Chủ Nhật, 9 tháng 3, 2025

284 LÂM MINH ANH - Chung quanh nghĩa Tiêu Dao Du.

                                                                    


CHUNG QUANH NGHĨA TIÊU DAO DU

 

Biết Tân rất thích đọc sách nhất là những loại sách cổ của các vị Thánh hiền, Lam

Ngọc, người yêu của anh nhân dịp sinh nhật đã tặng anh quyển Nam Hoa Kinh rất xưa mà cô tìm được trong một tiệm bán sách cũ. Đúng là “ của cho không bằng cách cho “ , món quà đầy ý nghĩa này đã làm Tân say mê đọc trong mấy tuần liền và cuối cùng anh quyết định đến thăm cụ Lý để được nghe cụ giải thích thêm về “

Chung quanh nghĩa Tiêu Dao Du “ là đoạn sách mà anh thich thú và tâm đắc nhất .Như thường lệ , anh Tân cũng không quên mang theo gói trà ướp sen để làm quà

biếu. Trong khi chờ cụ Lý pha trà, anh nhìn thấy giữa bàn viết bày ra quyển Nam

Hoa Kinh chưa kịp gấp lại, dường như sách đang được đọc giữa chừng, anh mừng rỡ cất tiếng hỏi ngay:

- Phải chăng cụ đang nghiên cứu về đạo học Lão Trang?

Cụ Lý cười xoà, nhỏ giọng:

- Về già có chút thời gian thảnh thơi đọc, đọc để cho đầu óc hoạt động đấy mà cháu.

Anh Tân lễ phép nói:

- Thưa Bác, cháu nghe người đời kể dật sự vua nước Sở cho người mời Trang Châu ra tham chính, nhưng ông từ chối bằng câu đối đáp:

+ “Tôi nghe nước Sở có một con rùa thần, chết đã ba ngàn năm, nhà vua gói nó vào chiếc khăn, cất trong cái hộp ở trên miếu đường. Con rùa ấy chịu chết mà lưu lại bộ xương cho người ta thờ hay thích sống mà lết cái đuôi trong bùn… Các ông về đi, tôi đang thích làm cái đuôi con rùa lết trong bùn đây”.



Khinh chê phú quý bổng lộc, an nhiên tiêu dao tự tại dẫu là sống giữa bùn lầy, tâm tánh của Trang Châu quả thực không giống người đời thường. Thưa Bác, cháu cũng vừa đọc Nam Hoa Kinh của ông, nhưng cháu chưa lĩnh hội được ý nghĩa của Tiêu Dao Du để tường tận cái tiêu dao nhàn tản, thảnh thơi tự tại của ông.

Ông Lý thán phục nhìn Tân. Cùng lớp người trẻ như Tân, hiếm có ai tìm biết chuyện xưa, những chuyện mà ngay chính ông cũng chưa thấu đáo lắm. Ông chậm rãi:

- Để hiểu được ý nghĩa của Tiêu Dao Du, người đời sau đã tốn không ít giấy mực luận giải. Nhưng thật ra mọi luận giải chỉ là những suy đoán dựa vào các ngụ ngôn trong sách Nam Hoa được cho là trước tác của Trang Tử. Tuy nhiên đọc được ý của Trang Tử chẳng phải dễ dàng, phải dùng trực giác để tiếp nhận chứ không dễ gì lấy suy luận mà nhận ra tư tưởng của Trang. Đọc Lão Trang, một số người chỉ mong để giao hòa với người xưa. Nói như Đào Tiềm trong Ngũ Liễu Tiên Sinh Truyện là thích đọc sách, nhưng không màng chuyện tìm những ý nghĩa sâu xa – Hiếu độc thư, bất cầu thậm giải [好讀書,不求甚解].

