Vừa đi làm về, thấy ông Tư đang ngồi đọc sách, Tân hỏi ngay:
-Ba đang xem cổ thư phải không?
Ông Tư tùm tỉm cười đáp:
-Con muốn tìm hiểu điều gì nữa đây? Thật ra, hôm nay ba đang đọc lại “Việt nam thi nhân tiền chiến.” Hay tuyệt!
Tân chìa ra hai ba tập thơ, than phiền:
-Khổ quá đi mất! Chẳng biết tại sao bạn con tự nhiên trở thành nhà thơ cả đám.
Chưa hết, nào là bà con họ hàng, đồng nghiệp đua nhau làm thơ, ra mắt tập thơ,
in thơ tặng. Có người nhờ con viết cảm nhận, viết lời tựa cho họ. Chết nỗi, thơ
tràn lan trên thi đàn nhưng tìm một người như cỡ Nguyễn Bính thôi cũng chưa ra
chứ đừng nói đến Tản Đà, Quách Tấn….
Ông Tư gật đầu biểu đồng
tình:
-Thơ bây giờ là thơ,
không hẳn là Thi như ngày xưa đâu con.
Tân ngạc nhiên hỏi:
-Vậy hả ba? Ba giảng
cho con biết được không? Điều này thú vị đây.
Ông Tư vui vẻ nói:
-Nguồn gốc của Chữ Thi 詩 tìm thấy sớm nhất vào thời kỳ văn tự Chiến Quốc* (475 -221 TCN), không thấy trên văn tự Giáp cốt văn (1800 TCN) và Chung đỉnh văn (1300 TCN) trước đó. Thoạt tiên, nó xuất hiện bằng chữ “tự” 寺 (pháp đình), vốn biểu thị của chữ “am” 庵 hoặc 蓭 (lều tranh, miếu thờ, cái thất nhỏ để cúng thần linh), sau đó, khi cường điệu, âm nhạc, ca vũ cùng văn từ phát triển tạo ra chữ “thiệt” 舌 (cái lưỡi) hoặc chữ “khẩu” 口 (cái miệng), trên thêm bộ Đầu, với hai gạch ngang thành chữ “ngôn” 言 (lời nói). Sau cùng, theo thời gian với chữ ngôn (bên trái) và chữ tự (bên phải) kết hợp lại thành chữ THI 詩, được hiểu là lời nói xuất phát từ cửa am miếu. Trong cổ văn, chữ THI 詩 này được viết tắt THI 言+止. -Đến thời kỳ Tiên Tần (223 TCN) qua cuộc cải cách thống nhất văn tự thành loại chữ Triện, cũng giải thích:
Ngôn 言+Tự 寺 =
Thi 詩, biểu thị tế tự chúc tụng 表示祭祀祝誦.
-Lễ Ký, thiên Nội Tắc,
viết: Quốc quân thế tử sinh, cáo ư Xuân…tam
nhật, bốc sĩ phụ chi, cát giả túc tề, triều phục tẩm môn ngoại, THI phụ chi…國君世子生,告於君... 三曰,卜 士負之,吉者宿齊,朝服寢門外,詩負之. (Một
thái tử khi sinh ra được cáo thị, sau ba ngày thì các nhà bói toán được gọi đến
để xem vận mệnh, còn các học sĩ mặc triều phục chỉnh tề túc trực bên ngoài để
sáng tác THI tức làm thơ tán tụng).
-Kinh Lễ, thiên Nghi
Lễ, viết: Thi, do thừa dã. Vị phụng nạp chi hoài trung 詩,猶承也.謂 奉納之懷中
(Thơ là tưởng niệm công đức và cơ nghiệp tiên tổ, lời phúng tụng, từ khúc tế lễ
để lưu truyền lại cho đời sau).
Như thế, từ góc nhìn
khởi nguyên của chữ THI, cho thấy: Ý nghĩa gốc của THI vốn sử dụng để biểu đạt
tư tưởng thông qua ngôn ngữ thần thoại, tín ngưỡng thờ phượng, cung phụng cúng
tế, cầu khấn thần linh, ca ngợi công đức tiên vương, được cử hành trong tông miếu,
am thờ hay chùa chiền.
