TRẦN
HOÀI THƯ
Trần
Hoài Thư tên thật là Trần Quí Sách sinh năm 1942 tại Đà-Lạt. Thuở
nhỏ thất lạc cha theo mẹ sống cực khổ ở Nha-Trang, bán hàng rong và
phải đi bộ 20 cây số mỗi ngày đến trường, có thời gian ở trong cô nhi
viện Bethlehem. Sau đoàn tụ với cha mới theo học Quốc Học Huế, đại
học Khoa Học Sài-Gòn.
Năm
1964-1966 là giáo sư trường Trung Học Trần Cao Vân tỉnh Quảng Tín.
Năm
1967 nhập ngũ Khóa 24 SQTB Thủ Đức. Cựu trung đội trưởng thám kích
đại đội 405 TK Sư Đoàn 22 BB. Sau đó về làm phóng viên chiến trường ở
vùng IV.
Sau
ngày 30 tháng 4 năm 1975 đi tù hơn 4 năm.
Năm
1980 vượt biển định cư tại Hoa Kỳ sống nhiều nơi khác nhau, cuối cùng
về sống tại New Jersey.
Đi
học lại tốt nghiệp Cử Nhân Điện Toán và Cao Học Toán Ứng Dụng.
Từ
năm 1964 cộng tác Bách Khoa, Văn, Văn Học, Đời, Thời Tập, Vấn Đề,
Khởi Hành, Ý Thức...
Năm
2004 về hưu cùng Phạm Văn Nhàn sáng lập tạp chí Thư Quán Bản và nhà
xuất bản Thư Ấn Quán. Ông sưu tầm và xuất bản Thơ Miền Nam(5 tập)
dầy 3500 trang. Văn Miền Nam(4 tập) dầy 2400 trang.
Ông
qua đời ngày 27/5/2024 tại Plainfieid, New Jersey.
Tác
phẩm xuất bản trước năm 1975:
-Nỗi
bơ vơ của bầy ngựa hoang.
-Những
vì sao vĩnh biệt.
-Ngọn
cỏ ngậm ngùi.
-Một
nơi nào để nhớ.
Xuất
bản sau năm 1975:
-Ra
biển gọi thầm (tập truyện).
-Ban
Mê Thuột ngày đầu ngày cuối (tập truyện).
-Về
hướng mặt trời lặn (tập truyện).
-Mặc
niệm chiến tranh (tập truyện).
-Đại
đội cũ, trang sách cũ (tập truyện).
-Thế
hệ chiến tranh (tập truyện).
-Thủ
Đức gọi ta về (tạp bút).
-Đánh
giặc ở Bình Định (tự truyện).
-Hành
trình của một cổ trắng (truyện vừa).
-Ở
một nơi trên Trường Sơn (tập truyện).
-Truyện
từ Bách Khoa (tập truyện)
-Truyện
từ Văn (tập truyện).
-Truyện
từ Trình Bày, Văn Học, Khởi Hành...(tập truyện).
-Tản
mạn văn chương (tập 2).
-Giấc
mơ Giáng Sinh (tập truyện).
THƠ.
-Thơ
Trần Hoài Thư.
-Ngày
vàng.
-Nhủ
đời bao dung.
-Ô
cửa.
-Xa
xứ.
-Quán.
-Vịnh
vào lục bát.
-Khi
nhớ về Bà Gi.
-Thơ
tình 80.
-Phao.