 

Về ngữ nguyên của Tiêu Dao Du, sách Thuyết Văn Giải Tự có thích nghĩa Tiêu [] là giải trừ, là quên đi (quá nhi vong dã), Dao [] là đến từ chốn xa xăm (dẫn nhi viễn dã), Du [] là lá cờ tự do tung bay trong gió (phong kỳ ngao dã). Thấy được 3 từ Tiêu Dao Du đều viết bằng bộ Sước [] là bước chân, bước đi. Tạm hiểu Tiêu Dao Du đòi hỏi phải lên đường thực chứng, là ngao du vui thú theo ý mình, không bị buộc ràng bởi ý của ai khác. Tinh thần Trang Châu là sùng thượng “ Phong vận “ để làm tỉ dụ ngụ ngôn, tức là ưa chuộng gió, bay cùng

mây, lướt trên nước, ( ẩn dụ lẽ biến hoá của Đạo ), vân du trong vũ trụ bao la để suy ngẫm “sự sự “ đã qua. Nói theo sách Lã Thị Xuân Thu thì mang nghĩa thiên địa chi khí, hợp nhi sinh phong, nghĩa là cái khí của trời đất hoà hợp mà sinh ra gió. Mà gió thì không là thực thể, bởi không thể nắm bắt được tức thuộc về hư. Còn khí là âm dương lưỡng đoan của xung hoà chi khí, với nghĩa hình tượng của gió là du lãm khắp nơi Mà nè cháu Tân, Cháu đã biết gì về Nam Hoa Kinh của Trang Tử?

Tân lễ phép đáp:

- Dạ thưa Bác, cháu được biết Nam Hoa Kinh có từ thời Chiến Quốc, nhiều thiên trong sách được cho là người đời sau chấp bút. Suốt một thời gian dài người xưa ghép sách vào phái Tạp gia. Đến đời Đường sách mới được xếp vào hàng Kinh truyện giống như Tứ Thư Ngũ Kinh của Nho gia. Nhưng trước đó, Nam Hoa Kinh đã có sức ảnh hưởng lớn đến đời sống các nước thời Chiến quốc, thấy được qua sách Lã Thị Xuân Thu của Lã Bất Vi, Sử Ký của Tư Mã Thiên…

Cụ Lý gật đầu nói:

- Cháu thấy không. Sách viết ra mà không có người đọc chẳng khác nào mớ giấy lộn. Sách viết về tư tưởng lớn mà không có người ra công chú giải, chẳng khác nào như ngọc nghìn năm nằm lẫn trong sỏi đá. Nam Hoa Kinh sẽ không thể nào được xem là quý giá, được gọi là Kinh, nếu không có Hướng Tú, Quách Tượng, Tư Mã Bưu, Thành Huyền Anh… tính từ Ngụy Tấn đến nhà Đường, có tới trăm người luận thuyết, diễn dịch rộng thêm hơn.

Kể ra cũng nhờ đến Cái Duyên: Thời Nam Bắc triều, tư tưởng Phật gia đã phổ biến rộng rãi ở Trung Hoa, bấy giờ sau loạn lạc Tam quốc con người có cái nhìn cởi mở hơn về lẽ sống, nhờ đó họ dễ tiếp nhận chú giải sách Nam Hoa. Ngay cả bậc cao tăng như Chi Đạo Lâm cũng đề cập Nam Hoa Kinh dưới cái nhìn Sắc Sắc Không Không. Bản Nam Hoa Kinh hiện thời gồm 33 thiên. Trước đó, Hán Thư trong mục Nghệ Văn Chí có nhắc đến sách Nam Hoa gồm 52 thiên. Vào thời Ngụy Tấn, Hướng Tú tự là Tử Kỳ, một nhân vật trong Trúc Lâm Thất Hiền chú giải đến thiên Thu Thủy thì mất. Bạn ông là Quách Tượng tự là Tử Huyền, tiếp tục chú thêm được 27 thiên lưu truyền đến ngày nay, văn phong của ông tựa như Hướng Tú, nên chú giải của Quách Tượng cũng được xem là của Hướng Tú.

Tân thắc mắc hỏi:

- Bước đầu Hướng Tú và Quách Tượng đã diễn giải về ý nghĩa Tiêu Dao Du của Trang Châu như thế nào hả Bác ?

Ông Lý mỉm cười:

 - Tiêu Dao Du là một trong mấy thiên cốt lõi do Trang Tử chấp bút, Quách Tượng đã xếp chúng vào phần Nội thiên. Còn phần Ngoại thiên và Tạp thiên, là 2 phần chưa chắc do Trang Châu biên soạn nhưng ít nhiều cũng diễn dịch được ý nghĩa của Tiêu Dao Du rất thú vị.

