Thứ Hai, 17 tháng 2, 2025

207 . LÂM MINH ANH THI HOÀI LẠC HĨ

                                                                                                    


 Vừa đi làm về, thấy ông Tư đang ngồi đọc sách, Tân hỏi ngay:

-Ba đang xem cổ thư phải không?

Ông Tư tùm tỉm cười đáp:

-Con muốn tìm hiểu điều gì nữa đây? Thật ra, hôm nay ba đang đọc lại “Việt nam thi nhân tiền chiến.” Hay tuyệt!

Tân chìa ra hai ba tập thơ, than phiền:

-Khổ quá đi mất! Chẳng biết tại sao bạn con tự nhiên trở thành nhà thơ cả đám. Chưa hết, nào là bà con họ hàng, đồng nghiệp đua nhau làm thơ, ra mắt tập thơ, in thơ tặng. Có người nhờ con viết cảm nhận, viết lời tựa cho họ. Chết nỗi, thơ tràn lan trên thi đàn nhưng tìm một người như cỡ Nguyễn Bính thôi cũng chưa ra chứ đừng nói đến Tản Đà, Quách Tấn….

Ông Tư gật đầu biểu đồng tình:

-Thơ bây giờ là thơ, không hẳn là Thi như ngày xưa đâu con.

Tân ngạc nhiên hỏi:

-Vậy hả ba? Ba giảng cho con biết được không? Điều này thú vị đây.

Ông Tư vui vẻ nói:

-Nguồn gốc của Chữ Thi tìm thấy sớm nhất vào thời kỳ văn tự Chiến Quốc* (475 -221 TCN), không thấy trên văn tự Giáp cốt văn (1800 TCN) và Chung đỉnh văn (1300 TCN) trước đó. Thoạt tiên, nó xuất hiện bằng chữ “tự” (pháp đình), vốn biểu thị của chữ “am” hoặc (lều tranh, miếu thờ, cái thất nhỏ để cúng thần linh), sau đó, khi cường điệu, âm nhạc, ca vũ cùng văn từ phát triển tạo ra chữ “thiệt” (cái lưỡi) hoặc chữ “khẩu” (cái miệng), trên thêm bộ Đầu, với hai gạch ngang thành chữ “ngôn” (lời nói). Sau cùng, theo thời gian với chữ ngôn (bên trái) và chữ tự (bên phải) kết hợp lại thành chữ THI , được hiểu là lời nói xuất phát từ cửa am miếu. Trong cổ văn, chữ THI này được viết tắt THI +. -Đến thời kỳ Tiên Tần (223 TCN) qua cuộc cải cách thống nhất văn tự thành loại chữ Triện, cũng giải thích:

Ngôn +Tự = Thi , biểu thị tế tự chúc tụng 表示祭祀祝誦.

-Lễ Ký, thiên Nội Tắc, viết: Quốc quân thế tử sinh, cáo ư  Xuân…tam nhật, bốc sĩ phụ chi, cát giả túc tề, triều phục tẩm môn ngoại, THI phụ chi…國君世子生,告於君... 三曰, 士負之,吉者宿齊,朝服寢門外,詩負之. (Một thái tử khi sinh ra được cáo thị, sau ba ngày thì các nhà bói toán được gọi đến để xem vận mệnh, còn các học sĩ mặc triều phục chỉnh tề túc trực bên ngoài để sáng tác THI tức làm thơ tán tụng).

-Kinh Lễ, thiên Nghi Lễ, viết: Thi, do thừa dã. Vị phụng nạp chi hoài trung ,猶承也. 奉納之懷中 (Thơ là tưởng niệm công đức và cơ nghiệp tiên tổ, lời phúng tụng, từ khúc tế lễ để lưu truyền lại cho đời sau).

 

Như thế, từ góc nhìn khởi nguyên của chữ THI, cho thấy: Ý nghĩa gốc của THI vốn sử dụng để biểu đạt tư tưởng thông qua ngôn ngữ thần thoại, tín ngưỡng thờ phượng, cung phụng cúng tế, cầu khấn thần linh, ca ngợi công đức tiên vương, được cử hành trong tông miếu, am thờ hay chùa chiền.

