Thứ Sáu, 14 tháng 2, 2025

197 HOÀNG KIM OANH: Nguyễn Minh Nữu: Thương lắm đó khoảng trời xanh bất biến...

                                                                                


 

Ngày phôi thai trên nôi

tiếng khóc chưa quen nụ cười

chọn sóng cuốn xa khơi

cho vừa đất nước buồn vui

 

Chìm tương lai muôn nơi

trốn lánh rong chơi tình đời

chọn kiếp sống trôi mau

như giòng nước lũ chưa thôi

(Lá xanh đời)

 

Bài thơ đầu tiên của Nguyễn Minh Nữu được Nguyễn Quyết Thắng phổ nhạc chính là bài thơ ngũ ngôn, Lá xanh đời gồm sáu khổ mà tôi trích hai khổ đầu trên đây. Đó cũng là lần gặp gỡ đầu tiên của họ, năm 1971 khi cả hai vừa 21 tuổi. Lúc đó, Nguyễn Quyết Thắng vừa rời cuộc chiến, là một thương binh cũng là một huynh trưởng Du Ca say mê hát Du Ca và viết nhạc Du Ca. Nguyễn Minh Nữu còn nhớ: “Ca khúc nổi tiếng của Nguyễn Quyết Thắng là bài Vắt Tay Lên Trán qua tiếng hát Thái Hiền (lúc đó 15 tuổi, con gái nhạc sĩ Phạm Duy), nhạc chính trong phim Trường Tôi, nghĩa là những ca khúc về Quê Hương, Tình Yêu và Thân Phận. Nhưng chàng hầu như chỉ chuyên viết nhạc về Quê Hương. Khi gặp Khánh và đọc thơ Khánh, Thắng thỏa thuê với cái lãng mạn của Tình Yêu, và khi gặp Nữu, Thắng hài lòng và thú vị về một cái khác, đó là Thân Phận Con Người. Và những ngày Ban Mê, cứ như thế, Thắng viết nhạc, âm hưởng nào có vẻ lãng mạn thì đưa Khánh viết lời, bản nào u uất, hơi buồn thì đưa Nữu viết lời. Nữu Khánh đều có thơ Thắng phổ nhạc, có lời viết trên nền nhạc của Thắng, nhưng là hai hơi thở khác nhau từ một Nhạc Sĩ Du Ca muốn viết về cả Quê Hương, Tình Yêu và Thân Phận.

Quả là một mối thâm tình tương giao tưởng cũng đã có thể gọi là tri kỷ…

Hiểu nhau đến vậy. Bổ sung hoà quyện cho nhau như vậy. Thật khó có những tương ngộ nào đẹp được như mối duyên tình thơ-nhạc của cặp ba này.

 

Nửa thế kỷ đã trôi qua, vậy mà sao khi nghe lại ca khúc Lá xanh đời qua giọng hát của ca sĩ Ngọc Thanh, tôi vẫn cứ rưng rưng… Thân phận tuổi trẻ Nguyễn Minh Nữu, thân phận tuổi trẻ của chúng tôi trong hoàn cảnh “đất nước buồn vui” sao thật bi đát, thê lương: “Chìm tương lai muôn nơi” và chỉ đành “chọn sóng cuốn xa khơi/cho vừa đất nước buồn vui”. Ta chỉ có/chỉ là “bóng tối che muôn đời”, hay rục rữa: ‘trái chín trên cây tàn”, chỉ còn những “tàn nước mắt tinh khôi”, những “muộn phiền đen dáng đời”… Có tìm yêu thương hay một dấu yêu nào đó cho trái tim thanh xuân tràn nhựa sống thì chỉ đành gửi vu vơ vào mây, tiếc nuối cho trăng mà mây thì “quên đường về”, trăng thì “còn say những tỉnh mê”… Tuổi trẻ bơ vơ trong nỗi cô đơn của chính mình, hoài kiếm tìm một lẽ sống yêu thương thì chỉ còn “bọt sóng hư vô”… Phải chăng vết thương chiến tranh trên quê hương đất nước đã trở thành vết hằn vô thức tập thể mà hễ chạm vào là nhức nhối tâm can…


