Đêm
nay, đêm16 tháng 01 năm 1981 là đêm có trăng sáng, một điều xem ra có vẻ bất lợi
cho chuyến vượt biển tìm tự do của chiếc ghe dài mười ba thước và bề ngang hai
thước sáu mươi phân, mà, chỉ trong giây lát nữa đây thôi,
nó sẽ chở theo những con người khốn khổ phải rời bỏ quê hương để ra đi, trong
đó có tôi. Và, tôi tin tưởng sẽ không có chuyện gì dù nhỏ hay lớn sẽ xảy ra để
có thể ngăn cản lòng quyết tâm của chúng tôi. Cũng tại nơi này, xã Phước Hòa
thuộc tỉnh Bà Rịa; trong những ngày tháng qua đã có trên mười chuyến ghe đưa những
con người khốn khổ ra đi và đã đến bến bờ tự do bình an. Những chiếc ghe vượt
biển cứ tiếp nối nhau ra đi trong trật tự và an toàn là bởi vì chúng tôi có tiền,
có vàng, thứ mà công an biên phòng Việt Cộng rất khao khát muốn có.
Chính tại nơi làm điểm khởi
hành này, đã không có một chiếc ghe nào bị những trở ngại hay bị những thảm cảnh
xảy ra trên biển cả. Người đi trước đã viết thư hoặc gởi điện tín, cũng như gởi
những tín hiệu; nên những người đi sau như đêm nay rất yên tâm… sẽ được hưởng một
cái Tết Nguyên Đán
tự do đầu tiên sau năm năm, ở một quốc gia tự do nào đó chứ không phải ở Việt
Nam. Miền Nam Việt Nam sau ngày mất nước 1975 đã thật sự không còn Tết đúng
nghĩa nữa. Mọi nghi lễ cổ truyền tự ngàn xưa xem như đã bị chấm dứt bị cấm đoán
cách gián tiếp sau ngày Miền Nam Việt Nam rơi vào tay cộng sản Bắc Việt.
Bây giờ đang là mùa xuân và chỉ
trong năm tuần lễ nữa cái Tết cổ truyền lần thứ sáu, cái Tết Nguyên Đán năm 1981 của đồng bào Miền
Nam, của đồng bào Miền Bắc, sẽ trở lại trên quê hương sau ngày quân đội Việt
Nam Cộng Hòa phải đầu hàng theo lệnh của vị tướng không có tài và cũng không có
một chút kiến thức nhỏ nhoi nào về chính trị,
nhưng lại ham muốn quyền lực - Tướng Dương Văn Minh. Tức Minh Cồ. Lớn xác và to
đầu nhưng… trống rỗng.
Đêm
nay tôi quyết định phải ra đi, không thể chần chừ thêm được nữa trước khi quá
trễ. Và như vậy, tôi tin dù có chuyện gì xảy ra tôi cũng sẽ không đón cái Tết lần
thứ sáu trên quê hương. Năm mùa xuân đã đi qua, năm cái Tết cũng đã trôi qua
trong sự khốn khổ và nghẹn ngào của đồng bào Miền Nam dưới sự đọa đày của người
chiến thắng có cùng màu da và tiếng nói xem ra đã quá đủ cho tôi rồi.
Tại
sao đêm nay khi phải rời bỏ quê hương mà trong lòng tôi lại rất hớn hở và không
một chút lưu luyến hay muộn phiền? Ra đi khi không biết nơi mình sẽ đến với nhiều
nguy hiểm đang chờ đợi, vậy mà mọi người và tôi vẫn háo hức ra đi tuy trong
thâm tâm ai ai cũng nghĩ rằng, điều đó đã đem lại ít nhiều đau khổ. Nhưng, thật
ra thì không còn cách chọn lựa nào khác tốt hơn.
Trong đời mỗi một con người của
chúng ta thường sẽ có nhiều chuyến đi, sẽ có rất nhiều lần rời bỏ, thay đổi, những
nơi đã sống qua với ít nhiều kỷ niệm buồn vui. “Trong đời sống nhiều lúc chúng
ta phải lựa chọn, nhưng, không có sự chọn lựa nào lại không đem đến khổ đau”.
Câu danh ngôn mà tôi đọc được khi xưa vẫn luôn ẩn trong cái đầu của tôi.
Đêm
nay tôi đang ngồi đây, trong buồng lái dã chiến của chiếc ghe lớn nhìn đoàn người
đang bồng bế dìu dắt nhau bước lên ghe từ những chiêc ghe nhỏ gọi là tắc-xi.
Tôi nghe tiếng sóng vỗ bập bùng vào thân ghe mà lát nữa đây chiếc ghe này sẽ
đưa chúng tôi ra khơi và đi đến đâu thì chưa một ai trong chúng tôi có thể đoán
trước được.Tôi đưa tay lên làm dấu thánh giá và bỗng đâu hình ảnh những người
thân yêu ruột thịt của tôi năm nào đã bị thảm sát trong một lần Việt Cộng tấn
công vào xã, cái xã nghèo và nhỏ tí xíu đã hoàn toàn bị san thành bình địa.
Hình ảnh những người thân yêu của tôi hiện ra trong đầu làm tôi nhớ lại một thuở
thật thanh bình trên quê hương Miền Nam thân yêu mà tôi đã cùng vui cùng sướng
khổ với gia đình trong mái tranh nghèo nàn nơi vùng đất mới vừa được khai hoang
theo chương trình khẩn hoang lập ấp của vị Tổng Thống Đệ Nhất Cộng Hoà Miền Nam
Việt Nam.
***
Tôi sinh ra đời tại xã Phú Nhuận Saigon. Ba tôi là công chức phục vụ tại ‘Nhà làng Phú Nhuận’. Ban ngày ba tôi làm việc tại ‘nhà làng’, ban đêm ba tôi phụ trách dạy một giờ trong chương trình “bình dân học vụ” tại ngôi trường Võ Tánh nằm bên cạnh ‘Nhà làng Phú Nhuận” do vị Tổng Thống Ngô Đình Diệm khai mở cho những người lớn tuổi không từng được đến trường khi còn là những thanh niên thiếu nữ. Chính ngôi trường Võ Tánh này cũng là ngôi trường mà tôi đã học lớp mẫu giáo và lớp một. Nhà của ba mẹ tôi tọa lạc phía sau rạp chiếu phim Văn Cầm và gần bên con sông lớn. Lần đầu trong đời tôi được đi xem phim là tại rạp Văn Cầm này. Rạp Văn Cầm ở bên này đường và bên kia đường là ‘Nhà làng Phú Nhuận’.
Cuối năm 1957,
ba tôi đổi lên làm việc tại Pleiku. Trước đó mấy tháng nhân dịp Tết Trung Thu,
‘nhà làng Phú Nhuận’có tổ chức cho các em thiếu nhi đi rước đèn vào ngay tối
Trung Thu. Chúng tôi đã rước đèn đi qua nhiều con đường và, vừa bước đi chúng
tôi vừa hát dưới cơn mưa lâm râm nhưng rất vui và cũng rất lạnh. Sau đó mỗi đứa
chúng tôi được phát nửa cái bánh Trung Thu. Người phát bánh là đồng nghiệp của
ba tôi và biết tôi nên, tôi nhận được nguyên một cái bánh. Về nhà mẹ tôi cắt
bánh ra và tôi thấy nhân đen thui làm cho tôi không vui. Nhưng, mẹ tôi nói đó
là đậu đen ăn rất ngon và bổ. Đó cũng là lần đầu tiên và cuối
cùng trong đời tôi được đi rước đèn đêm Trung Thu.
Thị trấn Pleiku ngày ấy còn
quá hoang sơ với núi cao và rừng hoang rộng bao la. Đất của Pleiku toàn đất đỏ.
Con đường chính của thị trấn rất hẹp. Khi có hai chiếc xe chạy ngược chiều nhau
thì một chiếc phải ngừng lại để chiếc ngược chiều chạy qua rồi chiếc kia mới được
chạy. Ngày đó cả thị trấn chỉ có một rạp chiếu phim, rạp Diệp Kính.