-Mao Thi, lời tựa, viết:
Thi giả, chí chi sở chi dã. Tại tâm vi chí, phát ngôn vi thi 詩者,志 之所之也,在心為志,發言為詩
(Thơ là nơi dung chứa ý chí, chí này ở trong tâm, khi nói ra lời thì thành
thơ). Thành ngữ :”Thi dĩ ngôn chí, văn dĩ tải đạo” 詩以言志,文以載道 vốn
xuất xứ từ nghĩa của câu trên. Từ chữ Chí và chữ Ngôn trên có thể tìm hiểu sâu
hơn về chữ Thi:
● Chữ Chí 志
theo Tiểu Triện, trên là chữ Chi 之, dưới
là chữ Tâm 心, đến khi đổi sang lối viết
chữ Lệ, Khải thư, chữ Chi thành chữ Sĩ 士. Do
đó, Chí được hiểu là tâm ý, chí hướng của kẻ sĩ, nhất nhất bởi tâm mà ra.
● Chữ Ngôn 言
theo Thuyết văn giải tự, viết: Trực ngôn viết ngôn, luận nan viết ngữ 直言曰言,論難曰語 (Lời
nói thẳng thắn là ngôn, khi bàn luận cái khó gọi là ngữ). Ngôn là tự mình trần
thuật, biểu đạt, khi ngôn tương quan với ngữ, chủ yếu dùng để đàm luận với người
khác. Điều này trong Lễ Ký giải thích : Tam
niên chi biểu, ngôn
nhi bất ngữ, đối nhi bất đáp 三年之表,言而不語,對而不答 (khoảng tuổi lên ba, trẻ chỉ
biết nói để bày tỏ chứ chưa biết dùng ngôn ngữ đối đáp)
Tuy nhiên, nghĩa chữ
THI chưa dừng lại ở đây.
—Sử ký Tư Mã Thiên,
Tư Mã Tương Như liệt truyện, viết: Thi đại trạch chi bác, quảng phù thuỵ chi
phú 詩大澤之博,廣符瑞之富
(Thi dung chứa sự sự quảng đại, biểu hiện tình cảnh tốt đẹp, diễn tả về đời sống
phong phú).
—Hán Thư Âm Nghĩa.,
viết: Thi, ca vịnh công đức dã 詩,歌詠功德也
(Thi dùng để ngâm vịnh, ca ngợi công đức cao cả).
—Quốc Ngữ, phần Lỗ Ngữ,
viết: Thi sở dĩ hội ý, ca sở dĩ vịnh thi dã 詩所以會意,歌所以 詠詩也
(Thi là nơi hội tụ tâm tư, ý tưởng và ca ngâm là để ngợi khen nét đẹp của Thi).
Trong truyền thống
văn hoá Hoa Hạ, bắt nguồn của thi ca chính là Kinh Thi, với lời lẽ tự nhiên,
chân thật, mộc mạc, không bị gò ép theo niêm luật, không trau chuốt, đẽo gọt ,
ý tứ cô đọng, lại trong sáng, nên được xem là mẫu mực như trong Luận Ngữ, thiên
Vi Chính, Tử viết: Thi tam bách, nhất ngôn dĩ tế chi, viết: Tư vô tà 詩 三百, 一言以蔽之, 曰: 思無邪 (Khổng
Tử nói: Kinh Thi có ba trăm bài, có thể lấy một câu để tóm tắt là không có tà xấu
ở trong). Theo biểu hiện tốt đẹp ấy, trong thiên Dương Hoá, Khổng Tử nói:
Thi khả dĩ hưng, khả
dĩ quán, khả dĩ quần, khả dĩ oán, nhĩ chi sự phụ, viễn chi sự quân, đa thức ư
điểu thú thảo mộc chi danh 詩可以興,可以觀,可以群,可以怨,邇之事父,遠之事 君,多識於鳥獸草木之名 (Khổng
tử nói: Xem Kinh Thi, có thể hứng khởi tâm trí, có khả
năng quan sát sự vật,
hoà hợp được với người khác, hiểu được sự buồn giận. Gần thì biết giữ đạo hiếu
với cha mẹ, xa thì biết tận trung với vua. Lại còn có nhiều kiến thức về các loại
chim, thú, cỏ cây nữa).
