Tính cộng đồng đi vào tập tục
Quay lại với nguồn gốc
lưu dân đến Phú Yên. Cuộc di cư khai hoang lập ấp năm 1597 do Lương Văn Chánh tổ
chức là quan trọng nhất. Trước đó, từ năm 1578 Lương Văn Chánh có thể đã đặt một
số đơn vị bán vũ trang ở lại lãnh thổ Aryaru trong các đồn điền. Rồi những quân
và dân của chúa Trịnh phía bắc sông Lam bị chúa Nguyễn bắt làm tù binh, phát phối
đến mỗi thôn ấp 50 người. Để sống được nơi miền đất hoàn toàn xa lạ, phong thổ
khác, khí hậu khác, họ phải được tổ chức thành đội ngũ. Các vị thủ lãnh là người
uy tín cao, đủ đức độ để được tập thể tin cậy, đủ tài trí để có các kế hoạch
mưu sinh trước mắt và lâu dài. Những người này đã hóa thân vào đất nước, tên của
họ biến thành tên sông, tên núi, hoặc họ và những người kế nghiệp được tôn vinh
làm Tiền hiền Hậu hiền của làng xóm.
Cuộc sống đầy gian
khó buổi đầu ấy, với tổ chức đoàn ngũ như thế, tự nhiên gây nên tinh thần cộng
đồng trong lưu dân. Khó có một người khác đủ tâm lực để tạo cho mình một cá
tính nổi bật, vượt thoát khỏi cộng đồng. Vì một người như thế đã thành thủ lãnh
cộng đồng rồi. Từ thủ lãnh đến mỗi thành viên đều phải hạn chế phần tự do cá
nhân để đón nhận tinh thần cộng đồng. Nhiều khi tinh thần cộng đồng đã làm triệt
tiêu cá tính của họ. Lớp người nhập cư về sau, lẻ tẻ, rải rác… phải tìm biết những
nhóm có tương quan để trước hết hòa nhập vào nhóm tương quan ấy, sau dần dần “quen
nước quen cái” với quê hương mới. Một ông thầy đồ xứ Nghệ sẽ vui mừng gặp một
gia đình gốc Nghệ, một ông thầy địa hay một nông dân tứ cố vô thân xứ Quảng sẽ
vui mừng khi chợt nghe một người nói giọng Quảng “chừ mô răng rứa”.
Tình trạng kinh tế
nông nghiệp ở thôn quê Phú Yên qua bao nhiêu năm không mấy thay đổi. Đến thập
niên 1930 mới có đập nước Đồng Cam, đường sắt Xuyên Việt đem lại nhiều lợi nhuận
cho vùng ven biển và đồng bằng Tuy Hòa, thu nhập cao hơn, đời sống dễ chịu hơn,
nhưng vùng núi và cao nguyên phía tây (phủ Tuy An) , tây nam (huyện Sơn Hòa),
tây bắc (huyện Đồng Xuân) sự thay đổi không đáng kể. Những thôn xóm cách xa
nhau vẫn là những cụm ốc đảo để cư dân nơi ấy cứ bám vào lề xưa lối cũ hàng ba
bốn trăm năm. Trong cảnh núi non sông suối như thế, ruộng vườn thổ rẫy như thế,
ông Chánh ông Xã ông Thôn cũng như thế… mọi người đã quên mất chính mình, nương
theo tính cộng đồng gọi là tập quán, nâng lên thành phong tục.
Có thể nói cuộc sống bình
lặng của người dân thôn quê Phú Yên kéo dài từ xưa, xưa lắm… tạo ra tính cầu
an. Năm 1938, nhà giáo Trần Sĩ viết trong sách Địa dư tỉnh Phú Yên nhận xét: “Dân cư bốn mùa chỉ chăm chăm chúi chúi
làm việc trong ruộng, trong rẫy mình, họ không giàu có lắm, nhưng khồng lấy gì
lam lụ khổ sở, vì ruộng còn, rẫy còn, thì còn lúa còn bắp còn đường còn khoai
... Vì thế dân ở đây họ rất quyến luyến tỉnh nhà, họ không khi nào rời cái rẫy
xanh xao của họ, cái mặt biển đầy thuyền câu lưới bủa để đi làm ăn trong “miền
đông” hoặc trên các cao nguyên”. Cho đến năm 1960.