Hướng Tú, Quách Tượng đã dựa vào bài 1 của thiên Tiêu Dao Du:

+ “Nước không sâu thì không chở được thuyền lớn. Đổ một chén nước xuống một chỗ lõm ở trước sân thì thả một cọng cỏ xuống làm thuyền được; nếu thả cái chén đó xuống thì chén chạm đất, không nổi được, vì nước nông mà thuyền lớn. Lớp không khí mà không dày thì không đỡ được những cánh chim lớn. Cho nên con chim bằng phải bay lên cao chin vạn dặm để có lớp không khí dày đỡ nó ở dưới, rồi lưng nó mới đội trời xanh, không hề bị cản trở, mà bay xuống biển Nam được”.

Hoặc cũng ở thiên Tiêu Dao Du với bài 3:

+ “Một người nước Tống đem mũ lễ qua nước Việt bán. Nhưng người nước Việt cắt tóc, xâm mình, đâu có dùng những mũ ấy”.

Hai ông đã cho là vật có lớn có nhỏ khác nhau, mỗi loài cứ theo tánh tự nhiên mà đạt, thích nghi với sở năng mà làm. Thuận theo lý tự nhiên – Lớn thích nghi với lớn (Lớp không khí mà không dày thì không đỡ được những cánh chim lớn), Nhỏ thích nghi với nhỏ (Nước không sâu thì không chở được thuyền lớn). Lớn hợp với chỗ lớn nên không thấy mình lớn. Nhỏ hợp với chỗ nhỏ nên không thấy mình nhỏ.

Theo đó mà con người hành xử theo khả năng của mình, sống vậy mới là Tiêu Dao tự tại. Chú giải của Quách Tượng về ý nghĩa của Tiêu Dao Du sau được Vương Ích Ngô đời Thanh tán đồng: “Tiêu dao tự tại là siêu thoát ra ngoài thế vật theo lý thiên nhiên, cũng có nghĩa là theo thiên tánh”.

Cụ Lý ngưng lại một lát vì thấy nét mặt Tân hình như có điều đang băn khoăn, quả nhiên anh vội nói:

- Thưa Bác, cháu nghe nói Lưu Hiếu Tân là nhà luận giải sách Thế Thuyết Tân Ngữ, sách chép những dật văn dật sự của các danh sĩ Nam Bắc triều. Lưu Hiếu Tân cho rằng lý giải như vậy cũng chưa đúng với ý nghĩa của Tiêu Dao Du của Trang Tử. Có phải vậy không Bác?

Cụ Lý từ tốn trả lời:

- Thực ra Lưu Hiếu Tân không phản bác ý nghĩa mà Quách Tượng đã chú giải, chỉ bổ sung thêm góc nhìn của những danh sĩ thời Ngụy Tấn, thông qua sách Thế Thuyết Tân Ngữ của Lưu Nghĩa Khánh thuộc dòng tông thất nhà Lưu Tống. Thế Thuyết Tân Ngữ dựa vào chuyện con chim Cút cười việc con chim Bằng bay xuống biển Nam trong thiên Tiêu Dao Du của Nam Hoa Kinh:

+ “Con đó bay đi đâu vậy? Tôi lên cao độ vài nhẫn rồi xuống, bay liệng trong đám cỏ bồng cỏ cảo, bay như vậy là đủ rồi. Con đó bay đi đâu vậy kìa?”

 Hoặc là chuyện con Ve và con chim Cưu cười con chim Bằng:

+ “Chúng tao bay vù lên cây du, cây phương, như có lúc bay không tới mà rớt xuống đất thì thôi. Hà tất phải bay cao chín vạn dặm để xuống phương Nam?”

Theo đó, con chim Cưu chỉ có thể cất cánh lên cây Du, cây Phương, có khi đành phải dừng vì sức bay không tới. Chúng không đột phá được không gian. Chim Bằng lên cao 9 vạn dặm để bay xuống biển Nam, nhưng nó phải nương theo gió, chờ gió trợ lực để cất cánh lên cao.