Đến đời Tống, chữ THI
trong lịch sử văn học được khoác thêm nghĩa mới, danh Nho Chu Hy (1130-1200)
trong “Thi Tập Truyện“ ở lời Tựa, nói: Hoặc hữu vấn ư dư viết: Thi hà vị nhi
tác dã? Dư ứng chi viết: Nhân sinh nhi tĩnh, thiên chi tính dã; Cảm ư vật nhi động,
tính chi dục dã 或有問於余曰: 詩何謂而作也? 余應之曰: 人生而靜,天之性也; 感於 物而動, 性之欲也 (Hoặc
có người hỏi tôi : Vì đâu mà thơ được sáng tác? Tôi đáp ngay:
Trẻ sơ sinh bản chất
ngây thơ, trong trắng, đó là tính trời ban cho. Về sau vì sự vật xung quanh làm
động lòng ở tính mà phát sinh ra tình cảm) . Nói cách khác, Thi là dư âm của lời
nói tĩnh nhàn, thanh trong khi tâm con người cảm xúc với ngoại cảnh mới
biểu hiện ra.
Nhận thấy mình đã nói
hơi nhiều về nguồn gốc chữ Thi, ông Tư ngừng lời hỏi Tân có ý kiến gì muốn bày
tỏ không? Tân rót trà mời cha rồi nhẹ nhàng nói:
-Con rất cảm ơn ba đã
giảng giải cho con hiểu phần nào về lịch sử diễn biến của chữ Thi. Nhưng con
cũng thật sự muốn biết Thi ca của nước ta bắt đầu từ thời kỳ nào?
Ông Tư ngẫm nghĩ một
lát rồi chậm rãi nói:
-Ba không chắc đích
xác có từ bao giờ, nhưng theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư ghi chép:
Năm Đinh Hợi 987, dưới
thời Tiền Lê, vua Lê Đại Hành nhờ thiền sư Pháp Thuận giả dạng người chèo đò
đón tiếp sứ nhà Tống là Lý Giác. Sứ thần này là người thích thi văn, khi thấy
hai con gỗng trên mặt nước, bèn ngâm:
Nga nga lưỡng nga
nga, 鵝鵝兩鵝鵝
Ngưỡng diện hướng
thiên nhai. 仰面向天涯
Nghĩa là: Song song
ngỗng một đôi; Ngước mắt nhìn chân trời.
Pháp Thuận đang chèo
đò, bèn ngâm tiếp:
Bạch mao phô lục thuỷ,
白毛鋪綠水
Hồng trạo bài thanh
ba. 紅棹擺青波
Nghĩa là: Nước trong
phô lông trắng; Chân hồng sóng xanh bơi.
Sự ứng đối nhanh
chóng và tài tình, ý nhị, sâu sắc của Ngài Pháp Thuận làm Lý Giác rất cảm phục.
Đến khi ông từ biệt về nước, vua lại nhờ thiền sư Khuông Việt làm thơ để tiễn,
đó là bài Ngọc Lang Quy 玉郎䢜, được
chép trong Thiền Uyển Tập Anh, ở đây chỉ
trích ra hai câu đầu:
Tường quang phong hảo cẩm phàm trương,
祥光風好錦帆張,
Dao vọng thần tiên phục
đế hương.
遙望神仙復帝鄉.
Tạm dịch:
Trời quang gió thuận
cánh buồm dương,
Thần tiên xa vọng, hồi
cố hương.
Có thể Lý Giác khi trở
về sẽ tâu lại rằng nước Nam quả thật có nhiều nhân tài, từ đó thôi không nghĩ đến
việc xâm chiếm nữa. Thật ra cổ đức làm thơ cũng mong chuyên tải nhiều ý nghĩa,
bởi thơ là sự cộng hưởng giữa người với nhau, hoặc với vũ trụ, vạn
vật…. Thơ gieo rắc giữa
mộng và thực, luôn hiện diện trong cuộc đời, biểu đạt từng cảm xúc nơi mọi cảnh
sắc. Thế nên, Nguyễn Du trong những năm lưu lạc xứ người, có lần đứng ngắm dòng
sông Hán Dương uốn lượn, đọc bài thơ “Hoàng Hạc Lâu” của
Thôi Hiệu trên vách
đá, liền cảm tác viết: “Thi thành thảo thụ giai thiên cổ” 詩成草樹偕千 古.(Bài
thơ tuyệt tác vừa hoàn thành thì cả thơ lẫn cỏ cây trong bài thơ đều trường tồn
với thời gian), vào khoảnh khắc ấy, tâm hồn con người như chấp cánh bay lên,
hoà nhập cùng thiên nhiên, vạn vật.