Hai biến cố tháng 8/1945
và tháng 7/1954 không có gì thay đổi quan trọng. Cuộc chiến 1946-1954 có bom
rơi đạn nổ, công thự bị phá hoại, nhà cửa cháy thiêu, tản cư chạy giặc… nhưng
không đến nỗi quá hãi hùng thê thảm. Số người thương vong không nhiều. Chủ tịch
huyện có ông là nhà nho, khi nghỉ được tuyên dương công trạng, có ông là thầy
giáo tân học trường công liên hương. Dù trong chức vụ nào họ cũng là người của
cộng đồng. Ông L.B.H. ở thôn Hòa Xuân (huyện Sơn Hòa) năm 1946-1954 làm Thôn trưởng,
1954-1975 vẫn làm Thôn trưởng, sau năm 1975 lại làm Thôn trưởng… Ông là người của
địa phương, của cộng đồng, sống và làm việc theo lệ làng với tinh thần cộng đồng
nhiều hơn. Ở huyện Đồng Xuân có hai ông anh em bà con, tên Tạ Hiền và Tạ Sở.
Ông Hiền theo cách mạng, ông Sở theo quốc gia. Lúc tình hình địa phương “mất an
ninh” ông Hiền khuyên dân chúng bám trụ ở lại, ông Sở khuyên dân chúng tản cư
xuống quận, xuống tỉnh. Nhiều người hỏi nhau: “Ông Hiền biểu ở, ông Sở biểu đi.
Biết theo ông nào?”. Bởi vì hai ông đều là người của cộng đồng, được tin tưởng
nể nang.
Năm 1960, tình hình
thôn quê Phú Yên thay đổi hẳn. Hầu hết là “mất an ninh”, “xôi đậu”, một số nơi
là vùng “oanh kích tự do”. Dân chúng, số
người theo quốc gia tản cư xuống quận, lập các “xã lưu vong”, không có ruộng vườn,
phải sống bằng nhiều nghề tạm bợ hàng ngày, số người theo cách mạng thì rút vào
nơi núi non hẻo lánh, lập các “khu sản xuất”, thiếu thốn phương tiện, dụng cụ,
trồng trỉa một cách vất vả. Lớp trẻ con sinh ra trong hai vùng này từ 1960 đến
1975 không hề biết những sinh hoạt nông thôn, những trò chơi tuổi nhỏ, không có
những bình minh yên ả, những đêm trăng thanh tịnh… Năm 1975 trở về làng cũ thấy
hoàn toàn xa lạ với bữa cơm độn khoai sắn, với chiếc gùi mang nặng trên lưng, với
đôi vai oằn lên giúp cha mẹ kéo bừa ban ruộng. Tính cộng đồng nơi họ vẫn có qua
lời dặn dò nhắc nhở của cha mẹ, nhưng hơn mười năm cơ cực tiếp liền đã hao hụt
quá nhiều. Sau đó thôn quê dần dần thành thị hóa, nhà cửa không còn rải rác, nay
tập trung theo lô, san sát bên nhau, đường đi rộng rãi thuận tiện cho xe máy
phân khối lớn, điện thắp sáng, máy thu thanh rồi máy truyền hình, điện thoại di
động… con cháu lên huyện, xuống tỉnh, vô Nha Trang, Sài Gòn, ra Huế học… đám cưới
cô dâu đội vương miện, mặc áo thướt tha, đám tang có đội âm công tề chỉnh thời
trang, múa bước theo nhịp điệu… Hễ có tiền, “a-lô” là các “dịch vụ phục vụ” từ
hiếu đến hỷ đáp ứng ngay, tính cách cá nhân có điều kiện để phát triển mạnh dần
để vượt lên trên tính cộng đồng.