Cũng giống như bài 1 thiên Tiêu Dao Du trong Nam Hoa Kinh cho thấy: “Liệt Tử cưỡi gió mà bay, thật nhẹ nhàng, khoan khoái, mười lăm ngày rồi về. Có phúc lớn như ông thật hiếm ở đời, tuy khỏi phải đi, nhưng ông vẫn còn tùy thuộc một cái gì (do hữu sở đãi) nghĩa là còn phải đợi cho gió nổi lên”. Phải chờ có gió nên chim Bằng cũng như Liệt Tử không đột phá được thời gian. Bị hạn chế bởi không gian, thời gian, còn tùy thuộc vào không gian, thời gian thì chưa thể thực sự Tiêu dao tự tại.

Vương Phu Chi đời nhà Thanh sau này cũng tán đồng luận điểm không tùy thuộc vào cái gì (vô sở đãi) thì mới thực sự thảnh thơi. Qua đó, Tiêu dao tự tại ngoài thuận theo thiên tánh, còn phải mang tính tự do, không lệ thuộc vào thế vật. Từ đó các nhà luận giải thống nhất chung quan điểm Tiêu dao tự tại mang tính Vô vi, tức là siêu thoát ra ngoài thế vật mà quên mình đi, không lập công, không cầu danh…

Hoàng Cẩm Hoành với Trang Tử Độc Bản thời cận đại cũng tán thành Tiêu Dao Du mang tính Vô vi, căn cứ vào cuối bài 1 thiên Tiêu Dao Du của Trang Tử có câu “Bậc chí nhân thì quên mình, bậc thần nhân thì không lập công, bậc thánh nhân thì không lưu danh”.

Ở Việt Nam đầu thế kỷ trước, sách Cổ Học Tinh Hoa có câu chuyện lấy từ bài 11 trong chương Thiên Địa của Nam Hoa Kinh. Bài diễn giải lẽ Vô vi mà Lão Tử chủ trương trong Đạo đức Kinh: “Đạo thường vô vi nhi vô bất vi” [道常無爲而無不爲] – Đạo thường hằng thì không làm gì, mà không gì là không làm.

CƠ TÂM

+ Thầy Tử Cống đi qua đất Hán Âm, thấy một ông lão làm vườn đang xuống giếng gánh từng thùng nước đem lên tưới rau.

Thầy Tử Cống nói: Kia có cái máy một ngày tưới được hàng trăm khu đất, sức dùng ít mà công hiệu nhiều. Cái máy ấy đằng sau nặng, đằng trước nhẹ, đem nước lên rất dễ và tên gọi là máy lấy nước (thời nay gọi là cần vọt lấy nước).

Ông lão làm vườn nói: Máy tức là cơ giới, kẻ có cơ giới tất có cơ sự, kẻ có cơ sự tất có cơ tâm. Ta đây có phải không biết cái máy ấy đâu, chỉ nghĩ xấu hổ mà không muốn dùng vậy.

Ông lão làm vườn không muốn dùng cơ giới, xấu hổ vì nếu sử dụng cơ giới sẽ chuyển động cơ tâm của mình. Từ lâu con người với cơ tâm đã gây bao cơ sự tranh giành, là đầu dây mối nhợ để bao điêu linh xương trắng rải khắp sa trường.

Tân gật gù tán thành rồi hỏi tiếp:

 - Thưa Bác, xem ra vậy học thuyết của Lão và Trang không tán thành cái Tâm máy móc của Nho gia phải không Bác?

Cụ Lý ôn tồn đáp:

- Đối với Trang Tử “Máy móc – trí xảo cơ giới sẽ giết chết Thiên tánh”. Từ đó Trang Tử có quan niệm: “Thánh nhân trị thiên hạ không phải bằng pháp độ, nhà cầm quyền cứ sửa mình cho ngay để cảm hóa dân. Thuận theo tánh của dân, để họ tự lo lấy sự sinh tồn của họ”.

Quan niệm này thấy được trong bài 2 thiên Ứng Đế Vương của Nam Hoa Kinh cùng với ngụ ngôn Tiếp Dư và Kiên Ngô:

+ Con chim biết bay cao để tránh cái lưới và mũi tên; con chuột đồng biết đào hang sâu ở dưới cái gò thờ thần để tránh cái họa bị hun khói, bị đào hang. Lẽ nào con người không khôn bằng 2 con vật ấy.