 

Ngoài ca khúc đầu tiên mang nặng nỗi niềm thân phận ấy, trong Chút tình đọng lại những ca khúc viết về tình yêu qua thơ Nguyễn Minh Nữu còn mang một sắc thái mộng mơ của những khát khao rất trẻ gửi gấm trong tình yêu, những thiết tha trong tình bằng hữu và một chút nuối tiếc ngậm ngùi khi tình xa tình lỡ. Không phải những âm điệu rộn ràng hồn nhiên như các tình khúc Nguyễn Quyết Thắng phổ thơ Đoàn Văn Khánh. Không có hẹn hò say đắm nồng nàn mà chỉ là những suy nghĩ về tình yêu và vẻ đẹp của tình yêu trong suy tưởng của nhà thơ.

 

Có thể thấy rõ điều đó trong Hát cho những kẻ yêu nhau là bài được viết cho đôi song ca nam nữ như một sự bày tỏ, thăm dò, thổ lộ tâm tình. Người nam và người nữ khi yêu nhau sẽ nghĩ gì? Ước ao gì? Tình yêu của họ bắt đấu từ đâu? Hình như… hình như… Tình yêu là điều gì lãng đãng mơ hồ không biết đến từ đâu, từ bao giờ mà chính người trong cuộc cũng không thể nhận ra. “Hình như” với anh là “giữa trời mưa giông” ào ạt mạnh mẽ. “Hình như” với em là “giữa trời mưa sương” tinh tế dịu dàng thấm đẫm. Chỉ “hình như” thôi… Những tín hiệu ngôn ngữ lặp đi lặp lại thật ấn tượng qua hình ảnh mưa (4 lần), và sương (2 lần) khiến người đọc không khỏi liên tưởng đến biểu tượng văn hoá nhiều ý nghĩa. Theo Jean Chevalier và Alain Gheerbranta trong Từ điển Biểu tượng văn hoá thế giới, mưa từ trời rơi xuống làm cho đất sinh sôi, nảy nở, phong nhiêu. Mưa có tính âm và Sương có tính dương đều là ơn của thần linh, là biểu hiện phước lành trời ban, biểu hiện sự hoà hợp hài hoà cả vật chất lẫn tình thần. Trong nhiều thần thoại hy Lạp, mưa và sương đều mang ý nghĩa phồn thực là hiện thân của các nam thần và nữ thần tình yêu Dionysos và Aphrodite. Chọn hai biểu tượng này, vô tình hay hữu ý, tôi cho rằng nhà thơ đã chắt lọc được nhiều ý nghĩa nội hàm đặc sắc cho câu chuyện tình yêu của anh. Và, cũng chợt nhận ra cái mâu thuẫn phi lý ngộ nghĩnh của tình yêu trong ca khúc này. Không biết yêu từ khi nào, yêu từ đâu nhưng cả hai đều nhắc đến những khát vọng vĩnh cữu. Lời người nam: vô cùng, tiền kiếp, triệu kiếp, ngàn sau. Lời người nữ: vô thường, trăm năm, ngàn sau. Tôi cũng đã đi tìm truyền thuyết “giọt nước mắt xanh khóc cho tình say” điển cố trong bài thơ này tận hồ Blausee- Thuỵ Sỹ nép mình trong khu rừng thung lũng Kandergrund, lúc nào nước hồ cũng có màu xanh lam huyền hoặc hình thành đã 15.000 năm, được cho là nước mắt của một cô gái bơi thuyền ra giữa hồ khóc người yêu đã mất đến chết đuối và chìm xuống đáy hồ cùng chiếc thuyền khiến cho nước hồ đổi sang màu xanh bí ẩn – màu đôi mắt của nàng, màu nước mắt của nàng khóc tình yêu trọn kiếp thuỷ chung.

 

Anh như ngàn tình khúc

viết trăm năm chưa thành lời

Em bơi hoài dòng máu nóng

yêu biết bao giờ thôi…

(Hát cho những kẻ yêu nhau)

Giấc mộng yêu thật đẹp, thật trong sáng, đắm say, mà diệu kỳ như cổ tích.

