Thứ Hai, 10 tháng 2, 2025

172 . TRẦN NHO BỤI Chân Dung Văn Học Trần Hoài Thư

                                                                                        


TRẦN HOÀI THƯ

Trần Hoài Thư tên thật là Trần Quí Sách sinh năm 1942 tại Đà-Lạt. Thuở nhỏ thất lạc cha theo mẹ sống cực khổ ở Nha-Trang, bán hàng rong và phải đi bộ 20 cây số mỗi ngày đến trường, có thời gian ở trong cô nhi viện Bethlehem. Sau đoàn tụ với cha mới theo học Quốc Học Huế, đại học Khoa Học Sài-Gòn.

Năm 1964-1966 là giáo sư trường Trung Học Trần Cao Vân tỉnh Quảng Tín.

Năm 1967 nhập ngũ Khóa 24 SQTB Thủ Đức. Cựu trung đội trưởng thám kích đại đội 405 TK Sư Đoàn 22 BB. Sau đó về làm phóng viên chiến trường ở vùng IV.

Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 đi tù hơn 4 năm.

Năm 1980 vượt biển định cư tại Hoa Kỳ sống nhiều nơi khác nhau, cuối cùng về sống tại New Jersey.

Đi học lại tốt nghiệp Cử Nhân Điện Toán và Cao Học Toán Ứng Dụng.

Từ năm 1964 cộng tác Bách Khoa, Văn, Văn Học, Đời, Thời Tập, Vấn Đề, Khởi Hành, Ý Thức...

Năm 2004 về hưu cùng Phạm Văn Nhàn sáng lập tạp chí Thư Quán Bản và nhà xuất bản Thư Ấn Quán. Ông sưu tầm và xuất bản Thơ Miền Nam(5 tập) dầy 3500 trang. Văn Miền Nam(4 tập) dầy 2400 trang.

Ông qua đời ngày 27/5/2024 tại Plainfieid, New Jersey.

Tác phẩm xuất bản trước năm 1975:

-Nỗi bơ vơ của bầy ngựa hoang.

-Những vì sao vĩnh biệt.

-Ngọn cỏ ngậm ngùi.

-Một nơi nào để nhớ.

Xuất bản sau năm 1975:

-Ra biển gọi thầm (tập truyện).

-Ban Mê Thuột ngày đầu ngày cuối (tập truyện).

-Về hướng mặt trời lặn (tập truyện).

-Mặc niệm chiến tranh (tập truyện).

-Đại đội cũ, trang sách cũ (tập truyện).

-Thế hệ chiến tranh (tập truyện).

-Thủ Đức gọi ta về (tạp bút).

-Đánh giặc ở Bình Định (tự truyện).

-Hành trình của một cổ trắng (truyện vừa).

-Ở một nơi trên Trường Sơn (tập truyện).

-Truyện từ Bách Khoa (tập truyện)

-Truyện từ Văn (tập truyện).

-Truyện từ Trình Bày, Văn Học, Khởi Hành...(tập truyện).

-Tản mạn văn chương (tập 2).

-Giấc mơ Giáng Sinh (tập truyện).

THƠ.

-Thơ Trần Hoài Thư.

-Ngày vàng.

-Nhủ đời bao dung.

-Ô cửa.

-Xa xứ.

-Quán.

-Vịnh vào lục bát.

-Khi nhớ về Bà Gi.

-Thơ tình 80.

-Phao.