-Mao Thi, lời tựa, viết: Thi giả, chí chi sở chi dã. Tại tâm vi chí, phát ngôn vi thi 詩者, 之所之也,在心為志,發言為詩 (Thơ là nơi dung chứa ý chí, chí này ở trong tâm, khi nói ra lời thì thành thơ). Thành ngữ :”Thi dĩ ngôn chí, văn dĩ tải đạo” 詩以言志,文以載道 vốn xuất xứ từ nghĩa của câu trên. Từ chữ Chí và chữ Ngôn trên có thể tìm hiểu sâu hơn về chữ Thi:

● Chữ Chí theo Tiểu Triện, trên là chữ Chi , dưới là chữ Tâm , đến khi đổi sang lối viết chữ Lệ, Khải thư, chữ Chi thành chữ Sĩ . Do đó, Chí được hiểu là tâm ý, chí hướng của kẻ sĩ, nhất nhất bởi tâm mà ra.

● Chữ Ngôn theo Thuyết văn giải tự, viết: Trực ngôn viết ngôn, luận nan viết ngữ 直言曰言,論難曰語 (Lời nói thẳng thắn là ngôn, khi bàn luận cái khó gọi là ngữ). Ngôn là tự mình trần thuật, biểu đạt, khi ngôn tương quan với ngữ, chủ yếu dùng để đàm luận với người khác. Điều này trong Lễ Ký giải thích : Tam

niên chi biểu, ngôn nhi bất ngữ, đối nhi bất đáp 三年之表,言而不語,對而不答  (khoảng tuổi lên ba, trẻ chỉ biết nói để bày tỏ chứ chưa biết dùng ngôn ngữ đối đáp)

Tuy nhiên, nghĩa chữ THI chưa dừng lại ở đây.

—Sử ký Tư Mã Thiên, Tư Mã Tương Như liệt truyện, viết: Thi đại trạch chi bác, quảng phù thuỵ chi phú 詩大澤之博,廣符瑞之富 (Thi dung chứa sự sự quảng đại, biểu hiện tình cảnh tốt đẹp, diễn tả về đời sống phong phú).

—Hán Thư Âm Nghĩa., viết: Thi, ca vịnh công đức dã ,歌詠功德也 (Thi dùng để ngâm vịnh, ca ngợi công đức cao cả).

—Quốc Ngữ, phần Lỗ Ngữ, viết: Thi sở dĩ hội ý, ca sở dĩ vịnh thi dã 詩所以會意,歌所以 詠詩也 (Thi là nơi hội tụ tâm tư, ý tưởng và ca ngâm là để ngợi khen nét đẹp của Thi).

Trong truyền thống văn hoá Hoa Hạ, bắt nguồn của thi ca chính là Kinh Thi, với lời lẽ tự nhiên, chân thật, mộc mạc, không bị gò ép theo niêm luật, không trau chuốt, đẽo gọt , ý tứ cô đọng, lại trong sáng, nên được xem là mẫu mực như trong Luận Ngữ, thiên Vi Chính, Tử viết: Thi tam bách, nhất ngôn dĩ tế chi, viết: Tư vô tà 三百, 一言以蔽之, : 思無邪 (Khổng Tử nói: Kinh Thi có ba trăm bài, có thể lấy một câu để tóm tắt là không có tà xấu ở trong). Theo biểu hiện tốt đẹp ấy, trong thiên Dương Hoá, Khổng Tử nói:

Thi khả dĩ hưng, khả dĩ quán, khả dĩ quần, khả dĩ oán, nhĩ chi sự phụ, viễn chi sự quân, đa thức ư điểu thú thảo mộc chi danh 詩可以興,可以觀,可以群,可以怨,邇之事父,遠之事 ,多識於鳥獸草木之名 (Khổng tử nói: Xem Kinh Thi, có thể hứng khởi tâm trí, có khả

năng quan sát sự vật, hoà hợp được với người khác, hiểu được sự buồn giận. Gần thì biết giữ đạo hiếu với cha mẹ, xa thì biết tận trung với vua. Lại còn có nhiều kiến thức về các loại chim, thú, cỏ cây nữa).