 

Cũng có những phút tình lỡ, tình sầu, tình nhớ… song trong thơ Nguyễn Minh Nữu chỉ là những “thoáng nhớ mong manh”, chỉ là những cơn “tình mong”:

Đêm mơ màng tình yêu muôn trùng

Đêm mơ màng gợi thoáng nhớ mong manh

(Phượng xưa)

Thậm chí có “buồn đến rã rời thịt da” vì trái ngang “thương sao cho được mà thương” đi nữa thì chàng cũng không giận trách oán hờn, chỉ nhẹ nhàng coi như một bài học để đời, và lạ lùng cho những kẻ yêu nhau, dù phải trải nghiệm “muối pha”, vẫn cứ nhớ, cứ thương:

 

Cám ơn kẻ bỏ đi xa

Cho ta biết vị muối pha trong lòng

Ở đây thừa cái lạnh lùng

Vậy mà nhớ kẻ nghìn trùng lại thương.

(Tưởng chỉ mưa thôi)

 

Ngát thơm ký ức là ca khúc được phổ gần đây nhất. Và tôi cũng ngạc nhiên bởi cái da diết lạ lùng trong từng nốt nhạc khi Nguyễn Quyết Thắng chọn được cụm từ “Nhớ rất nhớ” làm khúc dạo đầu lắng sâu toát lên toàn bộ hồn thơ Nguyễn Minh Nữu. Cả bài đích thực chính là nỗi nhớ. Là ký ức thuở “bắt đầu ráp vần cha vần mẹ”, là ngôi trường cũ ấu thơ, là “từng góc phố ngát thơm chiều xuống thấp”, “từng đoạn đời bỏ lỡ quên đi”…

Thương lắm đó khoảng trời xanh bất biến

Giữa đổi thay dâu biển của lòng tôi

Áo lính thay rồi, áo thợ cũng thôi

Còn trong vắt cả một trời niên thiếu.

(Ngát thơm ký ức)

Chưa có bài thơ nào về tình bằng hữu mà thiết tha đến vậy.

Và nhạc Nguyễn Quyết Thắng cũng chưa bao giờ có sự chuyển hướng từ nhạc Du Ca hào hùng rộn ràng thành những cũng bậc trầm lắng đi vào lòng người  đến vậy. Nguyễn Minh Nữu kể: “Khi Thắng phổ Ngát Thơm Ký ỨcTưởng Chỉ Mưa Thôi, Thắng trằn trọc c mấy ngày, rồi đàn, tự hát, kêu Minh Chiến hát, và chị Chiến thuộc lòng luôn. Chính chị Chiến cũng sửng sốt vì âm điệu mới và lạ của người chồng bấy lâu tưởng như chỉ có thể hát nhạc Du Ca…

 

Nhiều người đọc quen nhìn một Nguyễn Minh Nữu viết văn, làm thơ, làm báo, phát thanh viên, chủ bút… sôi nổi, hoạt bát, quảng giao trong vai trò MC những buổi ra mắt, nhạy bén trong nhận định, linh hoạt trong giao tiếp luôn đem lại không khí sống động cho những buổi sinh hoạt ở quê nhà cũng như bên dòng Potomac anh đang sống. Có lẽ những biểu hiện đời thường đó chỉ mới là phần nổi của tảng băng. Thơ Nguyễn Minh Nữu, ngoài vần thơ những năm thiếu thời nói về quan niệm yêu, lại cho tôi những cảm nhận thật bất ngờ khi nghe anh giãi bày quan niệm sống, quan niệm viết của anh trong Lời ghi trên đá.