Tân dường như được cuốn
hút bởi những lời nói đầy cảm xúc của cha, hình ảnh Tố Như tiên sinh trầm ngâm
bên dòng Hán Dương chợt hiện ra thật rõ ràng trong tâm trí, thơ và thi nhân,
nào phải ai cũng như ai! Nghĩ đến đây, anh bày tỏ:
-Thưa ba! Con nhận thấy
thơ là một nghệ thuật dùng ngôn từ và trí tưởng tượng để diễn tả tư tưởng, tình
cảm, vần điệu du dương có thể phổ nhạc, đầy màu sắc sống động như tranh vẽ. Bởi
vì thơ có nhiều đề tài, thể loại thì người làm thơ chắc cũng có phân biệt, phải
không ba?
Ông Tư trả lời:
-Thơ có nhiều thể loại,
từ thời xa xưa, trong Kinh Lễ, thiên Xuân Quan, Đại Sư đã có Lục Thi: Phong,
Nhã, Tụng, Tỉ, Phú, Hứng. Ở đây ba chỉ trích dẫn một số điển hình thôi:
● Sở Từ thi: Bài Ly
Tao của Khuất Nguyên thời Chiến quốc (屈原,
340 - 278 TCN) trong đó có bốn câu cảm thán về thời gian:
Nhật nguyệt hốt kỳ bất
yêm hề 日月忽其不淹兮
Xuân dữ thu kỳ đại tự.
春與秋其代序
Duy thảo mộc chi linh
lạc hề 惟草木之零落兮
Khủng mỹ nhân chi trì
mộ 恐美人之遲暮
Nhượng Tống
(1906-1949) dịch:
Ngày tháng vụt đi
không trở lại,
Vừa xuân qua đã lại
thu sang.
Đoái trông cỏ úa cây
vàng,
Sợ nàng, người đẹp muộn
màng lỡ duyên.
Bài thơ này nổi tiếng
đến mức người đời sau ví người làm thơ và yêu chuộng thơ văn là “Tao nhân mặc
khách”. Thế Lữ cũng có câu : “ Mượn cây bút nàng Ly Tao tôi vẽ.”
Trong thi ca xưa kia
thường đệm chữ Hề ở cuối câu làm trợ từ nhưng trong bài Ly tao không có nghĩa
gì, sau thời Nam Bắc triều, chữ này được dùng như một cảm thán từ:
chừ, a, thôi…Chẳng hạn
như bài “ Quy khứ lai từ” của Đào Tiềm
● Lạc Phủ thi, thể
thơ khởi từ nhà Tần, thịnh hành vào thời Hán, lời thơ thường kết hợp với âm nhạc,
có thể ca, ngâm, vịnh…Thí dụ:
Mộc Lan Từ (Khuyết
danh)
Tức tức phục tức tức,
唧唧復唧唧
Mộc Lan đương hộ chức
木蘭當戶幟.
Bất văn cơ trữ thanh,
不聞機杼聲
Duy văn nữ thán tức. 惟聞女歎息
Tạm dịch:
Than thở lại thở
than,
Bên khung cửi Mộc
Lan.
Tiếng thoi đưa không
nghe,
Chỉ nghe lời ta thán
…
● Du Tiên thi là thể
loại diễn đạt sự nhàn hạ, thanh thản, thoát tục…Chẳng hạn:
Tiên Du tự (Nguyễn
Trãi 1380 - 1442)
Đoản trạo hệ tà
dương, 短棹繫斜陽
Thông thông yết thượng
phương. 匆匆謁上方
Vân quy thiền thập
lãnh, 雲歸禪榻冷
Hoa lạc giản lưu
hương. 花落澗流香
Nhật mộ viên thanh cấp,
日暮猿聲急
Sơn không trúc ảnh
trường . 山空竹影長
Cá trung chân hữu ý, 箇中真有意
Dục ngữ hốt hoàn
vong. 欲語忽還忘
Bản dịch của nhóm Đào
Duy Anh,
Bóng xế thuyền con buộc,
Vội lên lễ Phật đài.