Trị thiên hạ nên dùng thái độ Vô vi, không dùng Cơ trí, cũng không nên quá cứng ngắc đeo đuổi theo Pháp độ. Trước đó Lão Tử - Đạo Đức Kinh có câu:

+ Dân chi nan trị, dĩ kỳ thượng chi hữu vi, thị dĩ nan trị [民之難治, 以其上之有爲, 是 以難治] – Dân sở dĩ khó trị là vì người cầm quyền theo thái độ hữu vi (dùng chính lệnh phiền hà), cho nên dân khó trị.

Học thuyết của Lão và Trang chủ trương Vô vi, người đời sau đánh đồng với “chủ trương Xuất thế” – hàm nghĩa là lánh đời, làm dật sĩ vượt thoát những ràng buộc của thế gian. Nó ngược phản với Nhập thế – hàm nghĩa là tham dự, nhậm quan gánh vác việc đời. Lẽ xuất xử, tiến lên nhậm quan hay lui về ở ẩn, từ lâu nó là nỗi dằn vặt mâu thuẫn trong người xưa.

Đối với Hướng Tú lẫn Quách Tượng, hai ông bỏ ngoài tai những dị nghị của người đời, từ bỏ đời sống dật sĩ để nhậm quan tham chính. Chắc là hai ông quan niệm “Theo luật tự nhiên, tùy theo hoàn cảnh mà mình phải thích nghi với hoàn cảnh”. Thích nghi với tự nhiên, với hoàn cảnh là được Tiêu Dao thảnh thơi tự tại. Bài 8 thiên Ngoại Vật của Nam Hoa Kinh bày tỏ:

+ “Nếu mình tự thích ý được, thì đi đâu mà không thích ý… Lánh đời, từ bỏ hết thảy, như vậy có phải từ chối trách nhiệm của một người sáng suốt và đức cao không. Bậc chí đức không cố chấp”.

Không để ông Lý phải diễn giải tiếp câu chuyện, Tân chen vào:

- Nhưng thưa Bác, các cụ ngày xưa đã đắn đo trong lẽ xuất xử, theo cháu có lẽ vì khi tham chính thì không thể nào thảnh thơi tự tại trong guồng máy đầy dẫy những Cơ tâm. Nếu vin vào lẽ “Nếu mình tự thích ý được, thì đi đâu mà không thích ý” , thích nghi với bản tánh thì Tiêu dao. Nói vậy, lỡ khi gặp phải vua như Kiệt Trụ lấy việc hại người làm thú vui, thì bậc chí đức làm thế nào mà thích nghi hoàn cảnh, Tiêu dao tự tại được?

Ông Lý điềm nhiên:

 - Vấn đề này mà tranh biện thì khó lĩnh hội đến tận cùng Cái Đạo của Lão Trang lắm cháu. Đạo mà minh thị ra rồi thì không phải là Đạo. Không thể dùng lý trí, suy luận để nắm bắt, chỉ có thể Tiếp vật hợp với Lý Tự nhiên mà nhận ra Đạo. Trong thiên Tề Vật Luận, Trang Tử chủ trương thuận theo Lý Tự nhiên và không nên tranh biện. Theo học giả Hồ Thích, vấn đề tranh biện ở Nam Hoa Kinh Quách Tượng có chú giải:

+ “Muốn làm sáng tỏ cái không phải, cái không trái, ắt không gì bằng trở lại làm sáng tỏ cái nghịch nhau của Nho Mặc. Cái nghịch nhau cùng sáng tỏ rồi thì cái cho là phải thì trái với phải; cái cho là trái thì trái với trái. Trái với trái ắt không trái. Trái với phải ắt không phải”.

Nghe đến đây Tân thốt lên:

- Lập luận này có khác gì với Sắc Sắc Không Không của nhà Phật đâu, thưa Bác.

Cụ Lý mỉm cười đồng tình:

- Đúng vậy cháu. Cao tăng Chi Đạo Lâm ngoài chú giải kinh Phật cũng quan tâm đến Lão Trang. Luận giải về Sắc Không của Chi Đạo Lâm có nhiều điểm tương đồng với ý nghĩa Tiêu dao. Học thuyết của Lão Trang cũng khá gần chân lý với nhà Phật. Cả hai cũng cùng chung phương tiện đạt đạo là tự chính mình mới thoát Khổ, tự chính mình mới thấy Tiêu dao thảnh thơi tự tại giữa cuộc sống tranh giành.

