Mộ Cụ Nguyễn An Ninh ở Côn Đảo
II. Côn Đảo
Từ Sài Gòn, chúng tôi lấy máy bay ra Côn Đảo.
Chiếc máy bay nhỏ chở đầy
hành khách, không một chỗ hở. Mọi người cười nói ồn ào, dường như quen nhau cả.
Tôi để ý: hầu như không có người Nam, máy bay chở toàn người Bắc. Có lẽ đây là
một đoàn du lịch có tổ chức, mà chúng tôi là hai người lạ duy nhất lạc vào, lại
ăn mặc lôi thôi, không giống ai. Tôi đã chú ý đến đám này ngay từ lúc đứng xếp
hàng ở Tân Sơn Nhất, vì ông già nhà tôi (kẻ hay than phiền nhất thế giới) lầu
bầu rằng mình đến trước mà bị người đến sau lấn chỗ, lời qua tiếng lại với một
người đàn ông cao lớn như Tây, áng chừng là trưởng đoàn; thế là ông Tây ta tay
dứ nắm đấm định đánh: "Thằng già điên, liệu hồn, muốn chết hử?".
Tôi vội vàng líu ríu xin lỗi, vì sợ ông lỡ tay đánh thật thì ông già nhà tôi ra
ma ngay.
Từ lúc ấy tôi mới quan sát
phái đoàn kỹ hơn: Các ông bà đều mặc quần áo đắt tiền, cười nói oang oang như
chỗ không người (y hệt bọn Tây đi du lịch các nước nhược tiểu cách đây mấy năm
về trước) giọng en-nờ, e-lờ lẫn lộn. Các bà vận áo đầm đúng mốt, phấn son sặc
sỡ, ví vuy-ton loại mới, tôi chắc ví thật. Thứ ví đầm này
chúng tôi ở bên Pháp đã ba đời, không đời nào dám mua, vì giá nó đắt bằng một
tháng lương người trung lưu, nhưng hai con cháu ngoại tôi lại chê xấu, chúng
bảo chỉ tuyền một mầu nâu xỉn và in toàn chữ LV viết móc vào nhau, không có gì
sáng tạo. Bây giờ nhà vuy-ton cũng thấy nhược điểm ấy rồi, họ
tân trang mầu sắc rực rỡ chẳng kém gì các mác khác. Điểm lạ ở đây là các phu
nhân ăn mặc sang trọng như vậy nhưng tay họ lại vác đầy đồ: Các bà cầm những bó
hoa thượng hạng, hoặc lệ khệ ôm đồ lễ, vàng mã, đèn nhang. Hoa cũng sang, thứ
huệ trắng như tranh Tô Ngọc Vân. Hoa này bên Tây gọi là lys, mỗi bông cũng phải gần chục
Euros, tôi chẳng dám mua bao giờ, trừ khi con cháu cho. Tôi không hiểu họ đi
Côn Đảo làm gì mà lễ mễ mang theo những thứ lỉnh kỉnh này, chẳng lẽ tất cả mọi
người đều có thân nhân chết trong tù, nhưng không dám hỏi, một phần vì vẫn còn
sợ ông Tây ta, một phần vì thấy các bà cũng không có vẻ bình dân
lắm. Ra khỏi sân bay, hai chúng tôi đi cùng xe ca lớn với họ về khách sạn, trên
con đường duy nhất, dọc bờ biển, quanh co đồi núi, phong cảnh tuyệt vời. Xe vừa
ra khỏi phi trường chừng cây số, đã thấy một bức tường cổ, tôi đoán chừng là
tường thành Catchpoole.
Tường thành Catchpoole?
Di tích này gắn bó với
thời điểm lịch sử khi quân Anh xâm lấn nước ta đầu thế kỷ mười tám. Theo sử thì
tháng 10 năm 1702, Allen Catchpoole đem tám chiến thuyền và hơn 200 quân đến
chiếm Côn Lôn, lập đồn trại, gọi là thương điếm. Y tự phong cho mình chức Toàn
quyền, hùng cứ, ra vào buôn bán như ở trên đất Anh vậy. Thời
đó Anh nhất thế giới, chiếm xong Ấn Độ, họ lập công Ty Anh-Ấn, buôn bán khắp
vùng, thực ra thì cái công ty này là giả mạo, bidon, nó chính là bộ chỉ huy của
Hoàng gia Anh ở ngoài nước trá hình. Anh, Pháp khi đi đâu buôn bán thường
kéo cả hạm đội theo, trên đã có sẵn quan "Toàn quyền", Pháp còn mang
cả ông cố đạo, để uỷ lạo tinh thần binh lính và khai hoá bọn man dân bản xứ.