 

Tôi đến đây từ một tình cờ

Và sẽ ra đi rất bất ngờ

Ký thác chút tình vào vĩnh cửu

Ghi trên hòn đá cuội vu vơ

                              (Lời ghi trên đá, tr.92-3)

 

Đọc thơ anh, tôi thật xúc động nhận ra cái phần chìm của một Nguyễn Minh Nữu hoàn toàn ở chiều sâu triết luận khác. Một Nguyễn Minh Nữu sống và cháy hết mình từng khoảnh khắc hiện hữu. Hết mình với văn chương đam mê và hết mực chí tình với bạn bè. Hai khổ thơ mà tôi trích mở đầu phần viết này làm tôi nghĩ đến những suy tư trăn trở về hành trình của kiếp người. Đến tình cờ. Đi bất ngờ. Đó là quy luật của đất trời. Không ai chọn trước, biết trước được cho mình phút giây sinh - tử. Nhưng anh không cúi đầu trước định mệnh mà thiết tha “ký thác chút tình vào vĩnh cữu”, và “ghi trên hòn đá cuội vu vơ” khi nhận thức được cái bơ vơ mong manh của kiếp người ấy. Không bi quan tuyệt vọng buông xuôi đời mình mà anh chọn đến với văn chương và sống tận cùng từng khoảnh khắc hiếm hoi hiện hữu. Lời ghi trên đá như tuyên ngôn viết và sống của nhà thơ Nguyễn Minh Nữu chi phối toàn bộ thế giới quan nghệ thuật sáng tác của anh. Thơ anh khát khao những gì vĩnh cữu, bất biến. Thơ anh khát khao được sống hết mình, được góp mặt trong tất cả những khoảnh khắc mong manh ngắn ngủi của đời người ngắn ngủi, cái cây sậy nhỏ bé mong manh biết tư duy mà Pascal từng ví von, để chống chọi trước “cái Vô Cùng của rất vô cùng đó”. Đến với văn chương, Nguyễn Minh Nữu còn khát khao “ghi dấu lại đây”, khát khao trốn chạy cái hư vô dù biết không ai có thể thoát khỏi cái hư vô, đời người rồi cũng thành tro bụi, chỉ một cơn gió đi qua, xoá sạch mọi dấu tích chúng ta từng hiện hữu trên thế gian này…

Tôi đến đây và ghi dấu đây

Biết trước chỉ trong một phút giây

Cái Vô cùng của rất vô cùng đó

Xoá sạch đi bằng cơn gió bay

(Lời ghi trên đá)

 

Trên trang web cá nhân, anh ghi sở thích của mình:

Giăng võng giữa đôi vòm Nhật Nguyệt,

Đong đưa sinh tử cõi riêng mình

Nhật- Nguyệt, Ngày- Đêm, vốn là biểu tượng thời gian vũ trụ của con người, tròn-khuyết, đầy -vơi, nhà thơ chấp nhận cái mong manh vô thường ấy, nhưng thản nhiên “giăng võng’, “đong đưa” cùng định mệnh. Nguyễn Minh Nữu chọn “hát rong giữa đời”, bởi ‘phải chăng đời chính là thơ/nguyện bên nhau khúc tình mơ suốt đời” (Lời ghi trên đá, tr.60). Phải chăng đó là một cách để kiếp người bụi tro của chúng ta được nhân đôi, được phục sinh trong từng khoảnh khắc yêu thương…?

 

Nhiều bạn đọc cũng từng biết một Nguyễn Minh Nữu trong tập bút ký Thương Quá Sài Gòn Ngày Trở Lại[1]. Không gian Sài Gòn như một miền nhớ được tái hiện bao quát gần như mọi ngõ ngách mà bất kỳ ai chỉ cần nghe tên gọi đã thấy thân thuộc: Quận 1, Quận 3, Bàn Cờ, Thương xá Tax, Kênh Tẻ, Kênh Tàu Hủ… Những con đường. Những góc phố. Những tiệm sách hầu như ai cũng có lần từng đặt chân vào: Khai Trí, Xuân Thu, Vĩnh Bảo, Tự Lực.... Người đọc cùng tác giả đi qua nhiều chặng đường hơn nửa thế kỷ sống và viết của nhà văn với nhiều sắc màu đa dạng, nhiều cung bậc cảm nhận về cuộc đời, cách sống và lý tưởng sống. Những thông tin ngồn ngộn về văn hóa, lịch sử, địa lý, văn học nghệ thuật của mảnh đất Sài Gòn trong tập bút ký và truyện ngắn này khiến người đọc không khỏi ngạc nhiên về sức đọc, sức viết và những vốn liếng giá trị Nguyễn Minh Nữu đã trải nghiệm. Đất Sài Gòn, người Sài Gòn, tình bạn, tình yêu trong dòng chảy ký ức miên man ân tình “thương quá” để mỗi bước đi về làm tác giả ngẩn ngơ. Những khuôn mặt văn nghệ sĩ Sài Gòn lần lượt xuất hiện thật nồng ấm tình bạn. Và tình yêu con người, sự gắn bó với từng nguồn cội sông suối quê hương tuy được huyền thoại hóa nhưng thật đằm thắm thiết tha. Sau tất cả những lớp vỏ ngôn ngữ, hình ảnh, sự kiện…điều đáng quý là tác phẩm đã truyền cho người đọc tinh thần mến yêu cuộc sống này với tất cả mọi thăng trầm hỉ nộ ái ố của nó.