Năm tôi học lớp ba trường tiểu
học Pleiku, tôi đã vô cùng thích thú khi được người bạn Thượng học cùng lớp “mời”
tôi về buôn Thượng của bạn chơi. Người bạn Thượng này có phụ trách một lớp học cho các em nhỏ
trong buôn làng. Và, nhân dịp này tôi phụ với bạn để chỉ lại những gì mà tôi đã
học được cho các em trong buôn làng vì không có điều kiện đi đến trường. Nhớ lại
ngày đầu tiên theo chân người bạn Thượng, tôi thật không ngờ người bạn này mỗi
ngày phải đi bộ trên quãng đường quá xa để đến trường. Tối hôm đầu tiên trong
nhà người bạn Thượng tôi đã được ăn một bữa cơm mà chắc chắn tôi sẽ không bao
giờ quên được trong cuộc đời. Khi tất cả mọi người quây quần bên cái bếp lửa đặt
giữa nhà sàn, thì ba của người bạn Thượng vói tay lấy cái ống tre đặt trên cao
xuống và rồi ông lấy trong ống tre đó ra một gói thức ăn nhỏ được gói trong cái
lá lớn có lông nhỏ li ti; rồi bỏ vào trong bếp lửa để nướng. Cơm đã được nấu
chín từ lúc nào tôi không rõ và cũng được gói trong cái lá rất lớn có nhiều
lông nhỏ li ti giống như cái lá gói thức ăn. Khi gói thức ăn đã được nướng
chín, mọi người cùng bốc thức ăn trong cái gói đó và ăn với cơm - Người Thượng
thời gian đó hoàn toàn không dùng đũa hay muỗng.... Cho đến hôm nay cái mùi của
gói thức ăn đó tôi vẫn còn bị ám ảnh tuy thời gian trôi qua cũng đã trên năm
mươi năm rồi; chỉ vì cái mùi của nó quá xá thúi. Nó thúi lắm! Thúi kinh khủng!
Thúi tàn canh… và tàn nhẫn luôn! Lúc đó tôi còn nhỏ quá nên phản ứng của tôi
cũng rất tự nhiên và không lịch sự. Người bạn Thượng thoáng nhìn tôi và anh hiểu
ra nên anh đứng lên đi nhanh đến cái ổ gà có con gà mẹ đang ấp những quả trứng,
anh đỡ con gà lên và lấy một quả trứng, anh để quả trứng vào trong cái ca nước
và đặt lên bếp để làm món trứng luộc chấm muối cho tôi ăn cơm… Ngày kế tiếp tôi
cũng được ăn cùng thứ thực đơn đó.
Trẻ em Thượng trong lớp rất
thích tôi vì hiếu kỳ. Có lẽ vì tôi là “người da trắng” đầu tiên mà các em Thượng được
gặp chăng? Để đáp lại lòng ưu ái mà các em đã đặc biệt dành cho tôi, tôi đã “rộng
tay” cho các em rất nhiều điểm vào hai môn học;
toán cộng và trừ, cùng môn chính tả… như là một trò chơi của thời còn nhỏ
dại!
Hai
ngày trong buôn Thượng tôi vui lắm vì có nhiều ngưòi cùng lứa tuổi chơi đùa và
leo cây hái những thứ trái cây mà người Thượng thường gùi ra phố bán cho người
Kinh. Tôi thích nhất khi được đi ra suối tắm và cũng được nhìn các cô gái Thượng
tắm. Thiếu nữ Thượng khi tắm suối hoàn toàn khỏa thân. Lúc đó tôi còn quá nhỏ
nên không hề có một ý nghĩ ‘tà đạo’ nào mà chỉ vì hiếu kỳ. Khi các cô gái Thượng
tắm họ không kỳ cọ giống như tôi. Các cô gái Thượng dùng một khúc cây ngắn, nhỏ,
tròn màu đen và láng để kỳ cọ trông rất là lạ mắt.
Mùa mưa năm xưa xa xôi ấy…năm
1961 trên đoạn đường quốc lộ giữa núi rừng,
đoạn đường chưa được trải nhựa nên rất lầy lội và trơn trợt. Tôi, một thằng
nhóc con ngồi trong chiếc xe đò của hãng xe Sanh Hòa đi từ Pleiku về Sàigòn.
(Ngày đó chỉ có hai hãng xe Sanh Hòa và Ngọc Trân chạy suốt ngày lẫn đêm
đoạn đường dài Saigon – Pleiku - Kon Tum) Lần đầu tiên trong cuộc đời tôi đã được
nghe một bài hát mà tôi sẽ không bao giờ quên được, đó là bản Mưa Rừng và hình
như được trình bày qua tiếng hát của nữ ca sĩ Thanh-Thúy từ cái radio của ông
tài xế.Tôi buồn thật nhiều khi phải rời xa gia đình, phải rời xa một số bạn
nhóc cùng trường và cùng xã để lên Thành phố ngàn thông Dalat theo học trong một
trường nội trú. Trường dòng Salesian DonBosco Trạm Hành – Dalat.
Ngày tôi xa rời nơi tôi đã sống
với nhiều kỷ niệm của tuổi thơ, tôi không còn nhớ là ngày đó tôi đã gặp và từ
giã những ai. Nhưng, tôi nhớ là tôi buồn nhiều lắm... chứ không như đêm nay. Đêm nay tôi háo hức chờ giờ khởi
hành. Tôi cảm nhận là phải bằng mọi cách xa rời nơi mà tôi đã có những tháng
ngày làm việc và rong chơi với nhiều kỷ niệm trong đời. Những người cầm quyền
trong xã Phước Hòa vùng ven biển nổi tiếng là nơi có nhiều ghe chở người bỏ nước
ra đi tìm tự do… đã không muốn tôi đi. Tôi sợ sẽ bị bắt lại. Nên, khi chiếc ghe
rời bến tôi đã cầm cây súng ngắn trong tay làm như sẵn sàng nhả đạn nếu bị người
nào đó cản trở. (Cây súng ngắn này là của tên Việt Cộng đã cộng tác trong công
việc với tôi. Nhưng, tôi chưa bao giờ biết sử dụng cây súng này).
Chiếc
ghe rời bến vào khoảng ba giờ sáng với hai người có nhiệm vụ hướng dẫn chiếc
ghe ra cửa biển Vũng Tàu; ra khỏi khu vực gọi là “đèn trắng”. Hai người này
không ngờ tôi cũng đi đêm nay nên hai người cố gắng thuyết phục tôi ở lại để
“đánh” thêm vài chuyến nữa rồi hãy đi. Nhưng, chí tôi đã quyết nên tôi cũng cố
gắng thuyết phục hai người cùng đi. Cuối cùng hai người đã nhảy xuống con sông
lớn trên đường dẫn ra biển để bơi vào bờ khi tôi sơ ý nhìn đi nơi khác. Bốn con
mắt nhìn tôi đầy giận dữ và căm thù khi cái đèn pha trong tay anh Thiếu tá Hải
Quân Phan Chánh Cương chiếu ngay mặt hai người. Tôi cũng sẽ không bao giờ có thể
quên được bốn ánh mắt đó khi tôi còn hiện diện trong cuộc đời này.
Anh
Phan Chánh Cương đã cố gắng lèo lái chiếc ghe ra đi nhưng anh không quen con đường
này, vì vậy, khoảng hơn bốn giờ sáng thì chiếc ghe bị mắc cạn. Chúng tôi đã cố
gắng chống sào để ra khỏi vùng bị nạn nhưng vô ích. Chiếc ghe dài mười ba thước
vẫn nằm yên không nhúc nhích. Mệt mỏi, chán nản và lo sợ, nên tôi đã cột những
chứng từ có liên quan đến chiếc ghe và đến những người có liên hệ với tôi trong
tổ chức… vô cây súng rồi quăng xuống biển. Khoảng gần năm giờ sáng chúng tôi đã
cố gắng thử thời vận một lần chót theo lời đề nghị của chú Gao - chú em lái ghe
nhỏ đưa khách ra ghe lớn tại xã Phước Hòa - bằng cách chạy qua chạy lại bề
ngang của chiếc ghe. Đức Chúa Giêsu. Đức Mẹ Maria. Đức Phật Quán Thế Âm Bồ Tát…
từ bi đã cứu chúng tôi! Chiếc ghe đã chòng chành chuyển động mỗi lúc mỗi nhiều
hơn nên tôi đề nghị với anh Cương:
“Anh
cho máy nổ và thử chạy lùi để chuyển qua hướng khác được không anh Cương?”
Anh
Cương đã làm theo lời đề nghị của tôi và chiếc ghe đã chạy thoát vùng mắc cạn.