Đến chỗ đất nào, có vẻ vô chủ hoặc có rồi mà dân cư thưa thớt, không có lính
bảo vệ, là họ nhào vô, xí đại, vì họ có sẵn ca-nông, lại có đủ mặt các quan (từ
quan một, quan hai, đến quan năm) điều khiển, thì bọn bản xứ man ri mọi rợ nào
dám chống lại. Chuyện ông Allen Catchpoole đại khái là như thế.
Sau khi ghé Tầu, không làm
ăn gì được, ông bèn xuôi Nam, đến Côn Đảo thấy phong cảnh hữu tình, dân cư thưa
thớt, bèn đổ bộ vào tháng tám năm Nhâm Ngọ tức tháng 10 năm 1702, sử mình viết
rõ lắm: "Giặc biển là người Man An Liệt [các cụ phiên âm
chữ English] có tám chiếc tầu đến đậu ở đảo Côn Lôn. Trưởng là bọn Tô
Thích Già Thi [các cụ phiên âm chữ Allen Catchpoole] năm người
tự xưng là nhất ban, nhị ban, tam ban, tứ ban [tức là quan một, quan
hai, quan ba, quan bốn] (...) cùng đồ đảng hơn hai trăm người, kết lập
trại sách, của cải chứa đầy như núi, bốn mặt đều đặt đại bác". Trước
một lực lượng hùng hậu như thế, các cụ phải chịu thua lúc đầu, vả lại lúc đó
Quốc Chúa mới chiếm xong Thuỷ Chân Lạp, còn đang lo bình định. Hơn một năm sau
các cụ mới "phản công" và dùng mưu Khổng Minh Gia Cát: Chúa Nguyễn
Phước Chu, tức Quốc Chúa, thấy bọn giặc biển bấy giờ đã đã lập
xong sự nghiệp thành trì, bèn sai Trương Phước Phan (cha Trương Phước Loan) xử
lý vụ này. Phước Phan mộ 15 người Mã Lai cảm tử làm kế trá hàng, vào thành
Catchpoole, đến đêm nổi lửa đốt thành, đâm chết quan một, quan hai, mở cửa cho
quân Việt vào. Quan ba, quan tư trốn thoát. Bắt sống quan năm, tức Catchpoole,
giải về kinh, dọc đường chẳng may ông ta bị chết (các cụ không nói rõ chết như
thế nào). Quân Anh từ đó không dám bén mảng tới Côn Lôn nữa. Mà cũng không dám
kêu ca gì với "quốc tế", chỉ nói đại khái là bị quân Mã Lai "làm
phản". Có lẽ họ hơi ngượng. Một nhân chứng người Anh, là Finlayson, đến
Côn Lôn 120 năm sau (1822) còn tìm thấy vết tích: "Cách bờ biển độ nửa
dặm [800m], chúng tôi thấy tàn tích của công ty thương mại
ngày xưa đã xây dựng trên đảo này".
Đi khỏi phi trường một
lúc, chúng tôi nhìn thấy một tường thành dài chạy dọc theo đường xe đi, tôi
không dám chắc đây là một phần tường thành Catchpoole, nhưng cứ chụp ảnh và ghi
lại đây, hy vọng một ngày sẽ có nghiên cứu sinh trẻ quan tâm tìm kiếm, may ra
xác định, hoặc tìm lại được dấu vết ở chỗ khác chăng? Điều này khả thể bởi vì
Côn Đảo không bị chiến tranh tàn phá, các dấu tích đã còn lại từ 1822, có thể
tiếp tục tồn tại đến bây giờ.