Mây về giường sãi lạnh,
Hoa rụng suối hương
trôi.
Chiều tối vượn kêu rộn,
Núi quay trúc bóng
dài.
Ở trong dường có ý,
Muốn nói bỗng quên rồi
● Kệ thi, thể thơ hoạt
ngữ, thấu suốt ngôn từ, đốn ngộ tức thì nhận ra thể tánh chân thật. Tiêu biểu
như bài thơ:
Sơn Phòng Mạn Hứng, kỳ
2, (Trần Nhân Tông 1258 - 1308)
Thị phi niệm trục
triêu hoa lạc, 是非念逐朝花落
Danh lợi tâm tuỳ dạ
vũ hàn. 名利心隨夜雨寒
Hoa tận vũ tình sơn tịch
tịch, 花盡雨晴山寂寂
Nhất thanh đề điểu hựu
xuân tàn. 一聲啼鳥又春殘
Tạm dịch:
Hoa rụng buổi sớm
cùng thị phi,
Danh lợi tâm lạnh chẳng
màng chi.
Hoa rơi mưa tạnh non
tịch tĩnh,
Một tiếng chim kêu
báo xuân đi.
Tân thốt lên thán phục:
-Lời thơ thật tao
nhã, đầy thiền vị! Người làm thơ như Ngài Trần Nhân Tông thời nay ít người có
được!
Ông Tư bật cười lắc đầu:
-Con nhầm rồi! Nhà
thơ cũng có phân biệt ba tầng lớp khác nhau:
1/ Thi nhân là người
sáng tác thơ, làm thơ nói chung. Đinh Hùng có những vần thơ rất dễ thương, như:
Xin hãy yêu tôi, những
lòng hoa thắm!
Xuân đã hồng, thu biếc,
TÔI LÀM THƠ.
Cửa phòng tôi giăng
lưới nhện mong chờ,
Buồn phơ phất mới
trông chiều, ngóng gió.
Trích trong bài “Xin
hãy yêu tôi.”
2/ Thi sĩ là danh hiệu
trang trọng dành cho người làm thơ nổi tiếng, như Tản Đà từng viết: Thi sĩ tửu
đồ là ai ? Hoặc như, trong bài “Cảm Xúc” Xuân Diệu tặng Thế Lữ:
Làm thi sĩ, nghĩa là
ru với gió,
Mơ theo trăng, và vơ
vẩn cùng mây.
Để linh hồn ràng buộc
bởi muôn dây,
Hay chia sẻ bởi trăm
tình yêu mến.
3/ Thi hào là danh hiệu
cao quý dành cho nhà thơ có tài năng nghệ thuật kiệt xuất, có tác phẩm trác tuyệt
để đời, như Nguyễn Du với “Truyện Kiều.”
Tân chăm chú lắng
nghe đầy vẻ hứng thú, chợt như nhớ đến điều gì đó, anh vội hỏi khi ông Tư vừa
ngừng lời uống chút trà thấm giọng:
-Thưa ba, con cũng có
chút thắc mắc nhờ ba giải thích là chữ Thi trong “Thi ân bất cầu báo” phải
chăng cũng là chữ Thi trên. Còn nữa, nàng Tây Thi có phải người nước Việt ta
không? Lam Ngọc nhà con rất thích giai nhân đặc biệt này, còn cho rằng tên Thi
đó
là tên Việt nam đấy
chứ!
Ông Tư mỉm cười ý nhị:
-Có rất nhiều chữ Thi
với nhiều ý nghĩa khác biệt, hai chữ Thi đó không giống nhau,
chữ Thi 施
trong “Thi ân”
—Theo nguồn gốc trong
Giáp cốt văn viết có hai hình dạng
1. Bên phải là con rắn
蛇 ngoằn ngoèo, bên trái là người cầm vũ khí thủ thế 手器.
2. Người xưa dùng mảnh
vải, hoặc lụa buộc vào đầu ngọn cán biểu hiệu lá cờ.