Đến đời Tống, chữ THI trong lịch sử văn học được khoác thêm nghĩa mới, danh Nho Chu Hy (1130-1200) trong “Thi Tập Truyện“ ở lời Tựa, nói: Hoặc hữu vấn ư dư viết: Thi hà vị nhi tác dã? Dư ứng chi viết: Nhân sinh nhi tĩnh, thiên chi tính dã; Cảm ư vật nhi động, tính chi dục dã 或有問於余曰: 詩何謂而作也? 余應之曰: 人生而靜,天之性也; 感於 物而動, 性之欲也 (Hoặc có người hỏi tôi : Vì đâu mà thơ được sáng tác? Tôi đáp ngay:

Trẻ sơ sinh bản chất ngây thơ, trong trắng, đó là tính trời ban cho. Về sau vì sự vật xung quanh làm động lòng ở tính mà phát sinh ra tình cảm) . Nói cách khác, Thi là dư âm của lời nói tĩnh nhàn, thanh trong khi tâm con người cảm xúc với ngoại cảnh mới

biểu hiện ra.

Nhận thấy mình đã nói hơi nhiều về nguồn gốc chữ Thi, ông Tư ngừng lời hỏi Tân có ý kiến gì muốn bày tỏ không? Tân rót trà mời cha rồi nhẹ nhàng nói:

-Con rất cảm ơn ba đã giảng giải cho con hiểu phần nào về lịch sử diễn biến của chữ Thi. Nhưng con cũng thật sự muốn biết Thi ca của nước ta bắt đầu từ thời kỳ nào?

Ông Tư ngẫm nghĩ một lát rồi chậm rãi nói:

-Ba không chắc đích xác có từ bao giờ, nhưng theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư ghi chép:

Năm Đinh Hợi 987, dưới thời Tiền Lê, vua Lê Đại Hành nhờ thiền sư Pháp Thuận giả dạng người chèo đò đón tiếp sứ nhà Tống là Lý Giác. Sứ thần này là người thích thi văn, khi thấy hai con  gỗng trên mặt nước, bèn ngâm:

Nga nga lưỡng nga nga, 鵝鵝兩鵝鵝

Ngưỡng diện hướng thiên nhai. 仰面向天涯

Nghĩa là: Song song ngỗng một đôi; Ngước mắt nhìn chân trời.

Pháp Thuận đang chèo đò, bèn ngâm tiếp:

Bạch mao phô lục thuỷ, 白毛鋪綠水

Hồng trạo bài thanh ba. 紅棹擺青波

Nghĩa là: Nước trong phô lông trắng; Chân hồng sóng xanh bơi.

Sự ứng đối nhanh chóng và tài tình, ý nhị, sâu sắc của Ngài Pháp Thuận làm Lý Giác rất cảm phục. Đến khi ông từ biệt về nước, vua lại nhờ thiền sư Khuông Việt làm thơ để tiễn, đó là bài Ngọc Lang Quy 玉郎, được chép trong Thiền Uyển Tập Anh, ở đây chỉ

trích ra hai câu đầu: Tường quang phong hảo cẩm phàm trương,

祥光風好錦帆張,

Dao vọng thần tiên phục đế hương.

遙望神仙復帝.

Tạm dịch:

Trời quang gió thuận cánh buồm dương,

Thần tiên xa vọng, hồi cố hương.

Có thể Lý Giác khi trở về sẽ tâu lại rằng nước Nam quả thật có nhiều nhân tài, từ đó thôi không nghĩ đến việc xâm chiếm nữa. Thật ra cổ đức làm thơ cũng mong chuyên tải nhiều ý nghĩa, bởi thơ là sự cộng hưởng giữa người với nhau, hoặc với vũ trụ, vạn

vật…. Thơ gieo rắc giữa mộng và thực, luôn hiện diện trong cuộc đời, biểu đạt từng cảm xúc nơi mọi cảnh sắc. Thế nên, Nguyễn Du trong những năm lưu lạc xứ người, có lần đứng ngắm dòng sông Hán Dương uốn lượn, đọc bài thơ “Hoàng Hạc Lâu” của

Thôi Hiệu trên vách đá, liền cảm tác viết: “Thi thành thảo thụ giai thiên cổ” 詩成草樹偕千 .(Bài thơ tuyệt tác vừa hoàn thành thì cả thơ lẫn cỏ cây trong bài thơ đều trường tồn với thời gian), vào khoảnh khắc ấy, tâm hồn con người như chấp cánh bay lên, hoà nhập cùng thiên nhiên, vạn vật.