Tôi đến đây cũng còn vì
một câu trong Đại Nam Nhất Thống Chí đã ám ảnh tôi hoài: "Khoảng
năm Khang Hi thứ 46 [tức năm 1707, thực ra là 1702], người
Hồng Mao lại mưu chiếm Côn Lôn, nhưng không dám ở gần núi, đến ven biển mà dựng
phố xá. Vì Côn Lôn là chỗ bốn bể thông với các biển, nên chúng thèm nhỏ rãi
không thôi". Tôi thích nhất câu chúng thèm nhỏ rãi không
thôi, nên đọc tới đó, trong bụng nguyện thế nào cũng phải đến tận nơi
xem tại sao các cụ lại bảo: chúng thèm nhỏ rãi.
Phong cảnh Côn Đảo
Côn Đảo dân cư thưa thớt,
chắc không khác quang cảnh những thế kỷ trước là bao. Chúng tôi ở khách sạn nhà
nước, giá rẻ, đó là một resort nằm trên bãi biển, đầy đủ tiện
nghi, nhân viên tiếp đãi lịch sự, trong phòng khách nhìn ra biển có treo bức
tranh vĩ đại Đầm Sen của Monet, nhưng người vẽ lại chia làm ba
tấm, lồng khung ba lần. Tôi nói với em tiếp khách: cháu nhắc ông chủ ghép lại
thành một bức thì mới đẹp, nhưng thấy nó cười cười vâng vâng dạ dạ, cho xong
chuyện, chứ không chú ý lắm. Biển xanh ngọc bích, bãi cát mênh mông hệt như
chúng ta thấy quảng cáo trên tivi, về những nơi được gọi là thiên đường hạ giới
như Tahiti, Madagascar...
Côn Đảo nước tôi cũng là một
thiên đường hạ giới, và tôi thấy các cụ nói đúng: bọn chúng đi qua
phải thèm nhỏ rãi.
Bây giờ tôi đang ở đây,
trước cảnh trời nước bao la, cát trắng mịn, biển biếc, nước trong vắt nhìn thấy
đáy. Khách sạn có cả phái đoàn đi cùng trên máy bay buổi sáng, nhưng không ai
tắm, chỉ có hai chúng tôi. Không cảm tưởng nào êm dịu bằng. Trưa hôm đó chúng
tôi ăn đồ biển lần đầu ở Côn Đảo. Ghẹ Hà Tiên đã kinh hồn rồi, đến Côn Đảo ghẹ
còn ghê hơn, mà còn thêm bao nhiêu thứ khác, tôm, cá, sò, ốc, tôm hùm, mực, rùa
biển... bạn không thể nhớ hết tên, cũng không nhận diện được hết cả, bởi cơ man
nào... bạn chỉ cần chỉ tay vào hồ nước, bất cứ chủng loại nào, đều tươi, nhẩy,
đầu bếp vớt ra xào nấu theo thực đơn. Tôi không nghĩ có thiên đường nào khác
hay hơn, trên trái đất.
Bãi biển Côn Đảo
Chiều hôm đó chúng tôi lên
xe điện đi một vòng thành phố, bé tí, nhưng cảnh đẹp vô cùng, lô nhô đầy quần
đảo vây quanh. Nhà tù là phần chính của thành phố, cũng gần biển, bây giờ không
giam ai nữa. Nắng gió, như món quà đến từ trời thổi về an ủi những linh hồn chỉ
tìm được tự do sau khi chết.
Chúng tôi định nghỉ ngơi
hôm trước và sáng sau đến nghiã trang Hàng Dương thăm mộ Nguyễn An Ninh, nhưng
cậu guide bảo: Ấy, cô đến đây mà không đi Hàng Dương ban đêm thì kể như chưa đi
Côn Đảo. Có gì vậy em? Bí mật, cô phải đến mới biết được. Mà phải mười hai giờ
đêm mới linh. Tôi giãy nảy: cô sợ ma không đi đêm đâu và giờ ấy cô
ngủ từ khuya rồi. Cậu trẻ nhất định: Thôi cháu đến đón cô chú 9 giờ tối vậy,
sớm quá, ít người không vui. Tò mò thúc giục, tôi gật đầu.
