Trận
cãi vã với vợ và ly rượu lúc hai giờ sáng làm anh thức dậy muộn. Sực nhớ tới lời
hẹn với con gái anh cất tiếng gọi nhưng không có tiếng trả lời. Cửa phòng con
gái khép hờ anh đẩy cửa bước vào con bé không có trong phòng. Nó để lại tờ giấy
chặn dưới một hộp phấn: Ba! Con đi lấy áo cưới một mình. Tối qua con đã nghe tất
cả những gì ba mẹ cãi nhau. Đừng lo cho con. Con bằng lòng với sự lựa chọn của
mình. Hãy tin con!
Anh
thoáng lo âu khi chữ “tất cả” được gạch dưới, điều đó có nghĩa vở kịch hạnh
phúc mà anh và vợ dàn dựng lâu nay đã đến lúc hạ màn. Vừa cảm thấy có lỗi với
con, anh vừa cảm thấy nhẹ nhõm cả người vì từ nay không cần phải đóng kịch trước
mặt con gái nữa. Anh sợ con bị sốc khi ngày cưới đã gần kề nhưng nghĩ đến tính
cách mạnh mẽ của nó anh lại tự an ủi rồi con gái sẽ vượt qua được thôi.
Từ
nhỏ con gái anh đã có tính quyết đoán thích điều gì là làm cho bằng được. Là
con một vợ chồng anh không muốn con xa nhà. Tốt nghiệp lớp mười hai nó tự tìm học
bổng đi du học trước ngày đi một tháng vợ chồng anh mới biết tin. Lấy xong bằng
thạc sĩ ở Pháp giờ lại về Việt Nam quyết định lấy chồng, một bác sĩ nghèo mới
ra trường là người yêu từ thời còn học phổ thông. Vợ anh phản đối dữ dội vì đã
thu xếp cho con một đám danh giá khác. Mặc cho mẹ khóc lóc giận dỗi nó tự in
thiệp, đặt tiệc, mời khách, ngày kia đám cưới vẫn được tổ chức. Nhìn hình con
gái cười rạng rỡ bên chồng sắp cưới anh mừng cho con rồi chạnh nghĩ đến mình, hạnh
phúc từ lâu đã là một thứ gì xa xỉ. Đưa tay lật một quyển sách trên bàn phấn những
dòng chữ vô tình lướt qua mắt anh: Từ nhỏ mình đã biết ba mẹ bất hòa nhưng giả
vờ như không biết. Tại sao có thể chịu đựng được nhau trong ngần ấy năm? Tại
sao phải giả vờ hạnh phúc khi không hề có. Có lẽ vì mình. Mình rất biết ơn ba mẹ
nhưng không bao giờ đi vào vết xe đổ ấy, mình sẽ hạnh phúc dù trước mắt còn nhiều
khó khăn. Quên, chưa cám ơn ba vì đã đứng về phía mình. Anh thẫn thờ đặt quyển
nhật ký của con vào chỗ cũ, nó biết nhiều hơn anh tưởng. Nhưng có lẽ con không
hiểu vì sao anh ủng hộ nó cũng như không hiểu việc nó bảo vệ đến cùng tình yêu
của mình đã làm anh cảm kích thế nào. Điều này chỉ mình anh biết, con gái làm
được những việc mà khi bằng tuổi nó anh đã không thể.
Đám
cưới được tổ chức ở một khách sạn năm sao. Ban nhạc bắt đầu dạo bài Ave Maria.
Trên lối đi trang trí toàn hoa tươi đắt tiền anh khoác tay vợ tiến dần về phía
sân khấu. Những cặp mắt mở to ngưỡng mộ có, ghen tị có đổ dồn về phía vợ chồng
anh. Không quá lời để lý giải sự ganh tị vì cả hai có quá nhiều thứ mà mọi người
đang thèm muốn: tài sản, chức vụ, cô con gái rượu du học từ Pháp về, nhất là cưới
nhau đã bao nhiêu năm mà lúc nào cũng tay trong tay, xưng hô anh em ngọt lịm.