Tân dường như được cuốn hút bởi những lời nói đầy cảm xúc của cha, hình ảnh Tố Như tiên sinh trầm ngâm bên dòng Hán Dương chợt hiện ra thật rõ ràng trong tâm trí, thơ và thi nhân, nào phải ai cũng như ai! Nghĩ đến đây, anh bày tỏ:

-Thưa ba! Con nhận thấy thơ là một nghệ thuật dùng ngôn từ và trí tưởng tượng để diễn tả tư tưởng, tình cảm, vần điệu du dương có thể phổ nhạc, đầy màu sắc sống động như tranh vẽ. Bởi vì thơ có nhiều đề tài, thể loại thì người làm thơ chắc cũng có phân biệt, phải không ba?

Ông Tư trả lời:

-Thơ có nhiều thể loại, từ thời xa xưa, trong Kinh Lễ, thiên Xuân Quan, Đại Sư đã có Lục Thi: Phong, Nhã, Tụng, Tỉ, Phú, Hứng. Ở đây ba chỉ trích dẫn một số điển hình thôi:

● Sở Từ thi: Bài Ly Tao của Khuất Nguyên thời Chiến quốc (屈原, 340 - 278 TCN) trong đó có bốn câu cảm thán về thời gian:

Nhật nguyệt hốt kỳ bất yêm hề 日月忽其不淹兮

Xuân dữ thu kỳ đại tự. 春與秋其代序

Duy thảo mộc chi linh lạc hề 惟草木之零落兮

Khủng mỹ nhân chi trì mộ 恐美人之遲暮

Nhượng Tống (1906-1949) dịch:

Ngày tháng vụt đi không trở lại,

Vừa xuân qua đã lại thu sang.

Đoái trông cỏ úa cây vàng,

Sợ nàng, người đẹp muộn màng lỡ duyên.

Bài thơ này nổi tiếng đến mức người đời sau ví người làm thơ và yêu chuộng thơ văn là “Tao nhân mặc khách”. Thế Lữ cũng có câu : “ Mượn cây bút nàng Ly Tao tôi vẽ.”

Trong thi ca xưa kia thường đệm chữ Hề ở cuối câu làm trợ từ nhưng trong bài Ly tao không có nghĩa gì, sau thời Nam Bắc triều, chữ này được dùng như một cảm thán từ:

chừ, a, thôi…Chẳng hạn như bài “ Quy khứ lai từ” của Đào Tiềm

● Lạc Phủ thi, thể thơ khởi từ nhà Tần, thịnh hành vào thời Hán, lời thơ thường kết hợp với âm nhạc, có thể ca, ngâm, vịnh…Thí dụ:

 

Mộc Lan Từ (Khuyết danh)

Tức tức phục tức tức, 唧唧復唧唧

Mộc Lan đương hộ chức 木蘭當戶幟.

Bất văn cơ trữ thanh, 不聞機杼聲

Duy văn nữ thán tức. 惟聞女歎息

Tạm dịch:

Than thở lại thở than,

Bên khung cửi Mộc Lan.

Tiếng thoi đưa không nghe,

Chỉ nghe lời ta thán …

● Du Tiên thi là thể loại diễn đạt sự nhàn hạ, thanh thản, thoát tục…Chẳng hạn:

Tiên Du tự (Nguyễn Trãi 1380 - 1442)

Đoản trạo hệ tà dương, 短棹繫斜陽

Thông thông yết thượng phương. 匆匆謁上方

Vân quy thiền thập lãnh, 雲歸禪榻冷

Hoa lạc giản lưu hương. 花落澗流香

Nhật mộ viên thanh cấp, 日暮猿聲急

Sơn không trúc ảnh trường . 山空竹影長

Cá trung chân hữu ý, 箇中真有意

Dục ngữ hốt hoàn vong. 欲語忽還忘

Bản dịch của nhóm Đào Duy Anh,

Bóng xế thuyền con buộc,

Vội lên lễ Phật đài.

