiên, trong đêm vắng,
vài tiếng pháo nổ lẻ tẻ, vang đến từ chợ
Tân Định. Rồi như cùng hẹn trước, tiếng pháo đồng loạt nổ vang khắp nơi. Giờ
giao thừa. Mọi người đón mừng chúa Xuân bằng những tràng pháo và lễ vật trên
bàn thờ, trước cửa nhà. Pháo nổ liên tục chen lẫn với tiếng pháo tống, pháo đại
khiến bản năng người lính bị kích động. Mùi thuốc súng khiến thần kinh những
người lính chúng tôi càng thêm căng thẳng. Hai cậu cựu binh như bị đồng nhập,
tay nắm lại, cằm bạnh ra, mắt trừng trừng nhìn hai ông cựu sĩ quan. Một cậu chồm
tới, thét lên trong tiếng nổ hỗn loạn “Thẩm quyền! Thẩm quyền ban lệnh đi. Chả
lẽ nằm đây chịu chết sao?”. Tôi quay nhìn. Hai ông cựu sĩ quan dù lắc đầu, mắt
nhìn trừng trừng vào khoảng không trước mặt. Rồi nước mắt họ ứa ra, trào xuống
gò má xương xẩu, long lanh ánh chớp của pháo nổ. Bỗng, một ông (sĩ quan dù) kêu
lên, giọng điềm tỉnh. “418, đây 314, xin tác xạ, hết” Ông ngồi bên cạnh (sĩ quan pháo binh), trả lời.
“314, đây 418, xin tác xạ, hết”. Thế rồi cuộc trao đổi truyền tin diễn ra gữa
hai người trong vai trò một sĩ quan tác chiến và một pháo đội trưởng đơn vị nhảy
dù “Lệ Hằng, phải 1.5, lên 2.3 một khói nổ chạm. Bắn khi sẵn sàng, hết” “Hỏa tập
cận phòng. Năm tràng, bắn hiệu quả, hết” “Năm tràng, bắn hiệu quả, hết” ...
Giọng hai ông bạn tù của tôi vẫn mạch lạc, điều động nhịp nhàng pháo binh yểm trợ như trong một trận chiến sắp nổ ra. Tôi hình dung một đại đội dù đóng quân trên một ngọn đồi, địch quân theo dõi, bao vây và tìm cách tràn ngập. Các toán tiền đồn gọi về báo động. Toàn đơn vị đã sẵn sàng chờ địch. Hai ông cựu sĩ quan dù như đang cùng hồi tưởng lại một một kỷ niệm chiến đấu nào đó đã xảy ra và hai cậu cựu binh cũng là những người đã từng tham dự những trận đánh đẫm máu..
Cuộc
trao đổi truyền tin trong tiếng pháo giao thừa vẫn tiếp tục. Người chủ nhà trên
lầu lại gắn thêm một dây pháo nữa, pháo nổ càng dữ dội, và như cao hứng, những
căn nhà kế bên cũng đem pháo ra đốt tiếp. Tiếng nổ càng dồn dập, khói súng càng
mịt mù. Ông bạn tù lại cao giọng “Các hỏa
tập cũ đều kéo vào 50, sẵn sàng bắn, vị trí sắp bị tràn ngập, hết” “Hỏa tập cũ
kéo vào 50, bắn, hết” ... Hỏa tập thường được kéo vào sát vị trí phòng thủ để
chặn địch tràn ngập. Hai cậu cựu binh ngồi chết sửng, thỉnh thoảng cựa quậy như
không chịu đựng được các bắp thịt và thần kinh đang căng lên hết mức. Vẫn giọng
bình tỉnh. “418, đây 314, địch tràn ngập vị trí. Hỏa tập tối đa, nổ chụp ngay
trên đầu tôi, hết” “Xin 314 nhắc lại, hết” “418, đây 314, địch tràn ngập vị
trí, hỏa tập tối đa ngay trên đầu tôi, hết” Giọng ông pháo binh khàn khàn, nghẹn
ngào “Bắn trên đầu bạn ư?” “418, đây 314. Có bao nhiêu ông phang hết lên đầu
tôi. Đó là lời cuối cùng” “314, đây 418, xin xác nhận lại. Nghe tôi không? Xin
314 trả lời... Vâng, hỏa tập tối đa trên đầu bạn. Vĩnh biệt 314”... Tiếng pháo
giao thừa đã dứt. Cả thành phố im lặng như đang mặc niệm tử sĩ. Vẳng lại từ xa
vài tiếng nổ lẻ tẻ, rời rạc rồi lịm dần, tưởng chừng như chiến trường đã bị kéo
trôi đi xa, chỉ còn lại cảnh bình địa hoang tàn.