Đúng chín giờ, xe điện đón
chúng tôi chở đến cửa nghiã trang. Chúng tôi theo chân cậu guide, một cảnh
tượng âm u hoành tráng hiện ra trước mắt: hai hàng dương liễu sừng sững trong
bóng tối chập chờn dẫn vào nghĩa địa, một điệu nhạc đông tây giao hưởng giữa
Requiem Mozart và bát âm cầu hồn, mời gọi người sống giao lưu cùng người chết.
Tôi vốn tính sợ ma từ nhỏ, bấy giờ lạnh người, nổi da gà, chân tay rã rời không
muốn bước, nhưng cũng không dám lui. Cậu guide đi trước, chúng tôi bám sát
theo, được một lúc, cậu dẫn chúng tôi rẽ sang một con đường nhỏ, còn rùng rợn
hơn: chúng tôi đi giữa hai hàng mộ, mộ áp sát chân, vừa áp đảo, vừa quyến rũ,
tôi sợ dẫm lên mả, nhạc vẫn đi theo như mời gọi, kéo mình vào sâu hơn, sâu
hơn... Tôi đi như người lên đồng, như kẻ bị ma làm, đụng một đám người đi
trước, họ vui vẻ như trẩy hội chùa Hương.
Cậu guide quyết giữ bí mật
đến phút chót, cuối cùng, một ngôi mộ rất lớn hiện ra: Mộ cô Võ Thị Sáu,
lần thứ hai tên cô trở lại, từ hôm tôi về nước. Lần này cô không bị xỉ vả là
người vô học mà cô được sùng bái như một nữ thần. Mặc dù có bảng:"Yêu
cầu quý khách không đặt đồ lễ lên mộ", vậy mà trên mộ đã bầy la
liệt: vàng hương, bánh trái, hoa quả, như một ngày lễ tập thể cúng cô hồn. Tôi
chụp vội vài cái ảnh vì trời chưa tối mịt và mới chỉ có ít người quanh mộ, họ
bận rộn sắp đồ lễ, đốt nhang; quang cảnh vừa âm u vừa lạ lùng mà thân thuộc:
trong đám đồ lễ có rất nhiều nón, chừng họ thương cô ở dưới ấy trời nắng gắt.
Mộ Cô Sáu
Người đến lễ đông dần quây
kín mộ, tôi để ý toàn tiếng Bắc, không thấy tiếng Nam. Hoá ra lễ cô hồn cũng
phân chia Nam Bắc, ai có thánh của người nấy. Tôi nhận ra phái đoàn đồng hành
trên máy bay, vẫn quần áo lộng lẫy, các bà mặc váy xoa-rê, lóng lánh kim tuyến,
riêng bà Đầm ta, vợ ông Tây ta, vận bộ váy dài trắng kết voan kiểu áo cưới
Diana. Ông Tây ta mặc cốt-tuym,
ka-vát, đầu đội nón nỉ vành cao Maurice Chevalier, rất bảnh. Nhìn thấy chúng
tôi ở đây, mắt ông thân thiện hơn nhiều, cái nhìn có vẻ bao dung, chừng như âu
yếm nữa. Nhiều người vào lễ, chen nhau khấn vái, có người khấn lâm râm, có
người khấn rất to, tuồng như sợ kẻ bên cạnh lấn lướt, khiến cô Sáu không nghe
được giọng mình. Đại khái họ cầu cô Sáu phù hộ cho họ lên quan tiến chức, cầu
cô Sáu giúp họ trúng món thầu to..., khấn xong họ hể hả đốt vàng mã như để bảo
cô: đấy nhá có tiền tiêu rồi nhá, bạc tỷ đấy chứ có ít đâu, nhớ mà phù hộ đi,
đừng có quên đấy. Đồ lễ đem theo xác định vị trí của họ ở nóc nào trên các đỉnh
đại gia. Đêm càng khuya, người đến lễ càng đông, khói nhang vàng mã ngộp thở
mặc dù trời cao đất dầy và những ngôi mộ bạt ngàn trong nghiã trang nằm im, vô
chủ, không nói, không hương, không khói, không thở.