Mây về giường sãi lạnh,

Hoa rụng suối hương trôi.

Chiều tối vượn kêu rộn,

Núi quay trúc bóng dài.

Ở trong dường có ý,

Muốn nói bỗng quên rồi

● Kệ thi, thể thơ hoạt ngữ, thấu suốt ngôn từ, đốn ngộ tức thì nhận ra thể tánh chân thật. Tiêu biểu như bài thơ:

Sơn Phòng Mạn Hứng, kỳ 2, (Trần Nhân Tông 1258 - 1308)

Thị phi niệm trục triêu hoa lạc, 是非念逐朝花落

Danh lợi tâm tuỳ dạ vũ hàn. 名利心隨夜雨寒

Hoa tận vũ tình sơn tịch tịch, 花盡雨晴山寂寂

Nhất thanh đề điểu hựu xuân tàn. 一聲啼鳥又春殘

 

Tạm dịch:

Hoa rụng buổi sớm cùng thị phi,

Danh lợi tâm lạnh chẳng màng chi.

Hoa rơi mưa tạnh non tịch tĩnh,

Một tiếng chim kêu báo xuân đi.

Tân thốt lên thán phục:

-Lời thơ thật tao nhã, đầy thiền vị! Người làm thơ như Ngài Trần Nhân Tông thời nay ít người có được!

Ông Tư bật cười lắc đầu:

-Con nhầm rồi! Nhà thơ cũng có phân biệt ba tầng lớp khác nhau:

1/ Thi nhân là người sáng tác thơ, làm thơ nói chung. Đinh Hùng có những vần thơ rất dễ thương, như:

Xin hãy yêu tôi, những lòng hoa thắm!

Xuân đã hồng, thu biếc, TÔI LÀM THƠ.

Cửa phòng tôi giăng lưới nhện mong chờ,

Buồn phơ phất mới trông chiều, ngóng gió.

Trích trong bài “Xin hãy yêu tôi.”

2/ Thi sĩ là danh hiệu trang trọng dành cho người làm thơ nổi tiếng, như Tản Đà từng viết: Thi sĩ tửu đồ là ai ? Hoặc như, trong bài “Cảm Xúc” Xuân Diệu tặng Thế Lữ:

Làm thi sĩ, nghĩa là ru với gió,

Mơ theo trăng, và vơ vẩn cùng mây.

Để linh hồn ràng buộc bởi muôn dây,

Hay chia sẻ bởi trăm tình yêu mến.

3/ Thi hào là danh hiệu cao quý dành cho nhà thơ có tài năng nghệ thuật kiệt xuất, có tác phẩm trác tuyệt để đời, như Nguyễn Du với “Truyện Kiều.”

Tân chăm chú lắng nghe đầy vẻ hứng thú, chợt như nhớ đến điều gì đó, anh vội hỏi khi ông Tư vừa ngừng lời uống chút trà thấm giọng:

-Thưa ba, con cũng có chút thắc mắc nhờ ba giải thích là chữ Thi trong “Thi ân bất cầu báo” phải chăng cũng là chữ Thi trên. Còn nữa, nàng Tây Thi có phải người nước Việt ta không? Lam Ngọc nhà con rất thích giai nhân đặc biệt này, còn cho rằng tên Thi đó

là tên Việt nam đấy chứ!

Ông Tư mỉm cười ý nhị:

-Có rất nhiều chữ Thi với nhiều ý nghĩa khác biệt, hai chữ Thi đó không giống nhau,

chữ Thi trong “Thi ân”

—Theo nguồn gốc trong Giáp cốt văn viết có hai hình dạng

1. Bên phải là con rắn ngoằn ngoèo, bên trái là người cầm vũ khí thủ thế 手器.

2. Người xưa dùng mảnh vải, hoặc lụa buộc vào đầu ngọn cán biểu hiệu lá cờ.

Thuyết văn giải tự dựa theo nghĩa này, gọi là kỳ mao 旗貌, viết thành Thi được sử dụng cho tới ngày nay.