Khi đi ngang qua dãy bàn sát sân khấu một người quen nói nhỏ vào tai anh, đúng là cặp đôi hoàn hảo. Suýt nữa thì anh trả
lời, hàng giả đấy! Nhưng như thường lệ anh vẫn đóng tròn vai của mình. Ánh đèn
Flash lóe lên khi vợ chồng con gái cắt bánh cưới, chúng sẽ hạnh phúc dài lâu
hay ngắn ngủi như tia sáng vừa rồi anh chưa có câu trả lời. Nhưng với cuộc hôn
nhân được gắn huy chương “hoàn hảo” của mình từ lâu anh đã khốn khổ vì mặt trái
của nó.
Tính
ra thời gian chung sống của anh và vợ chỉ êm ả trong một năm đầu. Sang đến năm
thứ hai những khác biệt về lối sống, tâm hồn, nhất là thái độ xem thường cha mẹ
chồng của vợ anh đã đẩy cả hai ra xa. Hết khuyên nhủ, góp ý thậm chí cả xung đột
vẫn không ai chịu dẹp cái tôi của mình. Cuối cùng vì thương con, muốn giữ cho
con có được một gia đình trọn vẹn cả hai chọn giải pháp mạnh ai nấy sống. Tuy
nhiên trước mặt mọi người nhất là con gái coi như không có gì xảy ra. Họ rạch
ròi về tài sản, công khai những khoản đóng góp chung. Có việc cần trao đổi thì
để lại giấy, viết email. Lễ tết vẫn xuất hiện trước họ hàng, bạn bè như những cặp
vợ chồng hạnh phúc khác. Con gái bao nhiêu tuổi là từng ấy năm anh sống trong
không khí giả tạo, ngột ngạt. Anh không biết mình đóng kịch giỏi hay chịu đựng
giỏi. Đã nhiều lần anh viết đơn ly hôn rồi lại xé vì nghĩ đến con. Khi con bé
vào nhà trẻ anh hẹn con lớn chút nữa sẽ ly hôn. Con đang học tiểu học anh lại hẹn
chờ con xong trung học và cứ thế cho đến hôm nay con gái đi lấy chồng.
Tiệc
cưới tan anh lái xe đưa vợ về nhà, trên xe mỗi người trở về con người thật của
mình không ai nói với ai câu nào. Cho xe vào ga ra anh buồn bã về phòng buông
mình xuống ghế khi nhớ tới câu hỏi của Khánh, sao ông không mời vợ chồng Như
Mai? Câu hỏi vô tình chạm vào vết thương từ lâu chưa khép miệng của anh. Sai lầm,
ân hận, tiếc nuối bao nhiêu thứ cảm xúc đột nhiên ùa về vây bủa, anh không hiểu
vì sao ngày ấy mình lại hành động như thế. Nhiều lý do đưa ra để biện minh
nhưng cả thảy đều không ổn. Tận cùng sâu thẳm anh biết chỉ có một lý do duy nhất
mà anh lại không muốn thừa nhận.
Cái
nghèo đeo đuổi anh từ lúc mới bập bẹ tập nói đến lúc bước chân ra khỏi làng.
Chưa bao giờ anh thấy mẹ anh nấu một nồi cơm toàn gạo trắng, không độn khoai
thì cũng độn một thứ gì khác. Nhọc nhằn đã in những vết nhăn ngang dọc trên mặt
mẹ, bà sớm già hơn so với tuổi thật rất nhiều. Cha anh thì ít khi nào cười. Hai
bàn chân to bè của ông suốt năm xa lạ với đôi dép. Nhưng trong đầu người nông
dân một chữ bẻ đôi không biết lại nung nấu một giấc mơ, giấc mơ từ trận đòn năm
anh lên mười tuổi bị người hàng xóm đánh một trận thừa sống thiếu chết khi để
trâu đi lạc sang ruộng ông ta. Từ đó cha anh không muốn con tiếp tục sống cảnh
đời như mình. Ông kiên quyết dù nghèo khó tới đâu cũng phải cho đứa con trai
duy nhất được đi học. Làng chưa có trường cấp II, mỗi ngày anh phải cuốc bộ hơn
chục cây số băng qua những cồn cát rát bỏng mùa hè, gió bấc rét thấu xương mùa
đông đến trường. Nắm cơm độn khô khốc và gói mắm ruốc là bạn đồng hành của anh
trong suốt thời gian trung học. Điều kiện học tập thiếu thốn như vậy nhưng anh
đã không phụ giấc mơ của cha mình.