Với Trang Tử – Nam Hoa Kinh, muốn Tiêu dao thì phải + Thuận thiên tánh, thuận theo lẽ tự nhiên + Hoàn toàn Tự do, không tùy thuộc một cái gì

+ Hòa đồng cùng vạn vật, không so bì tị nạnh. Mỗi loài có sở năng riêng của mình. Ngựa Ký ngựa Kỳ ngày chạy nghìn dặm, nhưng bắt chuột đâu bằng Mèo

+ Vô vi, không ham danh lợi để được sống an nhàn. Có vô dụng thì người đời mới để mình yên hưởng tuổi trời. Cây cao cành lá sum suê mà không bị đốn, bởi vì gỗ nó vô dụng người đời chẳng để tâm

+ Từ Tiêu dao có thể suy ra hai đặc tính kia của vạn vật là bình đẳng và tương đối. Chẳng hạn, khi Trang Châu hoá bướm ( ý nghĩa vật hoá ), thử hỏi ông có chịu đổi kiếp người làm phận bướm? Và ngược lại. Cho nên vật và người bình đẳng. Lại như “ Vọng mỹ nhân hề” theo lời của Tô Đông Pha trong Xích Bích Phú, với một mỹ nhân nhiều người muốn được gần nhưng khi cô đến bên hồ nước nhác thấy bóng cô là bầy cá lặn tăm; khi cô vào rừng, đàn chim trên cành trông thấy dáng cô cũng liền tung bay biệt dạng, bởi cái nhìn về cái đẹp của mỗi loài khác nhau. Cho nên vật và người tương đối.

Tuy nhiên có người cho rằng: Tiêu dao thuận theo thiên tánh, xem sự tiến hóa là một thứ tự nhiên, mặc nhiên làm cho con người “An thời nhi xử thuận”, không góp được gì vào hiệu năng của tiến hóa. Theo đó mọi tập quán tư tưởng của xã hội không bao giờ tiến bộ được. Có lẽ vậy mà Hồ Thích, một học giả thời cận đại ở Đài Bắc chua chát:

+ “Học thuyết của Trang Tử, thực ra là một trở lực của sự tiến bộ xã hội, tiến bộ học thuật”.

 Nhưng thật ra Nho Lão Phật ở Trung Hoa lẫn Việt Nam đã hòa quyện khắng khít vào nhau.

Tư tưởng Tiêu dao của Trang, ít nhiều cũng phù hợp với cuộc sống của những bậc đại khoa sau việc quan lui về vui thú điền viên. Đầu thế kỷ trước, người cùng thời với Hồ Thích là Lâm Ngữ Đường lại đánh giá:

+ “Nhờ Lão Trang, dân tộc Trung Hoa tuy nghèo khổ mà tinh thần được quân bình không thác loạn như người Âu giàu gấp mười, gấp trăm họ”.

Tân sáng mắt lên:

- Tựu chung quan niệm Tánh tự nhiên của Đạo gia, Thiên tánh của Nho gia, Kiến tánh của Phật gia cũng được trộn lẫn trong nhận thức của người Việt nữa, phải vậy không Bác?

Thay câu trả lời, cụ Lý cất giọng ngâm cho Tân nghe một bài kệ mà cụ rất tâm đắc vào thời Lý Trần của thiền sư Từ Đạo Hạnh:

Hữu không

有空

作有塵沙有,

為空一切空。

有空如水月,

勿著有空空。

Tác hữu trần sa hữu,

Vi không nhất thiết không.

Hữu, không như thủy nguyệt,

Vật trước hữu không không.

Bảo là Có, thì nhỏ nhoi như hạt bụi cũng Có

Bảo là Không, thì tất cả đều Không

Có và Không như ánh trăng dưới nước

Đừng bám hẳn vào Có cũng đừng chấp Không là Không.

Con người chỉ thực sự Tiêu dao tự tại, chỉ khi nào con người phá chấp được, buông xả được mà thôi.


Lâm Minh Anh

● Chú thích:

Kể từ triều đại Nguỵ Tấn ( 220- 589 Công nguyên ) mới bắt đầu gọi tư tưởng Lão Trang , trước đó được gọi là tư tưởng Hoàng Lão ...!