TRUNG
ĐỘI
Băng
đồng, băng đồng, đêm hành quân
Người
đi ngoi ngóp, nước mênh mông
Về
đây Bình Định ma thiêng lãnh,
Mỗi
địa danh rờn rợn oan hồn
Trung
đội những thằng trai tứ chiếng
Những
thằng bỏ lại tuổi thanh xuân
Diều
hâu bôi mặt hù ma quỷ
Thuở
đất trời bày đặt nhiễu nhương
Đêm
của âm binh về xứ khổ
Poncho
phơ phất gió hồn oan
Trên
vai cấp số hai lần đạn
Không
một vì sao để chỉ đường
Mưa
lạnh thèm tu hơi rượu đế
Để
quên tim nhảy nhịp lo âu
Giơ
tay vuốt mặt lau tròng kính
Giờ
G, giờ G sao quá lâu
Thì
đi, đột kích trong lòng địch
Chụm
tiếp nồi cơm hộ Bắc quân
Cơm
nóng thầy trò ăn đỡ đói
Ha
hả cười, cơm của nhân dân
Trung
đội cả tuần đêm không ngủ
Lương
khô đã hết, chờ trực thăng
Hành
quân một tháng trên An Lão
Một
tháng trời mưa thúi chiến trường
Pháo
chụp người gào khan cả họng
Máy
sôi tắt nghẹn chờ phi tuần
Miểng
thép đâm xiên, thằng bạn gục
Hỏa
châu vàng thoi thóp triền sơn
Địch
vây xiết chặt bộ tiền phương
Quân
băng đường máu về Bồng Sơn
Qua
kênh, sương muối mờ tre bụi
Thánh
giá chơ vơ nóc giáo đường
Nước
nguồn đổ xuống ngày binh lửa
Những
xác nào đã thúi hôm qua
Ai
bạn ai thù sao quá thảm
Trên
một dòng cuồn cuộn oan gia
Con
sông chia cắt bờ bi hận
Cột
khói còn lưu luyến chiến trường
Có
ai chạy loạn bơi xuồng kể
Một
thước đi, xác ngập thước đường
Cây
cầu sắt bắt qua tử địa
Bên
kia sông ta chiếm rừng dừa
Đêm
bỗng nghe quạ bầy động ổ
Gọi
ran trời kinh động sao khuya
Lũ
quạ trốn đi từ dạo ấy
Để
giờ đây kêu động rừng phong
Quạ
gọi bầy tháng năm tháng bảy
Sao
ta gọi bầy thăm thẳm mù tăm
Trung
đội ta những thằng giữ đất
Từ
Qui Nhơn, Phù Cát, Phù Ly
Ra
Tam Quan qua rừng An Lão
Từ
Kỳ Sơn, Phước Lý An Khê
Đồng
đội ta những người đã chết
Những
Vọng, Nga, Nai, Bình Lò Heo
Những
Chấn, Hảo,Sơn, Tài Xóc Dĩa
Đàn
diều hâu thảm thiết khóc òa
Lịch
sử cũng vô tình thế đó
Người
qua sông không nhớ con đò
Những
người chết không còn nhắm mắt
Người
sống giờ như những hồn ma.
KỲ
SƠN
Kỳ
Sơn đồi trọc chim không đậu
Đại
đội đi, một nửa không về
Lớp
lớp người nhào lên ngã gục
Đạn
sủi bờ sủi đá, u mê
Kỳ
Sơn cao độ hai trăm thước
Đêm
hoảng kinh, đỏ huyết vầng trăng
Những
xác hôm qua, vàng rám mỡ
Những
anh hùng, ngụy tặc, nằm chung
Kỳ
Sơn ơi Kỳ Sơn Kỳ Sơn
Người
chưa về tóc mẹ bạc như sương
Ngày
sau ai nhớ cho dòng lệ
Kỳ
Sơn ơi, Kỳ Sơn Kỳ Sơn...
THẾ
HỆ CHIẾN TRANH
Thế
hệ chúng tôi đã mang đầy vết sẹo
Vết
sẹo ngoài thân và vết sẹo trong hồn
Không
phạm tội mà ra tòa chung thẩm
Nhận
án tử hình ở tuổi thanh xuân
Thế
hệ chúng tôi loài ngựa thồ bị xích
Hai
mắt buồn che bởi tấm da trâu
Quá
khứ tương lai, chuỗi ngày vô vọng
Chúng
tôi xõa bờm, không biết về đâu
Thế
hệ chúng tôi già như quả đất
Trán
hằn lên những câu hỏi hoang mang
Ngoài
phẫn nộ, trong chán chường ẩn khuất
Như
những nỗi buồn thế hệ chiến tranh.
SI
DẠI
Cô
hàng cho xin ly cà phê nhỏ
Tôi
uống cho đầy đôi mắt trong
Một
mai tôi chết bên trời Bắc
Em
làm sao được khóc bên song
Tôi
mang gió núi miền Trung lại
Em
sưởi dùm tôi một mảnh tình
Đôi
khi thấy áo bay đầy phố
Ngỡ
hồn mình hiu hắt mùa thu
Tôi
trót sinh làm tên du thủ
Ai
mang tôi một chút hơi hườm
Chưa
ba mươi sao già quá đỗi
Nửa
đời người hay một trăm năm
Ừ
nhỉ hình như trời đang sương
Người
bỏ tôi đi vào đêm không trăng
Đêm
quá tối, người làm sao thấy
Những
nỗi buồn chất ngất Trường Sơn.
(Bình
Định 9/1969).
TRẦN
HOÀI THƯ.