Sài
Gòn đón anh với tờ giấy thông báo trúng tuyển đại học và một mớ hành lý không
thể nào gọn hơn. Cha mẹ anh sau bao năm nghèo thêm vì lo anh ăn học chỉ biết
đưa mắt ái ngại nhìn con trai xách cái túi nhẹ tênh, lơ ngơ đón xe xuôi quốc lộ
vào Nam. Khát vọng đổi đời trong anh bùng lên mãnh liệt mỗi khi lên giảng đường
với cái bụng xẹp lép. Anh lao vào làm bất cứ việc gì để tồn tại nơi mảnh đất phồn
hoa bậc nhất này. Phụ hồ, rửa chén, chạy bàn, dạy kèm và vô số việc không tên
khác. Anh không nhớ mình đã dọn qua bao nhiêu nhà trọ, đạp xe qua bao ngõ ngách
của Sài Gòn. Nhiều đêm nằm trong căn nhà sàn muỗi bay đen kịt gần cầu Trương
minh Giảng nhìn dòng nước đen ngòm anh đau lòng khi nghĩ đến giấc mơ của cha.
Bao giờ cho đến bao giờ?
Ít
lâu sau một người bạn giới thiệu cho anh dạy kèm toán con gái một nhà buôn vải lớn
ở Sài Gòn. Với anh đó là khoản thù lao vô cùng hậu hĩnh. Anh còn nhớ chỉ sau nửa
năm đã mua được một chiếc mobylette cũ. Nhưng khoảng lặng để lại trong anh đến
tận bây giờ là tình yêu giữa cô nữ sinh lớp đệ nhị trường Gia Long, cô con gái
nhà giàu khiêm tốn tế nhị và anh, ông thầy sinh viên nghèo một tuần ba buổi chạy
chiếc mobylette màu xanh rụt rè bấm chuông ngôi biệt thự ở đường Tú Xương. Năm
học trò đậu tú tài toàn phần anh hết nhiệm vụ gia sư thì cả hai cùng nhận ra họ
không thể thiếu nhau. Tận đáy lòng anh thấy có điều đó thật mong manh. Bản thân
anh biết mình đứng ở đâu trên bậc thang giai cấp và chuyện tình cảm giữa họ sẽ
không bao giờ kết thúc có hậu. Nhiều hôm đứng đợi nàng cách biệt thự cả trăm
mét, nhìn nàng len lén mở cổng anh muốn nói lời chia tay. Nhưng khi nàng nhẹ
nhàng ngồi lên yên sau chiếc mobylette, vòng tay ấm quanh lưng thì anh quên hết.
Từ
khi có nàng Sài Gòn trong mắt anh bớt nặng nề hơn. Anh tìm thêm nhiều cours dạy,
thỉnh thoảng vẫn làm những việc không tên cố gắng dành dụm mỗi tháng một lần ra
bưu điện gởi tiền về quê. Trong khi anh luôn vật vã về cái nghèo của mình thì
nàng lại không hề xấu hổ vì yêu anh. Một năm, hai năm rồi ba năm, mỗi chiều cuối
tuần nàng vẫn đều đặn băng qua con hẻm nhỏ lầy lội đến nhà trọ thăm anh. Vẫn lo
âu khi nghe mẹ anh đau nặng, cười khi nghe nói quê anh năm nay được mùa. Tình
yêu của nàng dành cho anh quá lớn còn anh vẫn chưa có lời hứa hẹn nào. Tương
lai anh không dám nghĩ tới, hiện tại anh lại không có gì để cho nàng.