Tôi thương cô Sáu. Tôi
cũng khấn cô, mong cô phù hộ, để có một người khôn ngoan đốt cho cô cái máy
tính, để cô thu hết những lời thành khẩn bên mộ, chia thứ tự mà thi hành theo
đúng nguyện vọng từng người, đừng bỏ quên ai, nhất là những người như ông Tây
ta cầu mà không thấy thiêng là ông đánh chết mất xác. Tôi cầu cô sống khôn chết
thiêng, cô còn trẻ quá, cô chả biết những dàn cảnh âm u, nhạc cầu hồn, chẳng
dành cho cô đâu, mà chỉ để lôi cuốn đám khách mê tín dị đoan, đi du lịch
"tâm linh", bay từ Hà Nội vào Sài Gòn rồi đổi máy bay ra Côn Đảo, ở
đúng một đêm, sáng sau lại bay về Bắc. Họ tốn bạc triệu không để viếng cô đâu
mà để cầu giầu, cầu sang, cầu thăng quan tiến chức.
Sáng hôm sau chúng tôi
quay lại Hàng Dương thăm mộ Nguyễn An Ninh. Nghiã trang hiện ra trong ánh sáng
thanh thiên bạch nhật, đẹp hùng vĩ, xứng đáng là nơi an nghỉ của hàng ngàn
người tù đã ngã xuống, trải bao thế hệ. Cảm ơn ban quản lý Côn Đảo đã xây dựng
nghiã trang này. Mộ Nguyễn An Ninh nằm sâu trong nghiã địa, ông mất đã hơn bẩy
mươi năm, nhưng vẫn trẻ như ngày nào; muôn đời vẫn giữ địa vị lãnh đạo thanh
niên qua những tác phẩm, diễn ngôn ông để lại. Tôi thích ông vì ông là nhà cách
mạng trẻ, chịu chơi nhất, để tóc dài từ năm 1920. Đẹp trai, sang Pháp làm
tốp-mô-đen kiếm tiến để học và hoạt động chống Pháp. Cuối tuần ra rừng
Boulogne, rượt đọc đít-cua tiếng Tây cho hùng hồn vì ông nói lắp từ nhỏ. Ông
còn biết tạo kiểu mẫu áo nữa: Loại cổ cao, ông thiết kế từ năm 1920, không biết
năm nào thì bị Mao cóp.
Nhà tù Côn Đảo
Cái tôi sợ nhất là Tây nó
cười. Vì tôi cũng hay đì Tây: thằng con rể và thằng cháu ngoại, một thằng Tây
thiệt, một thằng Tây lai, chúng đều cao gần hai mét, mỗi lần nói chuyện với tôi
chúng phải gập đôi người lại như người Nhật. Với thằng Tây thật, tôi bảo: tổ
tiên chúng bay sang nước tao làm bậy, đã chiếm nước người ta rồi còn biạ, vừa
đánh trống vừa ăn cướp, bảo là để giáo hoá. Tao xem ra tổ chúng mày chỉ có vài
công nhỏ, trong đó việc xây trường Mỹ Thuật Đông Dương là được, còn tất cả chả
ra gì, không có chúng mày nước tao cũng làm được. Thằng con rể mắt xanh mặt
nghệt ra. Còn mấy đứa cháu Tây lai, thì không biết tôi nói gì mà có đứa, bố là
Tây thật, mà bốn tuổi đi học mẫu giáo, nhất định nó chỉ viết tên ta. Bà nội và
cô giáo gọi nó tên Tây, nó lờ đi như gọi ai, không phải nó.
Trại Phú Hải
Tôi sợ Tây nó cười là như
vầy: Tôi sẽ không bao giờ dẫn chúng đến Côn Đảo, vì có hai chi tiết nhỏ, nếu
chúng biết chúng cười không phục người mình nữa: Tiểu sử cô Sáu, trong bảo
tàng, bên tượng cô, người ta ghi cô bị bắt lúc 14 tuổi, rồi bị đầy đi Côn Đảo.
Sau Cô Sáu bị Tây xử tử, ở tuổi 16, 17 gì đó và trước khi chết cô còn hô to câu
gì như Việt Nam muôn năm kiểu Nguyễn Thái Học. Đọc đến đây, tôi khựng lại: Tây
nó làm gì bậy thì mình không biết, chứ luật pháp của nó nghiêm minh lắm: Con
nít vị thành niên là không đi tù, càng không bị xử tử. Hồi Nguyễn An Ninh còn
học trung học, chuyên môn đánh Tây, mà có bị bắt bớ gì đâu, bắt về bót rồi nó
thả ngay, và cậu công tử Hốc Môn ta ra khỏi bót lại đi đánh Tây tiếp. Vậy nên
nếu tôi đưa cả thằng Tây thiệt và thằng Tây lai của tôi đến đây, chúng đọc được
cái tiểu sử của cô Sáu thì chúng cười chết.