 

Nhiều bạn đọc cũng từng biết Nguyễn Minh Nữu trong Thuồng luồng mắt biếc, chắc không quên chuyện cái mùi đặc biệt trên thân thể chàng trai, chuyện Bát Lang chấp nhận ở lại dương trần làm người phàm để trọn tình trọn nghĩa là những hư cấu tưởng hoang đường kỳ ảo nhưng gói biết bao thông điệp nguồn cội tiêng liêng. Tâm thức cội nguồn thôi thúc tác giả trở về đi tìm một Hà Nội thứ nhất đẹp cổ kính nền nã, thanh lịch, nghìn năm văn hiến của ký ức gia đình mà đau xót vì các giá trị đẹp đẽ đã không còn trong “Hà Nội thứ tư”. Về Sơn Tây quỳ bên mộ cha cho lòng mơn man thương nhớ được âu yếm vỗ về. Tìm lại chính mình trong từng trang cổ thi cha truyền lại và lòng nhủ lòng “tiếp mạch thư hương, giữ nếp nhà” trongMênh mông trời Bất Bạt” (Lời ghi trên đá, tr.76). Tâm thức cội nguồn khiến Sài Gòn và những Bến Bình Đông, kênh Đôi, kênh Tẻ cùng những phận đời nổi trôi nhưng khí khái thiện lành lúc nào cũng đọng lại trong chiều sâu yêu thương tủi buồn bơ vơ tâm hồn thất thổ tứ tán điêu linh ngày bỏ xứ. Và cũng tâm thức ấy, dòng Potomac bây giờ cũng là nơi chốn trở về mà anh “Tha thiết với vô vàn bóng nước/được vỡ tan theo sóng bạc đầu” (LGTĐ, tr.65) không khác gì linh hồn sông nước Nam bộ nơi anh tìm được nửa còn lại của mình, cũng hào sảng hoá thân vào từng tên đất tên sông, hoà đồng, gắn bó với thiên nhiên bằng chính cả sinh mệnh đời mình trong từng trang viết của anh.

Đúng mực. Chí tình.  Bút ký hay truyện ngắn. Hiện thực hay kỳ ảo. Phong cách nào cũng toát lên ở Nguyễn Minh Nữu tình yêu mãnh liệt với cuộc đời và cái Đẹp. Đời vô thường nhưng lòng người bất biến, hồn người mãi theo ta để hướng con người về bến bờ Chân Thiện Mỹ.

 

Về sinh hoạt văn học nghệ thuật, xuất hiện ở Quán Văn từ số ra mắt đầu tiên cho đến nay chuẩn bị tròn số 100, tuy sinh sống ở bên kia bờ Thái Bình Dương nhưng anh vẫn thường đi về gắn bó chân tình. Nhắc đến tên anh, anh em Quán Văn vẫn không có cảm giác xa xôi mà mỗi sinh hoạt đặc biệt của Quán Văn anh đều năng nổ tham gia như thành viên chủ lực. Khi MC. Khi diễn giả. Khi đồng hành trong những chuyến giao lưu dong ruổi miền Tây Vĩnh Long, An Giang, Cần Thơ, Bến Tre hay xa hơn; Huế-Bạch Mã. Hà Nội… Vẫn nhớ cái dáng sôi nổi phóng xe ào ào khắp đường phố Sài Gòn mỗi khi về dù đã rời xa nhiều năm, thuộc hết mọi đường ngang lối tắt các con phố Sài Gòn mà chính người Sài gòn tôi đây chưa từng nghe đến. Vẫn nhớ những nhận định sắc sảo rất nhanh của anh khi tóm tắt thật rành mạch các mảng sáng tác chính của nhà thơ Trần Huiền Ân chỉ sau 45 phút trò chuyện tại nhà anh ở Tuy Hoà: thơ, nghiên cứu văn hoá phong tục, và giáo dục. Vẫn nhớ phát hiện độc đáo của anh trong lần ra mắt QV 87 về người nữ đầu tiên viết về thơ Nhã Ca gần nửa thế kỷ nay mà chính tôi nhìn lại cũng bất ngờ thú vị…