Bốn
tháng sau ngày anh cầm tấm bằng kỹ sư thì biến cố 1975. Bạn bè anh kẻ tìm đường
ra nước ngoài, người lây lất bám trụ Sài
Gòn kiếm sống và cũng có nhiều người trở về quê như anh. Anh và nàng chia tay
nhau một ngày tháng mười hai. Sài Gòn hôm đó sắp Noel trời bỗng dưng đổ mưa. Cả
hai đứng sát cạnh nhau bên hông nhà thờ Đức Bà. Anh siết chặt vai nàng khi mưa
tạt xéo chỗ họ. Cả anh và nàng đều không ngờ đó là lần cuối gặp nhau. Hai năm đầu
họ vẫn thư từ qua lại. Tới đầu năm thứ ba thì thư của nàng thưa dần, thưa dần
và đến giữa năm những lá thư đóng dấu bưu điện Sài Gòn không đến tay anh nữa.
Anh
về quê được ba năm. Thời bao cấp lương thư ký hợp tác xã với mớ tem phiếu chỉ đủ
cho riêng anh. Cha mẹ anh ngày hai buổi vẫn cắm mặt xuống đất, bán lưng cho trời.
Nhà đã nghèo nay càng nghèo thêm. Cha anh trước đã ít nói từ khi anh trở về ông
càng kiệm lời hơn. Nhiều đêm không ngủ được anh nghe từ giường bên tiếng ông thở
dài. Không hiểu cha anh nghĩ gì về giấc mơ dang dở của ông khi chính anh cũng
đang loay hoay, bức bối về hoàn cảnh hiện tại của mình. Làng quê như không còn
thích hợp với anh. Những cánh đồng rộng lớn của tuổi thơ nay đã trở nên nhỏ hẹp.
Nhưng điều làm anh ray rứt lớn hơn cả tiếng thở dài của cha là những năm tháng
đã nỗ lực hết mình ở Sài Gòn. Sau nhiều đêm trằn trọc suy nghĩ, không muốn uổng
phí tấm bằng đại học ba năm qua mẹ anh cất kỹ trong tủ, một lần nữa anh lại
xuôi Nam.
Việc
đầu tiên khi anh trở lại Sài Gòn là đến đường Tú Xương. Hai ổ khóa lớn siết chặt
sợi dây xích hoen rỉ trước cổng làm anh khựng lại. Nhìn vào khe cửa bên trong
ngôi biệt thự im ắng lạ thường. Cây cối xác xơ. Rêu loang lổ. Theo thói quen
anh đưa tay bấm chuông. Người bán thuốc lá bên đường ngăn anh lại:
-
Nhà này không có người ở lâu rồi.
- Chị
có nghe nói họ dọn đi đâu không?
- Họ
đi trước khi tôi đến đây.
- Chị
bán ở đây lâu chưa?
- Được
mấy năm.
Trước
đây khi không nhận được thư anh đoán nàng đã ra nước ngoài giờ thì điều này có
lẽ đúng. Anh đứng tần ngần trước ngôi biệt thự một lúc lâu rồi đạp xe chầm chậm
qua những con đường quen thuộc: Lê Quí Đôn, Ngô Thời Nhiệm, Bà Huyện Thanh
Quan. Đến trước trường Gia Long cũ đúng giờ tan học nhìn những gương mặt mới
toanh ùa ra cổng anh mới giật mình trở về thực tại. Quay xe về hướng Phú Nhuận
anh hòa lẫn vào dòng người hối hả trên đường. Ngôi biệt thự và người anh yêu từ
nay đã thực sự nằm ngoài dòng chảy cuộc đời.
Đó
là những năm tháng rất khó khăn. Bạn bè người quen tứ tản khắp nơi rất khó xin
việc làm. Thời gian đầu anh chấp nhận làm công nhân để được ở lại Sài Gòn. Xí
nghiệp hơi xa thành phố nên anh làm việc, ăn ngủ ngay tại cơ quan. Hai năm sau
nhờ có bằng kỹ sư từ một công nhân bình thường anh được đề bạt làm tổ trưởng rồi
quản đốc phân xưởng. Lúc này anh đã dọn khỏi nhà tập thể được phân một căn hộ
riêng và có thể giúp đỡ gia đình. Thỉnh thoảng có việc ngang qua đường Tú Xương
gần đến ngôi biệt thự anh lại rẽ sang lối khác, đã đến lúc phải quên.