Nghĩa trang Hàng Dương
Lại thêm một chuyện này
nữa, tôi có trong tay một tài liệu quan trọng là lá thư của viên bác sĩ Pháp
phụ trách trại giam nơi Nguyễn An Ninh ở (là trại Phú Sơn, trại này lúc tôi đến
thăm đang đóng cửa trùng tu) gửi cho Toàn quyền Pháp ở Sài Gòn yêu cầu chuyển
ngay Nguyễn An Ninh về Khám lớn để điều trị vì ông bị bệnh phù thũng trầm
trọng. Nhưng khi thư đến phủ Toàn quyền thì Pháp đã bị Nhật đảo chính, không
còn quyền hành gì nữa, do đó lá thư không ai trả lời, và Nguyễn An Ninh đã chết
oan vì hoàn cảnh chiến tranh, không phải vì thực dân tàn ác, bỏ đói khát, bệnh
tật, như ta thường viết ở khắp nơi. Nguyễn An Ninh khi ở tù khám lớn, được Tây
một điều Monsieur hai điều Monsieur tức
là Thưa ông theo lời Phan Văn Hùm kể. Và ở Côn Đảo ông có
phòng riêng trong trại Phú Sơn vừa xây xong.
Hồ Hàng Dương
Chưa kể tôi còn nắm thêm
tài liệu tốt, từ người thân của ông: Tụi Nhật cũng muốn cứu Nguyễn An Ninh, nó
sai người đến mời bà Ninh đi Côn Đảo cùng với nó để khuyên ông về lại đất liền,
nhưng bà Ninh không đi (sau này người ta viết rằng vì bà cực lực chống Nhật).
Tôi thì tôi không tin lắm vì tôi chắc lúc đó bà chưa có lập trường chính trị rõ
ràng, và cũng đã nhiều năm bà không liên lạc với chồng nữa, vậy nếu bà có lập
trường thì chắc là về tình cảm.
Mộ Nguyễn An Ninh
Tôi đến Bảo tàng Côn Đảo
để hỏi xem họ còn giữ di tích tài liệu gì về Nguyễn An Ninh không, cho cuốn
sách sẽ viết. Ví dụ những trang Nguyễn An Ninh viết trước khi chết, gửi lại cho
các con như chúc thư tư tưởng, theo lời Hồ Hữu Tường kể lại. Nhưng đã không tìm
được gì. Một người nhiều tuổi, khẽ bảo tôi: Còn gì đâu cô, hồi giải phóng,
người ta đốt ba ngày không hết tài liệu. Tôi ngỡ ngàng buồn bã: Tại sao đốt tài
liệu Côn Đảo, nếu đốt hết thì còn gì để chứng minh tội ác Thực Dân-Mỹ Ngụy,
ngoài những hoạt cảnh tân tạo, bằng thạch cao mới nặn, bầy trong tủ kính? Bây
giờ nước ta nhiều khách du lịch lắm rồi, và Tây đi du lịch là nó hay tìm những
di tích lịch sử có liên can đến nó. Mình làm ăn không cẩn thận, Tây nó cười
cho.
Còn một chuyện này nữa:
đây là chuyện trong nhà: chuyện bà Phi Yến nhiều nơi truyền tụng. Bà Phi Yến
được thờ ở An Sơn Miếu, một địa điểm du lịch quan trọng khác của Côn Đảo. Theo
chính sử, tháng 7/1783, Nguyễn Ánh đóng quân ở Phú Quốc. Quân Tây Sơn do Phan
Tiến Thuận chỉ huy tiến đánh. Lê Phước Điển liều mình cứu vua, quần thần và
hoàng tộc nhiều người bị hại, Nguyễn Ánh chạy thoát ra phiá Côn Lôn (Côn Đảo).