Lúc
này trời đã quá sáng tỏ để chúng tôi nhìn thấy từ phía trong bờ có hai chiếc
tàu nhỏ đang chạy về hướng chúng tôi và... những người đứng trước mũi của hai
chiếc tàu đó đang phất cờ và bắn vài phát súng chỉ thiên.
Anh
Phan Chánh Cương nói:
“Họ ra lệnh cho mình phải ngừng
lại, nếu không họ sẽ bắn thẳng vào ghe”.
Tôi
nói với anh Cương:
“Anh cứ cho máy chạy hết tốc lực
đi. Nếu phải chết thì chúng ta cùng chết chứ không thể để bị bắt lại”.
Một
lần nữa, anh Cương lại làm theo đề nghị của tôi. Chiếc ghe ngóc cao mũi và
phóng thẳng về phía trước với vận tốc tối đa của nó.Tôi đứng dang hai tay gác
trên cái mái chỗ làm phòng lái và nhìn về phía trước. Tôi hít một hơi thật dài
cho không khí vào đầy hai cái lá phổi. Đã bao năm tháng qua, đây là lần đầu
tiên tôi thật sự được hít thở không khí của tự do!
Có
một anh thanh niên lạ đến đứng bên cạnh tôi, anh nhìn biển một lúc rồi quay
nhìn tôi và nói:
“Biển yên quá, hy vọng họ sẽ
không đuổi theo kịp mình”.
Tôi
nhìn anh và đề nghị:
“Anh giúp chúng tôi nói với mọi
người dưới hầm là, ai nằm ở đâu thì nằm yên ở đó chứ đừng lên trên này nguy hiểm
lắm”.
Khi
anh chàng thanh niên vừa quay lưng đi và chui xuống hầm ghe thì tôi cũng vừa chợt
nhận ra lời đề nghị của mình quá thừa thãi. Những người nằm dưới lòng ghe, phần
thì mệt vì thiếu ngủ, phần thì say sóng vì ghe chạy quá nhanh nên mọi người vẫn
nằm yên tại chỗ... như chết.
Khoảng
một giờ trưa chúng tôi không còn thấy hai chiếc ghe của biên phòng rượt đuổi
theo nữa. Chúng tôi bị rượt đuổi hơn năm tiếng đồng hồ. Anh Phan Chánh Cương
cũng vẫn đang cho chiếc ghe chạy với vận tốc tối đa để tránh những chiếc ghe
đánh cá quốc doanh đang lởn vởn chung quanh.
Gần bảy giờ tối. Lúc này màn
đêm đã phủ chụp lên vạn vật, nhưng chiếc ghe thì vẫn lao thẳng về phía trước.
Chiếc ghe đang phóng ngon trớn thì bất ngờ cái máy ghe bỗng “ho” lên khục khặc
vài tiếng rồi không chịu chuyển động nữa. Tôi phải tạm cầm lái để anh Cương và
người phụ thợ máy cố gắng mò mẫm trong ánh sáng yếu ớt của cái bóng đèn nhỏ wat
để sửa chữa cho máy nổ lại. Trong lúc mọi người đang lo lắng và hồi hộp thì bỗng
tôi nhìn thấy ngọn sóng biển đột ngột dâng lên thật cao như muốn ôm chụp lấy
chiếc ghe và đồng thời gió thổi lên ầm ầm vang dội cả một vùng biển rộng. Đây là lần đầu tiên trong đời
tôi nhìn thấy sóng biển cao như vậy. Ngọn sóng đã đưa chiếc ghe lên cao - lên
thật cao - rồi thình lình hạ thật thấp xuống làm đáy của chiếc ghe va chạm với
mặt nước biển và phát ra cái âm thanh thật hãi hùng mà tôi tưởng chừng như chỉ
trong một vài lần va chạm như vậy nữa là chiếc ghe sẽ bị bể tan ra từng mảnh nhỏ
rồi chìm xuống đại dương. Những ngọn sóng cứ tiếp nối nhau như muốn phủ chụp
lên chiếc ghe của chúng tôi làm cho chiếc ghe nghiêng qua nghiêng lại nên tôi
phải nhắm mắt và đồng thời tôi nghĩ: “Không ngờ cuộc đời mình lại chấm dứt như
thế này, ở đây, giữa biển
khơi.” Lúc này không phải chỉ riêng một mình tôi mà tất cả mọi người trong
ghe không còn một ai dám nhìn những ngọn sóng nữa… ngoài anh cựu Thiếu tá Phan
Chánh Cương vì anh đang phải cầm lái. Tôi nằm co rút người lại trong phòng lái,
bên cạnh anh Cương và cầu nguyện. Tôi không còn can đảm nữa khi nghĩ chỉ trong
giây lát nữa đây thôi là tất cả mọi người, và tôi, sẽ bị những ngọn sóng dữ kia
nhận chìm xuống đáy biển.
“Anh Ba Hùng dậy cầm lái cho
tôi một lúc. Tôi mệt quá rồi. Tôi không thể chịu nỗi nữa rồi”.
Anh
Cương vừa nói vừa lay tôi dậy. Tôi đã thiếp đi lúc nào không biết. Tôi đã ngủ
được một giấc.
“Bây
giờ là mấy giờ anh Cương?”
“Hơn mười hai giờ đêm”.
“Tôi
phải giữ lái như thế nào?”
“Anh cứ giữ như tôi đang để.
Bão vẫn còn mà máy thì đã chết nên cũng không thể làm gì hơn được”.
Tôi ngồi lên
và cầm lái. Nếu có ai hỏi, trong đời tôi lúc nào là lúc mà tôi thấy kinh hoàng
nhất? Chắc chắn là lúc này đây. Tôi đã hơn một lần chạy trong vùng lửa đạn chiến
tranh nhưng tôi không kinh hoàng. Tôi đã một lần bị một tên Việt Cộng kề súng
vào đầu tôi hăm dọa bắn khi tôi định nhảy khỏi toa xe lửa trong một lần đi buôn
vì chính sách đại ngu xuẩn
ngăn sông cấm chợ của tên Tổng Bí Thư xuẩn ngốc và
gian ác Lê Duẫn. Dù quá sợ nhưng tôi vẫn nhảy đại và chẳng may tôi bị an ninh
tóm cổ khi chạy vào ngõ cụt… tôi cũng chưa kinh sợ nhiều. Nhưng, đêm nay với những
ngọn sóng quá xá cao, ngọn sóng đã đưa chiếc ghe lên thật cao rồi hạ thật nhanh
và thật mạnh xuống làm cho lườn ghe đập thật mạnh xuống mặt nước biển mà mỗi lần
như vậy trái tim tôi, ngực tôi, như bị tay lực sĩ nào đó đấm thật mạnh vào làm
tôi cứ bị đau nhói lên. Tôi đã quá kinh hoàng và sợ hãi nên tôi gọi anh bạn
thanh niên đã nói chuyện lúc ban sáng với tôi khi bị rượt đuổi… đang nằm gần
đó, lại ngồi với tôi. Có hai người tôi bớt sợ phần nào. Chúng tôi hút thuốc thật
nhiều vì lạnh, và, dĩ nhiên cũng vì quá sợ hãi.
Mọi
chuyện rồi cũng qua. Sóng biển đã không còn những cơn giận dữ nữa. Ánh mặt trời
cũng đã bắt đầu ló lên ở phía bên trái của chiếc ghe. Anh Cương đã thức dậy.
Anh nhìn vào hải bàn và tỏ ý hài lòng với tọa độ mà anh đã tính. Anh nói:
“Với vận tốc và thời gian mà
chiếc ghe đã chạy trước khi bị chết máy, tôi bảo đảm với anh Ba Hùng là chúng
ta đã qua khỏi đảo Côn Sơn rồi”.
Tôi
quay qua nói với người thanh niên đã ngồi bên cạnh tôi suốt đêm:
“Anh đi gom lại những túi thức
ăn và những cây mía xem mình còn lại bao nhiêu”.
Một
lát sau anh thanh niên đem lại vài túi xách nhỏ và cho biết:
“Khi bị rượt, các túi thức ăn
đã rớt xuống biển nhiều, còn lại đây chẳng có bao nhiêu”.
Tôi
lấy trong những cái túi thức ăn đó ra ba cái bánh chưng nhỏ. Một cho anh Cương,
một cho anh thanh niên, và một cho tôi. Chúng tôi pha café và cùng ăn uống với
nhau.