Cuộc
sống vừa tạm ổn thì anh nhận được một tin bất ngờ, nàng không hề ra nước ngoài
như anh nghĩ và hiện đang ở khu kinh tế mới tỉnh B. Đó là một vùng đất ít người
biết dù chỉ cách Sài Gòn hơn trăm cây số. Phương tiện di chuyển hồi đó rất khó
khăn. Gần trăm con người chen chúc nhau trên chiếc xe năm mươi chỗ ngồi. Anh gần
như đứng suốt cả chuyến đi. Mãi đến hai giờ chiều sau khi ì ạch leo lên một con
dốc chiếc xe bỏ anh xuống cạnh một cánh đồng không bóng người sát quốc lộ. Anh
tiếp tục quá giang một chiếc xe chở gạch đi sâu vào vùng kinh tế mới. Hai bên
đường nhà cửa thưa thớt ngoài những gốc khoai mì cao chưa tới đầu người chỉ có
những rẫy bắp, rẫy chuối bám đầy bụi đỏ của người dân tộc. Xe chạy trên con đường
đất đỏ thêm ba cây số thì dừng lại. Người lái xe chỉ một căn nhà lợp tole gạch chưa
tô nói: “ Đó! Căn nhà đó! Giờ này chắc mọi người còn trên rẫy”.
Anh
bước xuống xe đi về phía người lái xe chỉ. Nhà nằm lẻ loi trên một ngọn đồi.
Chung quanh nhà trồng toàn chuối, đu đủ, gió thổi mạnh những tàu chuối khô cọ
nhau kêu xào xạc. Khói đốt rẫy từ dãy núi phía sau xộc tới làm anh cay xè cả mắt.
Cửa không khóa. Trong nhà không có ai. Quần áo giăng mắc mỗi nơi một cái. Những
vật dụng rẻ tiền và nền xi măng tô lỗ chỗ càng làm cho ngôi nhà toát lên vẻ
nghèo nàn. Anh ngỡ mình đi lộn nhà định bước sang căn bên cạnh để hỏi thăm thì
phía sau giàn mướp có người đàn ông mặc bộ đồ ka ki cũ dáng vẻ tiều tụy đang bước
tới. Anh không tin vào mắt mình: đó là ba nàng. Mới có mấy năm mà ông thay đổi
không ngờ. Hình ảnh một thương gia ngày nào lái chiếc xe hơi màu đen chạy vào
ngôi biệt thự ở đường Tú Xương đã biến mất. Anh định lên tiếng chào ông nhưng rồi
lại im lặng. Nỗi hăm hở khi bước lên xe đò hồi sáng đã vụt tắt. Ký ức của tuổi
thơ nghèo khó và căn nhà trống hươ, trống hoắc trước mắt tự dưng làm anh sợ
hãi. Ba nàng vẫn không biết có người lạ trong nhà, từ sân sau ông vác cái cuốc
đi về phía bên kia đồi.
Anh
đứng đó một lúc rồi bước ra khỏi cửa quay lại cuốc bộ hơn ba cây số con đường đất
đỏ, xin ngủ nhờ qua đêm ở nhà một người dân ven quốc lộ sáng hôm sau đón xe
quay lại Sài Gòn. Một năm sau anh lấy vợ, con gái của Tổng giám đốc xí nghiệp
nơi anh đang công tác.