Tháng 8/1783, Nguyễn Huệ
lại sai phò mã Trương Văn Đa vây vùng Côn Lôn, nhờ bão thuyền Tây Sơn bị đắm,
Nguyễn Ánh vượt vòng vây, đến đảo Cổ Cốt, rồi quay về Phú Quốc. Nghe tin Bá Đa
Lộc ở Chân Bôn, Ánh sai người đến vời, trao quốc ấn cho Bá Đa Lộc đem hoàng
tử Cảnh đi trốn.
Và đây là tóm tắt chuyện
bà Phi Yến, ghi trên tấm bia đặt ngoài cửa An Sơn Miếu ở Côn Đảo: Bà Phi Yến
tên thật là Lê Thị Răm, là thứ phi của Nguyễn Ánh. Năm 1783, Nguyễn Ánh chạy ra
Côn Đảo, có ý định giao hoàng tử Cải, con bà Phi Yến, cho Bá Đa Lộc
đưa sang Pháp làm con tin, bà khuyên Ánh không nên cầu cứu ngoại bang. Ánh bắt
giam bà trong một cái hang ở đảo xa và đem hoàng tử Cải xuống thuyền chạy Tây
Sơn, nhưng cậu bé khóc lóc đòi mẹ, bị Ánh ném xuống biển... Còn bà Phi Yến được
hai thần vật là Vượn Bạch và Hắc Hổ cứu sống,
sau bà lại bị một tên vô lại định cưỡng bách, bà nhẩy xuống biển để giữ tròn
trinh tiết.
Chuyện Nguyễn Ánh gửi
hoàng tử Cải cho Bá Đa Lộc xẩy ra cùng năm (1783) với chuyện
Nguyễn Ánh gửi Hoàng tử Cảnh cho Bá Đa Lộc đem đi trốn. Vậy là
năm 1783, Ánh gửi tới 2 con, 2 lần, cho Bá Đa Lộc?
Năm 1783, Ánh 21 tuổi. Vợ
chính thức là Thừa Thiên Cao Hoàng Hậu, con gái quan Thái bảo Tống Phước
Khuông, cưới năm Mậu Tuất (1778, lúc 16 tuổi) sinh hai con trai: Chiêu, chết
sớm, và Cảnh sinh năm 1780. Từ năm 1780 trở đi, Ánh gặp toàn hoạn nạn, một mặt
Tây Sơn tấn công không ngừng vì Nguyễn Huệ muốn tiêu diệt hết họ Nguyễn. Một
mặt, gia đình Mạc Thiên Tứ (con trai Mạc Cửu), tuyệt đối trung thành, bị vua
Xiêm nghi ngờ, giết hết cả thẩy 53 người. Chính Nguyễn Ánh phải giết Đỗ Thanh
Nhơn, đệ nhất danh tướng, vì tội chuyên quyền. Quân Đông Sơn (thuộc hạ của Đỗ
Thanh Nhơn) nổi loạn ở Ba Giồng. Mạn Hoè người Tây theo Nguyễn Ánh bị Nguyễn
Huệ đốt cùng với tầu, chết cháy. Ánh và gia quyến chạy về Phú Quốc. Tháng
7/1783, Phan Tiến Thuận tiến đánh, Lê Phước Điển phải mặc áo bào theo Lê Lai
liều mình cứu chúa. Anh em họ hàng Nguyễn Ánh bị giết cả. Ánh trốn thoát ra
phiá Côn Lôn. Nguyễn Huệ lại sai phò mã Trương Văn Đa vây Côn Lôn, Ánh chạy
vòng vo một hồi ở Côn Lôn rồi quay trở về Phú Quốc, hay tin Bá Đa Lộc đang ở Chân
Bôn (Chantabun, Xiêm), bèn cho người vời Bá Đa Lộc về và trao hoàng Tử Cảnh cho
Bá Đa Lộc đem đi trốn. Lúc đó chưa có ý định cầu viện Tây phương, Ánh chỉ sợ cả
nhà bị bắt, địch giết mất con thì sẽ bị tuyệt tự. Phải hai năm sau, đến tháng
2/1785, sau khi Nguyễn Huệ phá tan quân Xiêm ở trận Rạch Gầm Xoài Mút, thế cùng
cực, Nguyễn Ánh mới giục Bá Đa Lộc đem Hoàng tử Cảnh sang Pháp.