Khi
mặt trời đã lên khá cao, tôi chui xuống lòng ghe để kêu người thợ máy dậy sửa
máy. Người thợ máy không thể nào nhúc nhích được nữa vì anh ta quá say sóng và
ói mửa rất nhiều. Anh ta chỉ có thể hé mở được một con mắt thôi.Vâng, đúng là
anh ta chỉ hé mở được có một con mắt thôi, và, anh thều thào trong cổ họng yêu
cầu chúng tôi khiêng anh đến bên cái máy. Đến bên cái máy rồi anh ta cũng không
thể cử động tay chân nỗi nữa. Anh nằm đó nhắm hai con mắt lại và chỉ dẫn người
phụ máy cùng hai anh em chúng tôi phải làm những gì theo lời anh. Sau khi chúng
tôi đã làm tất cả mọi động tác theo lời anh, và, sau khi đã thử cho máy nổ rất
nhiều lần, nhưng vô hiệu. Cuối cùng anh thợ máy nói:
“Cái “rờ-le” đã bị cháy vì bị
quần áo cuốn vào cây láp làm bắn
nước vào đó. Em đã quên mang theo cái “rờ-le sơ cua” nên… không còn cách nào
khác nữa!”
Tôi
nhìn anh Cương. Anh Cương nhìn tôi. Chúng tôi không nói gì với nhau. Anh Cương
chui ra khỏi hầm máy. Tôi cũng chui ra theo anh. Ngay lúc đó tôi nghe tiếng một
người đàn ông trong lòng ghe la khóc rất lớn:
“Bố đã giết con rồi con ơi! Giời
ơi là giời! Tôi giết con tôi rồi”.
Tôi
chui lại vào trong lòng ghe với sự bực tức và nói thật lớn với người đàn ông
đang khóc:
“Anh kia. Anh
không được làm mọi người hoang mang và lo sợ.
Tại sao anh phải khóc? Nếu chết thì tất cả cùng chết chứ có riêng gì gia đình
anh đâu. Anh làm gì trước đây?”
Người đàn ông nhìn tôi thoáng chút ngạc nhiên
nhưng rồi ông cũng trả lời:
“Dạ... trước đây tôi là Trung
úy thông dịch viên mới đi cải tạo về”.
Tôi
tưởng ông ta là… người bình thường chứ đâu ngờ là sĩ quan thông dịch. Tôi buột
miệng nói mà không ngờ lại là điều hay cho những ngày kế tiếp:
“Thôi... anh đừng làm ồn nữa.
Kể từ hôm nay anh có nhiệm vụ phát nước cho mọi người… nha”.
Tôi chỉ tay về phía một người
đàn ông trung niên và khá to con mà tôi nghĩ là dân lao động. Tôi hỏi:
“Ông…
trước kia ông làm gì?”
Thật
bất ngờ khi nghe ông nói:
“Tôi là Đại úy bộ binh cũng mới đi cải
tạo về”.
Tôi…
phân nhiệm vụ cho ông:
“Từ nay nhiệm vụ của ông...
phát cơm cho mọi người nghe”.
Phân
công cho hai người xong, tôi chui ra khỏi lòng ghe. Tôi đến bên anh Cương. Anh
Cương đang cầm trong tay những món đồ nghề đi biển, anh nói:
“Với sức trôi của chiếc ghe mà
tôi đã đo được thì khoảng... mười ngày nữa ghe của mình sẽ trôi đến đất Thái
Lan”.
Mười
ngày nữa ? Mười ngày nữa thì làm sao có đủ thức ăn và nước uống cho chừng
này người? Mà… chiếc ghe này có bao nhiêu người ? Tôi nghĩ vậy và nhìn quanh để tìm người phụ
giúp. Hướng trước mặt tôi có một người đàn ông có dáng vẻ rất quê mùa và rất
đáng nghi ngờ. Tôi ngoắc anh ta lại và hỏi:
“Anh làm gì trước đây ở...Việt
Nam?”
Lại
một bất ngờ nữa khi nghe người đàn ông nói:
“Tôi là Trung úy An Ninh Quân
Đội”.
Nhìn
người đứng trước mặt, tôi không bao giờ nghĩ anh là sĩ quan, chứ đừng nói chi
là An Ninh quân đội… Anh có dáng dấp quê mùa của người nông dân quanh năm chân
lấm tay bùn, thế mà… Tôi hỏi:
“Anh
có giấy tờ gì đem theo không?”
“Dạ
có!”
Anh
Trung úy lấy từ trong bóp ra một tờ giấy mà anh đã cẩn thật để vào trong mấy lớp
nylon và đưa cho tôi xem. Tôi cầm và đưa qua cho anh Cương xem. Anh Cương nhìn
vô tờ giấy một lúc, anh không nói gì cả mà chỉ gật đầu như xác nhận. Tôi nói với
anh Trung úy An-Ninh quân đội:
“Từ nay anh giữ trật tự trên
ghe này… nha. Bây giờ anh đi kiểm cho tôi xem trên ghe mình có tất cả bao nhiêu
người nhé”.
Khi ghi lại ký ức về chuyến đi
này, tôi đã giận tôi vô cùng. Tôi giận tôi vì đã quên hẵn tên ba người cựu sĩ
quan của quân lực Việt Nam Cộng Hoà đó. Những người đã cùng tôi đi trên chiếc
ghe mang số SS 1050 IA thả trôi mười bảy ngày và đến bờ biển Mã Lai ngày
01/02/1981. Trong tận cùng trái tim tôi, tôi vẫn luôn nhớ về các anh, những người
đã chung
sức để giữ cho chiếc ghe không bị hỗn loạn cho tới ngày đến được bến bờ tự do.
Đặc biệt là anh Trung úy An Ninh quân đội. Khi lên đảo Pulau Bidong, anh giữ chức
Trưởng Khối An Ninh. Lúc nào anh cũng niềm nở cách thân thiện và tận tình giúp
khi tôi có việc nhờ đến anh. Chẳng là khi còn trên ghe, những tên du đãng đi
theo diện công an xã Phước Hòa gởi đã
“nín nhịn” vì bị tôi hăm sẽ quăng xuống biển những ai gây rối loạn trên
ghe. Khi lên đảo bọn này nhập với nhóm du thủ du thực và hăm dọa lại tôi là sẽ…
cho cá ăn tôi. Nghĩa là tôi có thể sẽ
bị bọn chúng trùm bao bố rồi quăng xuống biển.
Ngày
đầu tiên xem như chúng tôi đã tạm sắp xếp xong mọi trật tự trên ghe. Tôi đã dọa sẽ quăng xuống biển những ai làm mất trật tự.
Ngày đầu tiên tôi cho phát nước một ngày hai lần. Một lần mỗi người hai nắp
“bidon” của quân đội Việt-Nam Cộng-Hoà. Không ai được hơn quy định đó, kể cả
anh Cương và tôi. Tôi cho gom các bao khoai lang lại và chia ra làm mười phần,
cho mười ngày, mỗi ngày ăn một lần. Anh Trung úy an ninh quân đội cho tôi biết
đã đếm đi đếm lại rất nhiều lần và con số chính xác là một trăm mười ba (113)
người hiện diện trên ghe.
***
Đến
hôm nay chiếc ghe của chúng tôi đã trôi được bảy ngày rồi. Nồi khoai lang bây
giờ khi nấu lên nó có một màu đen và có vị chua. Nồi khoai lang nhìn thấy...
kinh khủng quá! Vào ngày thứ năm của chuyến đi tôi đã cho rút phần phát nước xuống
mỗi ngày một lần, mỗi lần mỗi người cũng chỉ được một nắp “bidon” thôi. Chúng
tôi đã tháo tấm bạt che trên mui ghe ra làm buồm. Có một điều thật không thể hiểu
được là, từ khi “giương buồm” lên thì chiếc ghe tự động quay đầu và trôi theo
tư thế lùi. Hễ tháo “ buồm” ra thì chiếc ghe trôi theo tư thế thuận. Cuối cùng
anh Cương cũng quyết định “giương buồm” vì dù sao chiếc ghe cũng trôi nhanh và
theo hướng mong muốn, tuy phải trôi theo thế lùi.
Trưa
ngày trôi thứ bảy.