—Quảng Nhã viết: Thi, huệ dư dã 施惠予也 (Thi là ban ân trạch).

—Kinh Dịch quẻ Kiền viết: Vân hành vũ thí (thi) phẩm vật lưu hình.雲行雨施品物流形

(Mây lưu chuyển đem mưa xuống khiến các vật thành hình). Chữ Thí ở đây cũng được dùng trong hạnh đầu tiên (Bố thí 布施) trong Lục ba la mật.

Bây giờ nói đến nàng Tây Thi của “Lam Ngọc nhà con”, đây là một trong bốn Mỹ nhân nổi tiếng thời xưa. Trong “Cung oán ngâm khúc” của Nguyễn Gia Thiều, ông đã mượn điển tích “Trầm ngư” về nàng Tây Thi để viết câu “Chìm đáy nước cá lờ lờ lặn” nhằm diễn tả sắc đẹp tuyệt trần của một thiếu nữ vừa nhập cung.

Bài Tống Chúc Bát Chi Giang Đông Phú Đắc Cán Sa Thạch của Lý Bạch có nhắc đến Đông Việt thời Xuân Thu là quê hương của Tây Thi (cũng trong tộc Bách Việt, nhưng không phải nước Việt ta). Lịch sử thân thế của nàng có rất nhiều giai thoại, hôm nay ba

chỉ muốn nói về bài thơ nổi tiếng “Tây Thi” cũng của Thi Tiên Lý Bạch có những vần thơ tuyệt hay như sau:

Tây Thi Việt khê nữ, 西施越溪女

Xuất tự Trữ La san. 出自苧蘿山

Tú sắc yểm kim cổ, 秀色掩今古

Hà hoa tu ngọc nhan. 荷花羞玉顏

Hoán sa lộng bích thuỷ, 浣紗弄碧水

Tự dữ thanh ba nhàn. 自與清波閑l

Tạm dịch:

Xa xưa đất Việt Tây Thi,

Trữ La non nước xuân thì đẹp tươi.

Giai nhân kim cổ mấy người,

Dung nhan diễm lệ sen tươi chẳng bằng.

Suối trong gềnh đá dưới trăng,

An nhàn giặt lụa, lăn tăn sóng đùa.

Tân trầm trồ:

-Thơ như thế mới gọi là thơ chứ! Uyển chuyển, tao nhã, mơ màng, lãng mạn như thế này quả thật ai yêu thơ đọc xong mà không khỏi cảm động. Giờ thì con hiểu tại sao ba và mấy người bạn thân đều rất thích những thi sĩ thời xưa.

Ông Tư mỉm cười kết luận:

-Hoài niệm về những bài cổ thi lúc nào cũng làm tâm hồn mình lắng đọng, có niềm vui nhẹ nhàng, thanh thản, đây gọi là THI HOÀI LẠC HĨ đó con!

Lâm Minh Anh

Chú thích:

1/ Trước khi Phật giáo du nhập vào Trung Hoa. Chùa tức Tự có nghĩa là pháp đình (tòa án) nơi các quan lại thi hành pháp luật. Cấu trúc đặc trưng của tự dạng Tự . Trên là chữ Thổ (đất), dưới là chữ Thốn một tấc ). Ý nói, một tấc đất cũng thuộc sở

hữu của nhà nước, còn cái Am hoặc Miếu là nơi thờ kính tổ tiên. (Xem Lễ Ký)

2/ Chiến quốc là tên gọi xuất phát từ quyển “Chiến quốc sách” tác giả là Lưu Hướng đời Hán, được biên soạn sau khi Cao Tiệm Ly không thành công ám sát Tần Thuỷ Hoàng. Thành ngữ “bách phát bách trúng” xuất hiện trong chương Tây Chu Sách của

sách này.

2/ Nhân sinh nhi tĩnh, thiên chi tính dã 人生而靜,天之性也. Câu này phát xuất từ Lễ Ký, thiên Lạc ký.