Thời
gian làm lãng quên nhiều thứ nhưng hình ảnh căn nhà trống huơ, trống hoắc một
chiều nào nơi vùng kinh tế mới tỉnh B chưa bao giờ rời khỏi tâm trí anh. Dù biết
không một ai kể cả ba nàng nhìn thấy anh chiều hôm ấy nhưng anh chưa bao giờ
tha thứ cho mình. Càng nhiều tuổi anh càng cay đắng nhận ra rằng phụ rẫy cái gì
thì sẽ khao khát cái đó. Nhiều lúc anh nhớ nàng quay quắt khao khát vô cùng một
bờ vai, cần biết bao một lời chia sẻ nhưng anh biết đó là điều không thể. Có lần
Khánh hỏi anh, thật sự ông yêu ai? Câu hỏi làm anh váng vất mấy đêm liền. Ngay
cả anh cũng nhiều lần tự hỏi, tình cảm anh dành cho nàng liệu có phải là tình
yêu. Khi thì mặc cảm, lúc thì toan tính, đã có lần nào anh hết lòng vì tình yêu
đó chưa? Còn với vợ, anh đã nỗ lực tới đâu để cứu vãn cuộc hôn nhân. Anh nhìn
nhận phần lớn lỗi thuộc về mình. Chỉ một thời gian ngắn sau khi kết hôn phát hiện
sự đồng điệu, lối suy nghĩ của mình chỉ thích hợp với một người, anh đã chán nản
buông xuôi khiến hố sâu ngăn cách giữa anh và vợ ngày một rộng. Khánh nói đúng,
anh không thật sự yêu ai cả nàng, cả vợ nếu có cũng chỉ là thứ tình yêu nửa vời.
Con
gái anh trở lại Pháp sau đám cưới hai tuần, trước ngày đi hai cha con hẹn gặp ở
Highlands Coffee góc Nguyễn Du- Pasteur. Nó đón anh ở cửa với ngón tay trỏ trên
môi, con sẽ tiết lộ cho ba một tin bí mật nhưng ba phải nghe chuyện của con trước
đã. Anh phì cười vì dáng vẻ quan trọng của con gái. Nghe nó vạch kế hoạch cho
cuộc sống sau này anh mừng thầm con gái chín chắn hơn anh nghĩ rất nhiều. Đang
huyên thuyên nói về mình, nó khuấy nhẹ ly cocktail và ngước mắt nhìn anh, ba
đoán thử điều bí mật con sắp nói là gì? Anh cười:
- Bí
mật của con sao ba biết được.
Con
gái đột ngột nhìn thẳng vào mắt anh:
-
Con đã gặp cô ấy.
Thoáng
chút bối rối nhưng anh kịp trấn tĩnh:
- Cô
nào?
- Như
Mai.
Cái
tên thốt ra từ miệng con gái như mũi tên trúng đích làm anh lắp bắp:
-
Sao con gặp được?
- Dạ
ở nhà chú Khánh hôm con đến đưa thiệp cưới.
Anh
ngã người ra sau ghế khi con gái tiếp tục hỏi:
-
Ngày trước ba và cô ấy yêu nhau lắm phải không?
-
Sao con biết?
-
Con đoán từ cái cách cô ấy hiểu ba.
Anh
im lặng nhìn ra phía cửa, giọng con gái vẫn đều đều:
-Cô
hỏi con, ba mẹ có hạnh phúc không? Khi con trả lời hình như không, cô nhìn con
và nói ba con là người không bao giờ có hạnh phúc. Rồi cô hỏi con đọc “Tiếng
chim hót trong bụi mận gai” của nhà văn Colleen McCullough chưa? Ba con thì muốn có tất cả nhưng lại không muốn
lao vào bất cứ bụi mận gai nào. À! Con nhớ nói với ba, cô cám ơn ba vì lần ghé
thăm ba mươi năm trước ở khu kinh tế mới tỉnh B.
Con
gái nói thêm một vài câu nữa nhưng anh nghe không rõ. Đầu anh đang muốn nổ tung
với ý nghĩ đã có người nhìn thấy anh buổi chiều hôm ấy. Miệng đắng nghét sau
khi dốc khi hết ngụm café cuối cùng anh thẫn thờ bước ra ngoài phố. Chưa bao giờ
anh thấy cô đơn như lúc này.
QUANG ĐẶNG ( Tháng
10/2013)