Anh Phan Chánh Cương bỗng tươi tỉnh nét mặt
khi anh nhìn vào ống dòm và báo là, có một chiếc tàu đang chạy về hướng chiếc
ghe của chúng tôi. Sau một lúc, anh nói lớn như muốn cho mọi người cùng nghe:
“Có chiếc tàu đang chạy về hướng
chúng ta. Và… có lẽ là chiếc tàu thuộc toán cấp cứu của Tây Đức”.
Mọi
con mắt đều nhìn về hướng chiếc tàu đang chạy như bay đến ghe của chúng tôi… với
tất cả sự ‘hồ hởi phấn khởi.” Khi chiếc tàu đến cách chiếc ghe của chúng tôi một
khoảng cách đủ để chúng tôi nhìn thấy những người trên chiếc tàu đó là những
người có nước da ngâm đen và... quấn xà rông. Anh Cương có lẽ là người đầu tiên
không còn nét mặt “hồ hởi phấn khởi” như lúc ban đầu nữa, nhưng, anh cũng không
nói tiếng nào. Người thuyền trưởng bên chiếc tàu đó muốn nói chuyện với thuyền
trưởng của chiếc ghe chúng tôi. Anh Cương với cương vị đó nên anh đã qua bên
chiếc tàu gặp tên thuyền trưởng. Một lúc sau anh Cương trở về và cho biết là,
người thuyền trưởng bên chiếc tàu muốn cứu chúng tôi để chở vào bờ. Họ yêu cầu
mang tất cả hành lý qua tàu của họ.
Mọi
người đã… tranh nhau qua bên chiếc tàu “cấp cứu” và được đối xử rất tử tế như,
cho thức ăn và nước uống. Đang khi mọi người còn vui vẻ vì tin rằng đã được cứu
thì, một tên trong bọn họ bắn chỉ thiên một phát súng và yêu cầu tất cả theo
hàng một đi vòng chiếc tàu từ đầu ra cuối rồi vòng về chỗ cũ. Một trăm mười hai
người – Anh Cương được miễn – đi vòng từ đầu mũi tàu ra đến phía sau tàu là có
một bọn năm tên đã đứng sẵn ở đó để khám xét và lột sạch những gì mà bọn chúng
nghĩ là đáng giá. Khi đã lột sạch những gì mà bọn chúng lột được, bọn chúng ra
lệnh cho những con người khốn khổ chúng tôi trở về lại chiếc ghe và bố thí nửa
thùng phuy nước, một bao gạo và khá nhiều cá rồi sau đó chiếc tàu “cấp cứu” lại
thẳng hướng ra khơi.
Nhiều người trong chúng tôi đã
chửi thề và nguyền rủa bọn cướp biển là tàn ác… Nhưng, tất cả cũng rất vui vì
đã được một bữa cơm rất ngon, đúng nghĩa là cơm!
Ba
anh cựu sĩ quan có nhiệm vụ trên ghe đã hăng hái làm tròn nhiệm vụ! Sau một tuần
không có cái gọi là cơm, chiều nay tất cả chúng tôi đã tận hưởng được một bữa
cơm ngon nhất trong đời!
Trưa
ngày trôi thứ tám.
Từ xa xuất hiện hai chiếc tàu
với nhiều lá cờ đủ màu sắc đang tiến về chiếc ghe của chúng tôi. Vừa khi thấy
“chiếc tàu lạ’là chúng tôi nhận biết ngay đây cũng là bọn cướp người Thái Lan.
Bọn cướp rất đông vì chúng đến một lúc hai chiếc tàu và đứa nào mặt mũi cũng rất
dữ tợn. Bọn chúng với mã tấu và súng ngắn đã tràn qua ghe của chúng tôi giống
như bọn cướp biển trong các phim mà tôi đã có dịp xem qua khi Miền Nam tự do
còn hiện hửu. Bọn chúng khi qua đến ghe của chúng tôi là cướp phá liền. Bọn cướp
tháo gỡ những bộ phận của chiếc máy ghe và mang qua tàu của bọn chúng. Bọn
chúng bắt tất cả đàn bà con gái qua tàu của bọn chúng và phát cho mỗi người một
cục xà bông rồi bắt đứng tắm trần truồng trên sàn tàu. Ai không chịu tắm là
chúng đá vào người. Sau khi những người đàn bà khốn khổ kia tắm xong, lập tức bọn
cướp cùng chia nhau hãm hiếp ngay tại sàn tàu. Một trong hai tên thuyền trưởng
đã “may mắn” cướp được một cô gái thật đẹp người Huế vào phòng riêng. (Sau này
tôi được biết cô gái Huế đã tốt nghiệp đại học môn Anh văn và chưa lập gia
đình. Khi lên trại tỵ nạn, cô gái Huế phụ trách dạy môn Anh văn).
Đến
nửa khuya bọn cướp biển thả những người đàn bà khốn khổ về lại chiếc ghe sau
khi cho mỗi người một hộp sữa.
Cũng
như chiếc tàu trước, hai chiếc tàu này cũng cho ghe chúng tôi gạo, nước, cá
tươi và cá khô.
Từ
khi được thả trở về lại chiếc ghe cho đến sáng, những người đàn ông chúng tôi
phải bị nghe tiếng âm thanh rên la thật buồn não của những người đàn bà xấu số.
Không chỉ những người đàn bà khóc mà có cả tiếng đàn ông khóc nữa. Trên ghe có
khoảng bốn chục người đàn bà, cộng thêm khoảng gần bốn chục tiếng khóc của những
người đàn ông hòa theo nên âm thanh đó rùng rợn và buồn thảm vô cùng giữa biển
khơi im vắng.
Ngày
trôi thứ chín.
Sáng
hôm nay anh Cương và tôi rất ngại nhìn cũng như nói chuyện với những người đàn
bà. Hầu hết những người đàn bà đã lên mui ghe ngồi... phơi nắng. Một số người
đã tỏ ra như có kinh nghiệm nên họ đã bôi dầu máy tàu lên mặt và khắp người.
Nhìn những người đàn bà lúc này thật buồn cười mà tôi không dám cười. Chú Gao,
tên của chú em ở xã Phước-Hòa thuộc tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu làm nghề đưa khách vượt
biên từ ghe taxi ra ghe lớn, và cũng là người đã đề nghị chạy qua chạy lại sàn
ghe hôm bị mắc cạn; đến bên tôi và kể lể với gương mặt như khóc:
“Anh Ba Hùng biết hôn, em
thương con bồ của em lắm, em hỏi cưới nó thì ông già nó nói nó mới mười bảy tuổi,
đợi sang năm đủ mười tám thì cho cưới. Em thương nó quá nên rủ nó đi vượt biên
luôn. Đụ mẹ không ngờ mấy thằng Thái Lan nó hưởng trước em. Đụ mẹ tụi nó chứ!”
Sáng
sớm ngày trôi thứ mười.
Anh
Cương bây giờ không còn ống dòm để nhìn xa nữa. Tất cả đồ nghề dùng đi biển đã
bị bọn cướp lấy mất. Anh lại gần tôi và chỉ tay về phía bên phải. Nhìn theo
cánh tay anh, từ xa có ba chiếc tàu đang chạy đến. Khi ba chiếc tàu đến gần hơn
tôi thấy những chiếc này cũng có treo nhiều lá cờ đủ màu sắc như những chiếc
trước. Ba chiếc tàu cặp gần hai bên hông chiếc ghe của chúng tôi. Bọn chúng kêu
anh Cương qua tàu của bọn chúng nói chuyện và hỏi có vũ khí, tiền bạc, để trả
cho bọn chúng thì bọn chúng sẽ kéo vào bờ. Anh Cương trình bày hiện trạng của
chiếc ghe vượt biển vừa dứt lời thì, lập tức bọn chúng rú lên như khỉ giả nhân
rồi tràn qua ghe của chúng tôi. Một màn cướp phá tàn khốc lại diễn ra. Lần này
bọn cướp đến với ba chiếc tàu nên sự cướp phá dĩ nhiên là tàn bạo hơn. Có những
tên cướp đã hãm hiếp những người đàn bà ngay trong lòng ghe. Một số phụ nữ thì
bị dẫn về tàu của bọn chúng. Bọn chúng vừa lôi kéo phụ nữ vừa nhảy vừa hét cứ y
như những con khỉ đột.Tôi nhìn thấy chú Gao đang ôm cô bạn gái đã bất tỉnh vì
quá sợ hãi. Thân hình cô bạn gái của chú Gao quá nhỏ, nhỏ như đứa bé con và hơn
nữa đã được bôi khắp thân thể dầu mỡ của máy ghe nên những tên cướp đã... tha.