Đưa ra bối cảnh như
trên, chúng tôi muốn nói rằng “tính cộng đồng” trong sinh hoạt của người dân
thôn quê Phú Yên nêu ra trong tập này chủ yếu từ năm 1960 trở về trước. Hiện tại,
chưa có dịp trải nghiệm để kiểm chứng xem còn được bao nhiêu, những gì còn và
những gì mất.
*
* *
SINH HOẠT TRONG THÔN XÓM
Vần công
Ngay từ bước đầu khai
hoang vỡ hóa, chúa Nguyễn và về sau các vua nhà Nguyễn đã cho phép người dân
làm chủ số ruộng đất do sức mình tạo nên, do đó ở Phú Yên ruộng đất công rất
ít, có làng không có. Phần đông “người cày có ruộng” dù nhiều dù ít. Tình trạng
giàu nghèo chênh lệch không cao. Ở đồng bằng Tuy An (châu thổ sông Cái) và đồng
bằng Tuy Hòa (châu thổ sông Đà Rằng) chỉ vài địa chủ ruộng “cò bay thẳng cánh”
mà thôi. Họ có nhiều nhà rẽ. Phần đông dân chúng vào bậc trung trung, ruộng đất
vừa đủ cho gia đình canh tác. Một số ngoài phần ruộng nhà còn “làm rẽ” thêm ruộng
của người khác. Một số có ít ruộng nhưng đang làm việc công, làm thầy giáo, thợ
may v.v… thì đưa ruộng cho làm rẽ, thu hoa lợi.
Ở Phú Yên, giữa điền
chủ và tá điền không có sự phân biệt xa cách, mà gần như sống bằng tình cảm nhiều
hơn. Điền chủ là “chủ ruộng”, tá điền là “chủ rẽ, nhà rẽ”, không bị đánh giá thấp.
Chủ ruộng chịu phần giống, tất cả các công đoạn canh tác đều do chủ rẽ. Lúa
chín, chủ rẽ mời chủ ruộng đến tận nơi coi gặt. Có khi chủ ruộng cho con cháu đến
có lệ, có khi tin nhau thì giao hẳn cho chủ rẽ, cắt gặt xong báo lại. Lợi tức
chia đôi, mỗi bên bằng nhau.
Không một gia đình
nào tự mình có thể làm hết mọi công việc trong vụ mùa, từ cày bừa, cấy sạ đến cắt
gặt. Phải cùng nhau làm theo cách “vần công”.
Ngày mai hay ngày mốt nhà ông A cần việc làm, đi “kêu công” tức là đến
nhà nào đó, hỏi: Mai hay mốt có rảnh không? Đi cấy, làm cỏ hay cắt lúa cho tôi.
Nhà ông B nhận lời, đi làm. Khi nhà ông B có việc thì đi “đòi công”, tức là báo
lại thời gian để nhà ông A cho người đi “trả công”. Vần công có điểm hay là
không nhất thiết phải trả đúng công người ta đã làm cho mình, đi cày trả công
cày, nhưng cũng có thể trả công dọn bờ, làm cỏ…Đối với người yếu đuối thì việc
nhẹ hơn như căng dây bẹo (ngăn ngừa thú rừng xuống ăn lúa bắp) cũng được. Không
câu nệ so tính hơn thua. Bằng cách vần công giúp nhau như thế không nhà nào bị
đình đốn công việc, tất cả như được điều động theo một guồng máy, ban ngày trên
đồng ruộng luôn luôn có người làm việc, ban đêm thôn xóm bình yên, mỗi nhà sắp
xếp tính toán việc làm tiếp theo.