 

Có một điều cảm động đáng quý khi nói về Nguyễn Minh Nữu mà không nhắc đến sẽ là một thiếu sót vô cùng. Đó là một người bạn chí tình luôn sống hết lòng thuỷ chung sau trườc với bằng hữu. Nhà văn Đoàn Văn Khánh từng khẳng định khi được yêu cầu giới thiệu về mình trong một buổi họp mặt thân tình: “Muốn biết gì về Đoàn Văn Khánh cứ đọc tác phẩm của Nguyễn Minh Nữu”. Tôi vẫn không sao quên lần anh về Việt Nam một mình, 9:00 PM  còn chạy từ Tân Kiểng qua Tô Ký để thăm người bạn thời niên thiếu ấy bất ngờ bị bệnh phải nhập viện. Đi thăm về, anh tiu nghỉu: “Khánh bịnh, tui buồn quá”. Cái giọng nam bộ chân thành đầy xót xa tự nhiên tình cảm da diết lạ lùng… Tôi cũng không quên lần ra mắt số chân dung Nguyễn Minh Nữu-Lá thu phong, Đoàn Văn Khánh- Qua cửa Thần Phù, các bạn thời Thanh ca tác động, Phong trào Du ca của anh dường như có mặt đông đủ: các đôi song ca anh chị Bùi Công Bằng, anh chị Đoàn Việt Hùng, Nhạc sĩ Tôn Thất Lan…làm không khí khán phòng cà-phê Lọ Lem Nguyễn Trọng Tuyển sôi động hẳn lên một không khí hào sảng bất ngờ với Khi người yêu tôi bệnh, Những tối hoa xưa hay những bài thơ phổ nhạc Nguyễn Minh Nữu, Đoàn Văn Khánh. Những ngày Sài Gòn bị thương dịch bệnh kinh hoàng, từ rất xa bên kia đại dương, anh lại cùng các anh văn nghệ sĩ vùng Đông Bắc Hoa Kỳ: hoạ sĩ Trương Vũ, nhà thơ Phạm Cao Hoàng, nhà văn Phạm Thành Châu… chung tay góp chút quà gửi về chia sớt với những anh chị em Quán Văn gặp khó khăn…

 

Với tôi, anh Nguyễn Minh Nữu không biết từ bao giờ đã là một người anh, một người bạn cũng thân thiết chân tình không kém có thể sẵn sàng trao đổi, tranh luận và hiểu ý nhau phối hợp trong những buổi cùng dẫn chương trình mà anh là người tung hứng duyên dáng kỳ tài. Làm việc cùng anh, tôi thích sự thẳng thắn dứt khoát rõ ràng và cẩn trọng. Vốn người miền Bắc nhưng anh không khách sáo, giữ kẽ mà ngược lại còn chân tình, sôi nổi, thành thật, hào sảng chánh hiệu anh Hai Sài Gòn. Điều đó cho tôi sự tự tin mỗi khi vinh dự đồng hành cùng anh. Kỷ niệm quá nhiều… không biết bắt đầu từ đâu, nhưng tôi vẫn nhớ mãi những kỷ niệm cùng các chuyến đi của Quán Văn, nhớ mãi những ngày thu ở Fairfax, những gặp gỡ hội ngộ anh chị văn nghệ sĩ Đông Bắc, nhớ ngôi nhà ấm cúng của anh chị, bên chiếc xe màu xanh lá mạ đã đi vào thơ Đinh Cường như một dấu ấn tình bạn khó phai…