Buổi
chiều cùng ngày, bọn cướp thả những người đàn bà về lại ghe và cũng cho thức ăn
và nước uống.
Ngày trôi thứ mười một.
Khoảng
giữa buổi trưa có một anh thanh niên thật trẻ tuổi đến bên tôi và hỏi:
“Anh
Ba Hùng ơi, anh có đọc truyện người tù khổ sai Papillon chưa?”
Quyển
sách rất nổi tiếng của tác giả Henry Charriere tôi đã đọc qua rất nhiều lần.Tôi
đang nghĩ có lẽ anh chàng này muốn làm một việc giống như Henry Charriere
chăng, thì anh chàng đã tiếp:
“Papillon đã vượt ngục trong
điều kiện hết sức khó khăn và rồi đã thành công. Ở trên ghe này có nhiều những
can nhựa trống, em xin anh cấp cho em những can không đó và ít nước uống để em
thả trôi vô bờ trước. Em sẽ thông báo cho Cao ủy biết để Cao ủy cho người ra cứu”.
Đề
nghị quá táo bạo và… quá hấp dẫn! Tôi bàn qua với anh Cương và với mọi người
trên ghe. Tất cả đều đồng ý và sau đó tôi quyên góp được nửa “bình ton”
chanh và đường. Tôi cấp cho anh chàng “Papillon” hai “bình ton” nước, cột mười
can nhựa lớn lại với nhau và đặt lên trên đó một miếng ván. Anh Cương viết một
lá thư tiếng Anh và bỏ vào cái chai đậy nắp lại thật kín, cột vào cánh tay anh
“Papillon”. Khi chiếc bè làm gần xong thì có một anh chàng khác đến xin tháp
tùng theo anh “Papillon” và, anh “Papillon” xin tôi cho hai người cùng đi chung
cho vui. Tôi đồng ý.
Khi
chiếc bè được thả xuống với hai anh chàng bên trên thì nước ngập ngang lưng của
hai anh nhưng, hai anh đã yêu cầu tháo giây cột giữa chiếc bè với chiếc ghe để
hai anh ra đi. Khi giây đã được tháo ra khỏi chiếc ghe thì rõ ràng chiếc ghe
tuy lớn, nhưng đã trôi qua mặt chiếc bè. Chiếc bè có lẽ đang đứng một chỗ chứ
không trôi vì chiếc ghe đã trôi qua mặt chiếc bè khá xa. Chúng tôi đã hỏi lại
là có thay đổi ý kiến gì không thì, hai cánh tay của hai anh chàng đưa lên cao
vẫy vẫy ra dấu từ giã chúng tôi.
Khi
chiếc bè được thả xuống với hai người bạn trẻ bên trên, lúc đó trời còn sáng lắm
vì đang là buổi trưa. Khi hai cánh tay của hai người bạn trẻ ra dấu từ giã
chúng tôi thì, khoảng năm phút sau – Tôi
nghĩ không quá năm phút – trời bắt đầu âm u và giông tố nổi lên ầm ầm báo trước
một cơn bão sẽ đến. Lúc này thì không còn cách nào nhìn thấy hai người bạn trẻ
đó nữa rồi. Cơn bão đã kéo đến thật nhanh, rồi sóng to gió lớn nổi lên cuồn cuộn
y như ngày đầu ra đi. Tôi không còn can đảm để nhìn những ngọn sóng tàn bạo đó
nữa. Tôi nhắm mắt lại vì sợ hãi và rồi một giấc ngủ đã bất chợt đến với tôi. Giấc ngủ với những cơn ác mộng
kinh hoàng!
Ngày
trôi thứ mười hai.
Sáng nay không ai nói với ai về
chuyện hai người bạn trẻ của ngày hôm qua. Mọi người đều hiểu rằng, hai người bạn
trẻ đã không qua được cơn bão quá lớn như ngày đầu ra khơi. Phải chăng hai người
bạn trẻ đó đã hy sinh cho mọi người được sống? Có ai đó vừa nêu ra con số một
trăm mười ba người trên ghe là con số không may mắn. Những người theo đạo Phật
thì đang xầm xì về những cái gọi là hiện tượng. Tôi làm dấu thánh giá và đọc
kinh cầu cho linh hồn hai người bạn trẻ đó. Tôi tin một cách xác quyết là Đức Mẹ
sẽ giúp chiếc ghe đến bến bờ bình an, mặc dù có nhiều khó khăn. Theo lẽ thì tôi
đã đi trong chiếc ghe của tôi chứ không phải chiếc ghe này. Trước đó, tôi thường
đến cầu nguyện ở nhà thờ Fatima Bình-Triệu. Trong lời cầu xin tôi có khấn: “Nếu
Đức Mẹ thấy việc con ra đi sẽ có những trắc trở thì xin Đức Mẹ hãy làm những trở
ngại xảy ra trước để con không phải đi”.
Trước ngày dự tính ra đi trên chiếc ghe của tôi, tôi đã cho kéo chiếc ghe đó
lên ụ và cho bọc nhôm xung quanh lườn ghe. Tôi trang bị chiếc máy mới và thật mạnh.
Đến hôm ra đi, khi mọi người vào hết trong lòng ghe thì có người lên tiếng:
“Trong ghe nhiều nước quá”. Tôi
cho thợ máy nổ máy để bơm nước ra. Thật không thể ngờ được, một cái máy thật mới
có thể nói là hoàn hảo nhất và vừa ý nhất trong các cái máy, thế mà đêm ấy
không làm sao cho nó chuyển động được. Trời bắt đầu sáng tỏ dần và tôi phải ém
người lên bãi vắng thôi. Khi mọi người đã tản mác lên các bãi vắng thì cái máy
lúc này bỗng dưng… chịu nổ. Tôi cho người tài công lái chiếc ghe ra biển để tìm
chỗ rỉ nước và sửa chữa. Trưa hôm đó, từ Sàigòn, tôi bàng hoàng nhận được tin
là chiếc ghe của tôi đã bị chìm ở ngoài khơi vì cái lỗ rỉ nước bị nước phá càng
lúc càng lớn hơn và không thể nào trám lại được.
Ngày
trôi thứ mười ba.
Đã
hai ngày trôi qua tạm coi như bình yên vì không bị một vụ cướp nào.Chiếc ghe vẫn
trôi theo thế lùi như lúc ban đầu. Nhiều người đã lên trên sàn ghe nằm hoặc bơi
lội xung quanh chiếc ghe. Có người thanh niên đến bên tôi thủ thỉ:
“Có mấy chiếc ghe ở ngoài xa
kia, mình hãy nổi lửa lên để gọi họ lại... cướp đi anh Hùng”.
Tôi
nhìn người vừa nói và phản đối:
“Anh
điên sao? Anh không sợ cho mấy người đàn bà à?”
Lúc
đó có mấy chị đang nằm gần đó vội lên tiếng:
“Kệ nó anh Hùng à! Cứ đốt lửa
lên kêu tụi nó lại cướp rồi tụi nó sẽ cho mình gạo, nước và cá. Mình cũng không
còn nhiều thức ăn”.
“Mấy
chị không sợ… bị à?”
“Còn
gì nữa mà sợ anh Hùng! Nó... xong rồi thì mình sẽ có ăn để cầm cự chứ!”
Tôi
quay mặt nhìn về hướng các chiếc ghe đang ở ngoài xa và thầm nghĩ: “Nếu sau này
mọi người đến được bến bờ tự do là nhờ ở sự hy sinh của các người đàn bà này.”
Tôi đồng ý cho đốt lửa trong cái thùng phuy. Cái thùng này giờ đây có hai công
dụng. Một, để nổi lửa lên cầu cứu các tàu lớn của Tây phương và tàu cướp. Hai,
dùng để chứa nước nếu tàu cướp cho.
Lửa
vừa lên liền có một chiếc tàu từ xa chuyển hướng chạy về phía chúng tôi. Chúng
tôi đã chuẩn bị sẵn sàng để đón nhận những điều kinh khủng sắp xảy đến. Các người
đàn bà đã bôi dầu nhớt khắp người và mặt mũi rồi.