Tuy đa số dân chúng
có mức sống trung bình, nhưng Phú Yên là một tỉnh nông nghiệp chậm tiến, làng
quê vẫn còn một số người nghèo khó, không có một miếng ruộng, một con trâu hay
con bò, họ chỉ có một khoảnh đất hẹp đủ cất một gian nhà nhỏ cho vợ con cùng sống.
Có thể quanh nhà là vườn nhỏ, một cây mít, ba bốn bụi chuối, thêm cây chanh,
cây quýt chẳng hạn. Nhưng họ không chịu bị gọi là “làm mướn ngày”, họ vẫn làm
nông, có dụng cụ nghề nông, cái cày, cái bừa dựng sau chái hè, nơi gốc mít.
Không có ruộng thì làm rẽ, theo hình thức vần công như nói trên. Một chi tiết
trong những hình thức vần công là “vần công trâu”, tức là mượn trâu bò người
khác về cày, sau đó trả công bằng sức người, đi cày, đi bừa, ban ruộng, vanh bờ,
cuốc góc v.v… tùy theo thỏa thuận giữa hai bên. Hoặc làm một việc gì khác tương
đương. Nhờ vậy dù không có trâu bò những người này đều làm được ruộng, là một
nhà nông như ai. Thì giờ rảnh còn lại, họ sẵn sàng nếu có ai kêu làm việc khác.
Phải nhận rằng hình thức vần công để
cùng nhau làm ruộng ở thôn quê là cách làm có tính cộng đồng rất cao. Tinh thần
tập thể này còn thể hiện sự tương thân tương ái của đồng bào ta, tay mạnh giúp
tay đau, để công việc của nhà nào cũng hanh thông, không bị ngưng trệ.
Năm 1953, công cuộc cải
cách ruộng đất tại Phú Yên mới bắt đầu ở mức giảm tô giảm tức, chưa long trời lở
đất. Những nông dân nghèo không tấc đất được gọi là cố nông. Về mặt tinh thần
được nâng đỡ để làm cán bộ. Theo sách lược là bần cố nông đoàn kết với trung
nông liên minh với phú nông để đánh đổ địa chủ.
Ở xóm Đá Bàn (huyện
Sơn Hoà) có mấy người được chú ý bồi dưỡng, trong đó, có anh Nguyễn Cúc hiền
quá và kém quá không tiến bộ. Sau một buổi ngồi trên bàn chủ trì hội nghị (mà
không có được lời nào) ra về anh nói với bọn đàn em một cách vui vẻ: “Nay tao ở
hạng hào mục rồi, tụi bay phải kêu tao là ông Hào Bốn”. Chẳng biết có phải vì
anh không nhìn rõ cái “vinh dự” làm “cố nông” lại ham chức “hào mục” phong kiến
hay không, hết thời gian “cảm tình” anh lại là nông dân!
Trong giai đoạn này,
lợi tức thu hoạch từ đồng ruộng không phải chia đôi, chủ ruộng và chủ rẽ mỗi
bên một nửa như trước, mà đầu tiên giảm tô 25%. Ví dụ thu được 100 ký lúa, phải
giảm tô 25% cho tá điền hưởng, còn 75% (75kg) mới chia hai, vậy chủ ruộng còn
37,5% (37,5kg), chủ rẽ có 62,5% (62,5kg). Khi đóng thuế nông nghiệp chủ ruộng
phải tăng 25%, tức là đóng thuế theo 62,5kg mặc dù thu nhập chỉ 37,5kg, chủ rẽ
được giảm 25%, tức là đóng thuế theo 47% thu nhập. Quyền lợi này, bần nông cố
nông làm rẽ được hưởng hai mùa tháng ba, tháng tám năm 1953 và mùa tháng ba
1954, sau hiệp định Genève tháng 7/1954, chính quyền Quốc gia không áp dụng,
năm 1975 hồi cư, thì ruộng đất vào Hợp tác xã.