Liệt truyện ghi rõ tên các
bà hoàng, bà phi và các con của vua: Thừa Thiên Cao Hoàng Hậu, có 2 con, Chiêu,
chết sớm và Cảnh, sinh năm 1780. Hy, hoàng tử thứ hai, không biết tên mẹ. Tuấn,
thứ ba, mất sớm, tên mẹ là Chiêu Dương. Minh Mạng, tức Đởm, thứ tư, mẹ là Thuận
Thiên Cao Hoàng Hậu con gái Thọ Quốc Công Trần Hưng Đạt, v.v...
Không thấy ghi tên bà Phi
Yến và hoàng tử Cải ở đâu, đã đành, bởi vì nếu Nguyễn Ánh "giết cả hai mẹ
con", thì khỏi nói rồi. Nhưng tôi không tin Ánh có "thì giờ" làm
chuyện đó.
Từ lúc lên ngôi Vương, Ánh
chạy Huệ suốt. Không thấy chỗ nào nói Ánh ra Côn Lôn nghỉ mát để lập phòng nhì.
Đến lúc chạy ra Côn Lôn năm 1783, cũng không chắc Ánh có ghé vào đảo. Chưa có
tài liệu nào chứng minh việc này. Mà nếu Ánh có ra Côn Lôn để cứu con rơi đi
nữa, thì chắc cũng phải có vú nuôi hoàng tử, chứ đâu đến lượt vua phải tã lót,
ru dỗ không nổi thằng bé, khiến nó khóc toáng lên, phải vứt nó xuống biển! Chưa
kể bà Phi Yến vì khuyên Nguyễn Ánh đừng cầu viện Pháp mà bị
Ánh giam trong hang tối. Lúc đó Ánh đã tính chuyện cầu viện gì đâu? Rồi bà Phi
Yến lại được khỉ trắng và hổ đen cứu. Rồi bà
lại xém bị tên vô lại hiếp. Rồi bà lại dại dột nhẩy xuống biển tự tử, thành ra
ta không thể biết dấu tích bà đâu mà điều tra.
Người nào bịa chuyện này
thực có óc tưởng tượng phong phú và chắc chắn phải ghét Gia Long và nhà Nguyễn
lắm. Ghét đến độ nào? Từ lâu người ta đã lưu truyền câu Gia Long cõng
rắn cắn gà nhà. Vậy câu chuyện này chỉ để biện minh cho giả thuyết vua Gia
Long "bán nước".
An Sơn Miếu
Tôi đọc đi đọc lại tấm bia
sừng sững trước cổng Miếu, không tin được mắt mình: Một chuyện phong thần như
vậy, kể lăng nhăng trên Youtube thì còn hiểu được. Vào Internet, bạn có thể
thấy không chỉ một cô Răm mà còn cả mấy cô nữa, ở chỗ nọ, chỗ kia, khi vua chạy
giặc, đã liều mình đem về nhà cho ăn cho uống, rồi
còn liều thân hiến vua, vậy mà sau này vua vô ơn không thèm
nhòm ngó. Nhưng chuyện cô Răm, được dựng thành bia, thành miếu thờ, thì có chỗ
đáng ngại hơn.
Ghét vua Gia Long đến như
bọn Bissachère, Sainte-Croix ngày trước cũng không dám bịa chuyện Gia Long giết
con, giam mẹ. Vậy sao tại chính đất Việt Nam, ở Côn Đảo này, hiện nay, vẫn còn
tồn tại việc thờ bà thánh Phi Yến, cả mẹ lẫn con bị giết (một cách man rợ) bởi bàn tay vị vua xây
dựng triều Nguyễn, mà ban Quản Lý Di Tích Côn Đảo, khi ký tên dưới những dòng
chữ này, lại không nghi ngờ gì cả.
Côn Đảo có phong cảnh, khí
hậu, hải sản, tuyệt vời.
Côn Đảo đã được các chúa
ghi nhận là nơi bọn Tây dương thèm nhỏ rãi.
Vậy đâu cần huyền thoại,
Côn Đảo vẫn là khoảng đất trời thần tiên của nước Việt ta.
Paris tháng 5/2019