Cảnh
cướp phá và hãm hiếp lại diễn ra khi chiếc tàu đánh cá của bọn cướp Thái Lan cặp
sát vào chiếc ghe đi tìm tự do của chúng tôi. Lần cướp này người bạn gái của
chú Gao không thoát được. Bọn cướp quá hung bạo! Có lẽ vì bọn chúng, sau
khi lục soát đã không cướp được gì nên tỏ
ra giận dữ. Bọn chúng cởi trần truồng chạy nhảy trên chiếc ghe như những người
đang lên cơn điên. Gặp người đàn bà nào là bọn chúng hiếp ngay tại chỗ, bọn
chúng không một chút gì gọi là e thẹn.Tiếng khóc la vang inh ỏi, tiếng đánh đập
người để tra khảo của, rồi tiếng van lạy bọn cướp khi bọn chúng đập phá ghe…
hòa chung với tiếng cười và tiếng la tiếng hét của bọn cướp tạo thành một thứ
âm thanh hoảng loạn mà tôi chưa bao giờ được nghe qua, chưa bao giờ được chứng
kiến cảnh tượng hãi hùng này.
Mọi chuyện rồi cũng lại qua. Ngày
hôm nay anh Phan Chánh Cương và tôi không còn thiết gì đến cơm và cá nữa. Tàn
nhẫn quá! Vô nhân đạo quá! Không thể tưởng tượng nỗi lại có ngày được chứng kiến
cái cảnh dã man tàn bạo này! Ba lần cướp trước đây bọn cướp tỏ ra rất tôn trọng
anh Cương trong cương vị thuyền trưởng, nhưng, lần này thì bọn cướp đã đánh anh
Cương và nhiều người đàn ông để khai thác của. Dĩ nhiên tôi cũng bị bọn chúng đấm
đá tơi bời hoa lá cành luôn. Khi bọn cướp đang hành động bỗng có một anh chàng
kêu tên một người bạn là Nam, lập tức tên Thái Lan thuyền trưởng kê súng vào đầu
anh ta và hỏi : “Mày biết tiếng Thái Lan à?” Dĩ nhiên tên thuyền trưởng hỏi
bằng tiếng Thái. Anh chàng nọ ú ớ. Anh Cương phải thông dịch cho tên thuyền trưởng
hiểu. Tên thuyền trưởng Thái Lan nói với anh Cương là hắn tưởng anh chàng nọ
xin nước. Như vậy tiếng Thái Lan, nước gọi là nam! (Đúng 100%)
Ngày
trôi thứ mười bốn.
“Lại
một chiếc tàu cướp đến!” Anh Cương chán nản nói với tôi. Bây giờ là vào khoảng
giữa trưa.
Khi
chiếc tàu Thái Lan xáp đến, tên thuyền trưởng người Thái sau khi nói chuyện với
anh Cương, hắn đã nhốt tất cả một trăm mười người – Anh Cương được miễn – xuống
hầm cá. Sau này anh Cương nói lại với tôi là, khi mọi người bị nhốt hết xuống hầm
cá thì bọn cướp đã qua ghe lục soát rất kỹ. Lục soát xong, chúng kêu từng người
một lên và khám xét kỹ. May mắn quá, bọn này không hãm hiếp một người phụ nữ
nào. Ai bị khám xong thì được trở về lại ghe. Trước khi bỏ đi, bọn này cũng cấp
cho ghe chúng tôi gạo, cá và. . . nam!
Chiều
đến anh cựu Trung úy An Ninh quân đội cho tôi biết là, trên ghe mất một người.
Chúng tôi yêu cầu tất cả đàn ông lên sàn ghe để kiểm. Lúc đó có một bà xẩm già
lên tiếng:
“Thằng con tôi nó giấu trong
mình nó ba cây vàng và trốn ở lại trong hầm cá của chiếc tàu hồi trưa rồi”.
Tôi
hỏi bà xẩm già:
“Tại
sao con bà trốn lại trong hầm cá làm gì?”
“Với ba cây vàng mà nó giấu
trong mình, nó sẽ đưa cho tàu đó để được đưa vào bờ”.
Khoảng
thời gian ba tháng trên đảo, ngày tôi đi định cư, Cao Ủy tị nạn vẫn chưa có tin
tức gì về người con của bà xẩm già.
Ngày
trôi thứ mười lăm.
Từ
sáng sớm, một vài người thanh niên đã tự động nổi lửa lên khi nhìn thấy từ xa một
chiếc tàu đang kéo lưới. Khi chiếc tàu đến gần thì những người thanh niên đến
đánh thức anh Cương và tôi dậy. Chiếc tàu đang kéo lưới đã quăng dây qua cho
chúng tôi để chúng tôi cột chặt vào ghe. Chiếc tàu chạy trước kéo lưới và kéo
theo chiếc ghe của chúng tôi. Ông thuyền trưởng của chiếc tàu có lẽ là người
Trung Hoa. Ông cũng quấn xà rông. Ông đứng khoanh tay nhìn chúng tôi một lúc rồi
ra dấu cho hai người bơi qua tàu của ông. Ông dẫn hai người đó vào nhà bếp và
chỉ cho hai người chỗ nấu cơm để nấu cho tất cả người trên ghe của chúng tôi
ăn. Ông cũng cho kêu thêm hai người nữa qua tàu ông để chuyền nước về ghe đồng
thời ông cũng liệng qua ghe những lon thuốc lá thơm. Hơn mười ngày không được
hút, chúng tôi đã “rít” những hơi thuốc cho thật đầy lồng phổi. Có vài người
đã... nằm thẳng cẳng vì bị say thuốc.
Khi
những thùng cơm và cá đã được chuyển qua ghe của chúng tôi. Ông thuyền trưởng tốt
bụng vẫy tay ra dấu từ giã chúng tôi rồi cắt dây và cho tàu chạy thẳng ra khơi.
Chiều cùng ngày hôm đó, một
chiếc tàu cướp chạy về hướng chúng tôi. Lại cướp và hãm hiếp! Đến khuya bọn cướp
bỏ đi sau khi cũng cho gạo, cá và... nam!
Ngày
trôi thứ mười sáu.
Chiều
hôm nay chúng tôi nhìn thấy từ xa có một lằn ngang dài thật nhỏ màu vàng. Chúng
tôi với những con mắt không còn trong sáng, không còn tinh tường nữa nên không
biết đó là cái lằn gì. Bao nhiêu sự suy đoán được đưa ra với nhiều hy vọng.
Đang nhìn về phía trước và bàn
tán nên không một ai để ý có một chiếc tàu cướp từ phía sau đã đến gần ghe của
chúng tôi. Những người trên chiếc tàu này cố làm ra vẻ hiền lành và thân thiện.
Người thuyền trưởng của chiếc tàu đó nói với anh Cương là, hắn chỉ cần có hai
(2) lượng vàng thôi và khi đêm xuống hắn sẽ kéo chiếc ghe của chúng tôi vào bờ. Ông ta cố làm ra vẻ thật thà khi nói với anh Cương:
“Khi
vào đến bờ rồi anh nhớ đừng khai là tàu tôi kéo nhé, nếu tiết lộ tôi sẽ bị bắt
đó”.
Người
Quốc Gia chúng ta dù sao cũng là những con người lương thiện! Vì bản chất lương
thiện nên mới bị gạt năm Tết MậuThân và sau đó là... một tháng học tập. Qua lời
nói và thái độ quả quyết của anh Phan-Chánh-Cương, mọi người chỉ trong có mười
phút đã gom góp đủ số vàng mà tên thuyền trưởng đòi hỏi. Sau khi anh Cương
thông báo đã gom đủ số. Tên thuyền trưởng nói, cứ giữ đó để khi vào gần bờ thì
giao cho hắn.
Năm
giờ sáng ngày trôi thứ mười bảy.
Cô
gái trẻ người Huế tốt nghiệp đại học môn Anh văn là người từ đầu đã chiếm một
chỗ nằm trước mũi ghe, nơi để thùng chứa nước nguyên thủy của chiếc ghe. Tại
nơi đây, cô đã giấu được những món nữ trang mà bọn cướp không thể nào khám
phá được. Tin ở sự quả quyết của anh
Cương, cô gái Huế đã đóng góp ba chỉ vàng. Sáng sớm hôm nay khi thấy chiếc tàu
cướp quăng giây qua chiếc ghe, cô nhìn đồng hồ mà cô còn giữ được. Cô nghĩ: “Tại
sao tụi này không kéo vào ban đêm như tụi nó lo sợ mà lại kéo vào lúc này? Hay
là... ” Vừa khi cất giấu xong cái đồng hồ và những món nữ trang thì bọn người
trên chiếc tàu cướp kia, lúc này không còn một chút gì là thân thiện nữa. Bọn
chúng nhảy qua ghe của chúng tôi và bọn chúng bắt anh Cương đưa vàng rồi thẳng
tay đánh đập nhiều người để mong lấy thêm vàng. Bọn chúng đang cướp phá thì từ
bên tàu của bọn chúng có một tên chạy ra nói gì đó, thế là tất cả bọn cướp lập
tức nhảy hết xuống biển lội qua tàu của bọn chúng và chạy mất.