Thuyết văn giải tự dựa
theo nghĩa này, gọi là kỳ mao 旗貌, viết thành Thi 施 được
sử dụng cho tới ngày nay.
—Quảng Nhã viết: Thi,
huệ dư dã 施惠予也 (Thi là ban ân trạch).
—Kinh Dịch quẻ Kiền
viết: Vân hành vũ thí (thi) phẩm vật lưu hình.雲行雨施品物流形
(Mây lưu chuyển đem
mưa xuống khiến các vật thành hình). Chữ Thí 施 ở
đây cũng được dùng trong hạnh đầu tiên (Bố thí 布施)
trong Lục ba la mật.
Bây giờ nói đến nàng
Tây Thi của “Lam Ngọc nhà con”, đây là một trong bốn Mỹ nhân nổi tiếng thời
xưa. Trong “Cung oán ngâm khúc” của Nguyễn Gia Thiều, ông đã mượn điển tích “Trầm
ngư” về nàng Tây Thi để viết câu “Chìm đáy nước cá lờ lờ lặn” nhằm diễn tả sắc
đẹp tuyệt trần của một thiếu nữ vừa nhập cung.
Bài Tống Chúc Bát Chi
Giang Đông Phú Đắc Cán Sa Thạch của Lý Bạch có nhắc đến Đông Việt thời Xuân Thu
là quê hương của Tây Thi (cũng trong tộc Bách Việt, nhưng không phải nước Việt
ta). Lịch sử thân thế của nàng có rất nhiều giai thoại, hôm nay ba
chỉ muốn nói về bài
thơ nổi tiếng “Tây Thi” cũng của Thi Tiên Lý Bạch có những vần thơ tuyệt hay
như sau:
Tây Thi Việt khê nữ, 西施越溪女
Xuất tự Trữ La san. 出自苧蘿山
Tú sắc yểm kim cổ, 秀色掩今古
Hà hoa tu ngọc nhan. 荷花羞玉顏
Hoán sa lộng bích thuỷ,
浣紗弄碧水
Tự dữ thanh ba nhàn. 自與清波閑l
Tạm dịch:
Xa xưa đất Việt Tây
Thi,
Trữ La non nước xuân
thì đẹp tươi.
Giai nhân kim cổ mấy
người,
Dung nhan diễm lệ sen
tươi chẳng bằng.
Suối trong gềnh đá dưới
trăng,
An nhàn giặt lụa, lăn
tăn sóng đùa.
Tân trầm trồ:
-Thơ như thế mới gọi
là thơ chứ! Uyển chuyển, tao nhã, mơ màng, lãng mạn như thế này quả thật ai yêu
thơ đọc xong mà không khỏi cảm động. Giờ thì con hiểu tại sao ba và mấy người bạn
thân đều rất thích những thi sĩ thời xưa.
Ông Tư mỉm cười kết
luận:
-Hoài niệm về những
bài cổ thi lúc nào cũng làm tâm hồn mình lắng đọng, có niềm vui nhẹ nhàng,
thanh thản, đây gọi là THI HOÀI LẠC HĨ đó con!
Lâm Minh Anh
Chú thích:
1/ Trước khi Phật
giáo du nhập vào Trung Hoa. Chùa tức Tự 寺 có
nghĩa là pháp đình (tòa án) nơi các quan lại thi hành pháp luật. Cấu trúc đặc
trưng của tự dạng Tự 寺. Trên là chữ Thổ 土 (đất),
dưới là chữ Thốn 寸 (một
tấc ). Ý nói, một tấc đất cũng thuộc sở
hữu của nhà nước, còn
cái Am 庵 hoặc Miếu 廟 là
nơi thờ kính tổ tiên. (Xem Lễ Ký)
2/ Chiến quốc là tên
gọi xuất phát từ quyển “Chiến quốc sách” tác giả là Lưu Hướng đời Hán, được
biên soạn sau khi Cao Tiệm Ly không thành công ám sát Tần Thuỷ Hoàng. Thành ngữ
“bách phát bách trúng” xuất hiện trong chương Tây Chu Sách của
sách này.
2/ Nhân sinh nhi
tĩnh, thiên chi tính dã 人生而靜,天之性也.
Câu này phát xuất từ Lễ Ký, thiên Lạc ký.