TRUNG ĐỘI

Băng đồng, băng đồng, đêm hành quân

Người đi ngoi ngóp, nước mênh mông

Về đây Bình Định ma thiêng lãnh,

Mỗi địa danh rờn rợn oan hồn

Trung đội những thằng trai tứ chiếng

Những thằng bỏ lại tuổi thanh xuân

Diều hâu bôi mặt hù ma quỷ

Thuở đất trời bày đặt nhiễu nhương

Đêm của âm binh về xứ khổ

Poncho phơ phất gió hồn oan

Trên vai cấp số hai lần đạn

Không một vì sao để chỉ đường

Mưa lạnh thèm tu hơi rượu đế

Để quên tim nhảy nhịp lo âu

Giơ tay vuốt mặt lau tròng kính

Giờ G, giờ G sao quá lâu

Thì đi, đột kích trong lòng địch

Chụm tiếp nồi cơm hộ Bắc quân

Cơm nóng thầy trò ăn đỡ đói

Ha hả cười, cơm của nhân dân

Trung đội cả tuần đêm không ngủ

Lương khô đã hết, chờ trực thăng

Hành quân một tháng trên An Lão

Một tháng trời mưa thúi chiến trường

Pháo chụp người gào khan cả họng

Máy sôi tắt nghẹn chờ phi tuần

Miểng thép đâm xiên, thằng bạn gục

Hỏa châu vàng thoi thóp triền sơn

Địch vây xiết chặt bộ tiền phương

Quân băng đường máu về Bồng Sơn

Qua kênh, sương muối mờ tre bụi

Thánh giá chơ vơ nóc giáo đường

Nước nguồn đổ xuống ngày binh lửa

Những xác nào đã thúi hôm qua

Ai bạn ai thù sao quá thảm

Trên một dòng cuồn cuộn oan gia

Con sông chia cắt bờ bi hận

Cột khói còn lưu luyến chiến trường

Có ai chạy loạn bơi xuồng kể

Một thước đi, xác ngập thước đường

Cây cầu sắt bắt qua tử địa

Bên kia sông ta chiếm rừng dừa

Đêm bỗng nghe quạ bầy động ổ

Gọi ran trời kinh động sao khuya

Lũ quạ trốn đi từ dạo ấy

Để giờ đây kêu động rừng phong

Quạ gọi bầy tháng năm tháng bảy

Sao ta gọi bầy thăm thẳm mù tăm

Trung đội ta những thằng giữ đất

Từ Qui Nhơn, Phù Cát, Phù Ly

Ra Tam Quan qua rừng An Lão

Từ Kỳ Sơn, Phước Lý An Khê

Đồng đội ta những người đã chết

Những Vọng, Nga, Nai, Bình Lò Heo

Những Chấn, Hảo,Sơn, Tài Xóc Dĩa

Đàn diều hâu thảm thiết khóc òa

Lịch sử cũng vô tình thế đó

Người qua sông không nhớ con đò

Những người chết không còn nhắm mắt

Người sống giờ như những hồn ma.

KỲ SƠN

Kỳ Sơn đồi trọc chim không đậu

Đại đội đi, một nửa không về

Lớp lớp người nhào lên ngã gục

Đạn sủi bờ sủi đá, u mê

Kỳ Sơn cao độ hai trăm thước

Đêm hoảng kinh, đỏ huyết vầng trăng

Những xác hôm qua, vàng rám mỡ

Những anh hùng, ngụy tặc, nằm chung

Kỳ Sơn ơi Kỳ Sơn Kỳ Sơn

Người chưa về tóc mẹ bạc như sương

Ngày sau ai nhớ cho dòng lệ

Kỳ Sơn ơi, Kỳ Sơn Kỳ Sơn...

THẾ HỆ CHIẾN TRANH

Thế hệ chúng tôi đã mang đầy vết sẹo

Vết sẹo ngoài thân và vết sẹo trong hồn

Không phạm tội mà ra tòa chung thẩm

Nhận án tử hình ở tuổi thanh xuân

Thế hệ chúng tôi loài ngựa thồ bị xích

Hai mắt buồn che bởi tấm da trâu

Quá khứ tương lai, chuỗi ngày vô vọng

Chúng tôi xõa bờm, không biết về đâu

Thế hệ chúng tôi già như quả đất

Trán hằn lên những câu hỏi hoang mang

Ngoài phẫn nộ, trong chán chường ẩn khuất

Như những nỗi buồn thế hệ chiến tranh.

SI DẠI

Cô hàng cho xin ly cà phê nhỏ

Tôi uống cho đầy đôi mắt trong

Một mai tôi chết bên trời Bắc

Em làm sao được khóc bên song

Tôi mang gió núi miền Trung lại

Em sưởi dùm tôi một mảnh tình

Đôi khi thấy áo bay đầy phố

Ngỡ hồn mình hiu hắt mùa thu

Tôi trót sinh làm tên du thủ

Ai mang tôi một chút hơi hườm

Chưa ba mươi sao già quá đỗi

Nửa đời người hay một trăm năm

Ừ nhỉ hình như trời đang sương

Người bỏ tôi đi vào đêm không trăng

Đêm quá tối, người làm sao thấy

Những nỗi buồn chất ngất Trường Sơn.

(Bình Định 9/1969).

TRẦN HOÀI THƯ.