A! Cái lằn màu vàng mà mọi người
thấy ngày hôm
qua, bây giờ đã hiện ra rõ ràng hơn, đó là dãy cát của bờ biển.
Mười
giờ sáng ngày trôi thứ mười bảy.
Dãy
cát đã hiện ra rất rõ ràng. Anh Cương cho biết đây là bờ biển của Mã Lai chứ
không thể của Thái Lan được. Thôi thì của nước nào cũng được miễn là đừng của
Việt Nam là vui rồi. Tất cả mọi người hầu như đã lên hết trên sàn ghe. Có những
chiếc xuồng nhỏ của những người dân đi câu cá chạy ngang qua ghe của chúng tôi
và còn vẫy tay chào rất là... thân thiện.
Mười
một giờ ba mươi ngày trôi thứ mười bảy.
Từ trên trời có một chiếc trực
thăng từ xa bay đến lượn hai vòng trên ghe của chúng tôi và rồi nó đáp xuống một
trại binh nằm cạnh
bờ biển cách đó không xa lắm.
Mười
hai giờ ba mươi phút ngày trôi thứ mười bảy.
Đúng
mười hai giờ ba mươi phút của ngày trôi thứ mười bảy, ngày 01 tháng 02 năm
1981, chiếc ghe của chúng tôi... bị mắc cạn lần thứ hai. Nhưng, lần mắc cạn này
lại rất may mắn được nằm trên bờ biển của Mã-Lai-Á. Những người lính Mã Lai Á
như đã được người trên chiếc trực thăng báo trước nên tôi thấy họ đang từ xa đi
lại phía chiếc ghe của chúng tôi. Những người trên ghe cũng đang lần lượt nhảy
xuống bãi cát. Một số nằm ngay xuống bãi cát. Một số còn sức liền đưa những
cánh tay gầy guộc ra giúp những người quá yếu không thể nhảy xuống bãi cát được.
Một số đang lo cho những người phụ nữ vì họ không còn đủ sức để bước đi. Sau
khi không còn một người nào trong ghe, tôi là người sau cùng lên bờ. Vì ảnh hưởng
vật lý của những ngày trên ghe nên, khi chạy được vài bước tôi bị té nằm sõng
soài trên bãi cát… nằm ngửa mặt nhìn lên bầu trời trong xanh mà vui vì biết rằng,
từ hôm nay tôi không còn bị sống trong sự sợ hãi, không bị thiếu ăn thiếu mặc
do bọn Cộng Sản Bắc Việt tạo ra.
Lúc
này tôi mới để ý đến những đứa nhỏ… khoảng chục em. Tội nghiệp các em. Trước
khi đi vượt biển thân thể các em có lẽ cũng không… tròn trĩnh được vì hằng ngày
các em chỉ có khoai sắn và bo bo cho qua ngày. Nhưng, sau mười bảy ngày ‘chật vật’
các em giờ đây cũng chỉ còn da bọc xương như người thân của các em vậy. Các em
nhìn bãi biển nhưng các em không vui không mừng vì sẽ được tung tăng bơi lội,
mà, hai con mắt của các em mở lớn vẻ hốt hoảng nhìn người thân và những người
cùng ghe đang nằm la liệt trên bãi cát… mà khóc. Có lẽ các em cũng chẳng hiểu tại
sao. Trong các em có một số được sinh ra khi quê hưong bị tiếng bom tiếng đạn với
những xác người do một số người gọi là đồng chủng đã bắn pháo bừa bãi vô nơi
các em sinh sống mà không cần biết hậu quả sẽ như thế nào. Khi tiếng bom tiếng
đạn thật sự ngừng nổ các em chưa kịp vui mừng lại phải bị bắt ăn những thứ mà
ngày trước người thân của các em chỉ dành cho gia súc. Các em bị kỳ thị vì người
thân của các em bị gọi là Ngụy quân Ngụy quyền. Các em chưa đủ khôn để biết về
quê hương, cũng như để hiểu được tại sao mình bị đọa đầy. Nhưng, giờ đây các em
đã phải xa lìa quê hương rồi. Mai này khi các em lớn khôn, chắc chắn các em
không còn nhớ cái ngày hôm nay. Nhưng, chắc chắn các em sẽ được nghe người thân
của các em kể lại. Tôi nhìn đến những người phụ nữ là những người mẹ, người
thân của các em… đang nằm nửa người trên cát nửa người dưới nước. Nhìn những
người đàn bà đó bây giờ trông chẳng khác gì những bộ xương cách trí mà ngày còn
cắp sách đến trường học sinh nào cũng nhìn thấy hình ảnh và có học qua. Họ tiều
tụy quá sức. Nhiều người không còn sức để đứng và bước đi… Nhưng, chính những
con người đáng thương đó đã hy sinh, đã chịu đựng tủi nhục để tất cả mọi người
trên ghe có được miếng ăn để có sức mà sống cho đến ngày hôm nay. Tôi không biết
các em có nhìn thấy những cảnh man rợ do bọn người Thái Lan đã đối xử với người
thân của các em không. Nếu có, tôi cầu
xin Bề Trên hãy cho các em quên hết để các em tận hưởng cuộc sống thật sự tự do
mà trưa hôm nay là ngày đầu tiên các em được lãnh nhận. Bọn người Thái Lan đó
đích thật là những con quỷ… trong nhất thời thôi nên các em đừng nhớ đến làm
gì. Có nhớ chăng là nhớ đến những con quỷ truyền kiếp đã và sẽ tiếp tục gieo rắc
đau thương gieo rắc hận thù trên mảnh đất Miền Nam thân yêu mà các em cùng người
thân vừa lìa xa chưa được bao ngày.
***
Cuộc
chiến ý thức hệ do Bắc Cộng chủ xướng với vũ khí của Nga Tàu đã ngưng từ lâu,
nhưng, đến nay đã gần nửa thế kỷ rồi mà xem ra cuộc chiến vẫn chưa tàn. Thời
gian trôi qua đã từng ấy năm, vậy mà giờ đây trên quê hương Việt Nam thân yêu vẫn
còn cảnh kỳ thị Nam Bắc, cảnh đói nghèo, bất công và, cảnh cướp của giết người
thì không thể nào tưởng tượng nổi lại có thể xảy ra trên quê hương một cách khốn
nạn đến như vậy được. Người dân nghèo bị cướp đất bị phân biệt nên vẫn phải tìm
đủ mọi cách để rời bỏ quê hương rời xa nơi chôn nhau cắt rún để tìm sự sống nơi
xứ người. Người Việt Nam sẽ vẫn chia rẽ và sẽ vẫn hận thù đến khi nào cái đảng
cộng sản Việt Nam man rợ không còn nữa thì người Việt Nam mới hết thù hận và hết
chia rẽ! Một chế độ man rợ đã thẳng tay xóa bỏ mọi truyền thống tốt đẹp của dân
tộc Việt từ ngày dựng nước cho đến nay. Tiền nhân của dân tộc Việt chúng ta có
rất nhiều và tên tuổi được lưu danh thiên cổ. Riêng tên Hồ Chí Minh và đảng cộng
sản Việt Nam sẽ được lưu danh thiên cổ và lưu xú vạn niên!!!
Giờ
đây một trăm lẻ chín người trên chiếc ghe mang số SS 1505 IA hiện đang ở đâu
trên khắp quả địa cầu này? Những ai còn và những ai đã ra đi vĩnh viễn?
Chúng
ta rồi đây lần lượt cũng sẽ mất tất cả!
Mất gì ? Chắc Chắn Một Điều, Chúng Ta Sẽ Không Bao Giờ
Mất Quê Hương và Mất Tình Người Việt Nam!. /.
Topa
(Hòa-Lan )