 

Không ngờ rồi hi hữu sao tôi lại viết những dòng này cho nhà văn-nhà thơ Nguyễn Minh Nữu ngay trên đất Hưng Hà quê tôi, vùng đất cổ, đất thiêng, đất vua, đất học của tỉnh Thái Bình nơi quê cha đất tổ truyền đời của song thân anh với triều Trần lừng lẫy và nhà bác học Lê Quý Đôn. Có ai tin đó là sự dun rủi của đất đai nguồn cội thiêng liêng? Tôi chợt nhớ đến câu chuyện chữ “Lai sinh” (來生), trong lòng bàn tay người con út cụ Phó Bảng Nguyễn Can Mộng trong truyện ngắn Văng vẳng bên trời tiếng hạc qua[2] của nhà văn Nguyễn Minh Nữu mà mỗi lần đọc tôi đều không thể không tự hỏi đây là sự thực hay hư cấu dù cách kể của nhà văn hoàn toàn mách bảo là chuyện thật 101%. Xuất thân từ một gia đình khoa bảng, có truyền thống yêu nước ở một mảnh đất 3 mặt tiếp giáp sông Hồng lộng gió màu mỡ phù sa cuồn cuộn, lại có sự ra đời hết sức ly kỳ, Nguyễn Minh Nữu mang đầy tố chất của một vị con quan thâm nho khẳng khái qua tính cách mạnh mẽ, tâm hồn thiết tha cội nguồn, trân trọng vẻ đẹp của thiên nhiên và con người, cũng như thấp thoáng đôi chút uy lực trong giọng nói, tiếng cười. Song, 4 tuổi đã rời “Hà Nội thứ nhất” của anh lưu lạc vào Nam, trải qua không ít những gian truân vất vả thác ghềnh phận nhà, vận nước và bây giờ ở phương trời xa đăm đắm khác:

Đã biết bao nhiêu chuyến viễn hành

Từ thời niên thiếu tóc ươm xanh

Gót đi biền biệt qua hoang phế

Còn dấu chân qua với thác ghểnh

                                                         (Lời ghi trên đá, tr.48)

Nguyễn Minh Nữu đã uống dòng nước sông suối miền Nam, tâm hồn lộng nắng gió phương Nam hiền hoà hai mùa mưa nắng để trở thành người con đất phương Nam như anh tự kể: “Tôi sinh trưởng ở miền Nam, niềm vui từ thủa thanh niên là cà phê, là thuốc lá, là bia rượu và là hào sảng ngân dài một câu vọng cổ…” (Hà Nội thứ tư)

Trích lại câu nói này, tôi muốn mượn lời cây bút trẻ Nguyễn Thuỵ Đan đã viết về Nguyễn Minh Nữu: “Chỉ một câu thế mà đã bảo tồn được những nét phong lưu một thời của cộng đồng di cư 1954, thường dù vẫn giữ nếp riêng của các truyền thống văn hóa Bắc Hà, nhưng lại hồn nhiên đón nhận và yêu lấy những nét văn hóa bình dân của miền Nam, mà kết quả là một sự duyên dáng ngộ nghĩnh và dễ thương của riêng cộng đồng và giai đoạn lịch sử ấy, sau này hầu như không còn tái lập được nữa.[3]

 

Có lẽ thế thật, hầu như không còn tái lập được nữa một Nguyễn Minh Nữu như tôi đã biết…

 

27.8.2023

Hưng Hà

hko

 

[1] Nguyễn Minh Nữu, 2017, Thương quá Sài Gòn ngày trở lại, NXB Nhân Ảnh.
[2] Xem: Văng vẳng bên trời tiếng hạc qua, Nguyễn Minh Nữu, link: http://www.phamcaohoang.com/2018/01/376-nguyen-minh-nuu-vang-vang-ben-troi.html
[3] Nguyễn Thuỵ Đan, 2021, Huyễn hoá của ký ức-Nguyễn Minh Nữu và Thuồng luồng mắt biếc, link: http://www.phamcaohoang.com/2021/06/2038-nguyen-thuy-thay-loi-bat-cho-tap.
html