Chủ Nhật, 9 tháng 3, 2025

285 . HOÀNG KIM OANH - Nguyên Sa : EM CHỢT ĐẾN, CHỢT ĐI ANH VẪN BIẾT...

                                                                                            


 


"Tôi thích được giới thiệu bằng cách đọc lên một bài thơ Nguyên Sa. Đó là cách thế giới thiệu được cả Nguyên Sa ý thức và vô thức, cho thấy bản ngã của người làm thơ tương đối đầy đủ nhất, cả bản ngã đã có, bản ngã đang có
và bản ngã muốn có. Những bài thơ khác biệt mang lại những bản ngã khác biệt trong thời gian."


        (Lời giới thiệu Thơ Nguyên Sa, Nxb. Đời, tr.38-43)

 

một

Vâng. tôi sẽ nói về Nguyên Sa theo cách ông muốn. Và tôi đã đi tìm lại Nguyên Sa một thời học trò vu vơ vụng dại của tôi trong bao nhiêu câu thơ lung linh da diết mà đến bây giờ những câu thơ/bài thơ ấy cứ lởn vởn trở về trong một tà áo vàng áo xanh áo tím sân trường nắng nắng mưa mưa...

Tôi cũng không nhớ đã bao nhiêu lần trong đời ngẫu nhiên thì thầm với chính mình trước giờ tiễn biệt một ai đó..., rất thương yêu...

Chép lại đây theo trí nhớ:

Người về đêm nay hay đêm mai
người sắp đi chưa hay đi rồi
muôn vị hành tinh rung nhè nhẹ
hay ly rượu tàn hôn
/run lên môi.

Để rồi bỗng ngạc nhiên nghe lòng mình trống trải thầm tự hỏi một điều cũng vu vơ nốt:

Người về lòng tôi buồn hay lòng tôi vui
Áo không có màu nên áo cũng chưa phai
Tôi muốn hỏi thầm người rất nhẹ:
Tôi đưa người hay tôi đưa tôi?

(Tiễn biệt)


Ôi ký ức Nguyên Sa
...
Sao có thể xoá mờ? Sao có thể bỏ quên?

Sao từng câu từng chữ cứ trở về đẫm kín hồn tôi cho dẫu thời gian xuân hạ thu đông... đến đến đi đi không đợi không chờ?

Và tất nhiên, như bao lứa học trò tôi cũng nức nở bồi hồi theo tiếng hát Thái Thanh để tự vỗ về mình "Nên đến trăm lần nhất định mình chưa yêu" nhưng là khi lớn hơn một chút nữa kia... Không phải cái thời tóc còn chấm vai hay bum bê hay đuôi gà 13.13. 13. Ồ. bé quá. 13 tuổi thời ấy chúng tôi còn lò cò, nhảy dây, đánh đũa và...ngậm ô mai, ăn bò bía, bột chiên...vô tư cười đùa nghịch ngợm... không phải kiêu...


Trời hôm ấy mười lăm hay mười tám
Tuổi của nàng tôi nhớ chỉ mười ba
Tôi phải van lơn ngoan nhé! đừng ngờ
Tôi phải van lơn ngoan nhé! đừng ngờ
...
Rồi trách móc trời không gần cho tay với
Và cả nàng hư quá sao mà kiêu ...??
Nên đến trăm lần nhất định mình chưa yêu
Nên đến trăm lần nhất định mình chưa yêu


                                                 (Tuổi 13)

 

Cũng như chưa bao giờ giấc mơ Paris thôi thao thức trong tôi. Ngày ấy. bé con. bây giờ...

Paris có gì lạ không em
Mai anh về mắt vẫn lánh đen
Vẫn hỏi lòng mình là hương cốm
Chả biết tay ai làm lá sen.
(Paris có gì lạ không em?)


E ấp quá. Ởm ờ quá. Tình trong như đã. Ngỏ lời. Hy vọng. Ước ao...

 

Rồi Tám phố Sài Gòn... Tôi vẫn nhớ câu chuyện một buổi trưa Thanh Đa hai năm trước tôi và đàn chị cùng ban C TV 66-73, lớn hơn 2 khoá trước - ngồi bên nhau nhìn dòng sông Sài Gòn lặng lờ trôi phía dưới xa xa tự nhiên phát hiện: Hình như...Nguyên Sa viết bài này cho người Trưng Vương? Và thương làm sao cái tiếng 'CƯNG" không đâu lẫn được của người mảnh đất phương Nam này:


Sài Gòn mai gọi nhau bằng cưng
Vành môi nghiêng cánh xuống phân vân
Lưng trời không có bày chim én
Thành phố đi về cũng đã xuân...

 

Khuôn mặt thơ Nguyên Sa đã định hình ngay khi bài thơ đầu xuất hiện và được các thế hệ người đọc âu yếm ngợi ca tôn thờ đặt lên chiếc ngai dán mác bản quyền không sao nhầm lẫn với bất kỳ giọng thơ nào: Thơ Tình Nguyên Sa. Văn học số 99 dành trọn vẹn cho chuyên đề Nguyên Sa, thi sĩ của tình yêu. Chiếc ngai không có đối thủ. Người em sầu mộng của Thế Lữ, cô gái e ấp trong Thơ duyên - Xuân Diệu, cô em sương khói mờ nhân ảnh 'áo em trắng quá nhìn không ra" của Hàn Mặc Tử hoàn toàn đã khác. Khác "Nga", cô gái "tuổi 13", đài các dịu dàng nền nã trong "áo lụa Hà Đông", có thành phố "tháng 6 trời mưa trời mưa không dứt", và có anh chàng ngược đời: "trời không mưa anh cũng lạy trời mưa"...


Một thế giới yêu đương trong vắt và ngộ nghĩnh
học trò. Dễ thương làm sao…

Có nhớ nhung. Thao thức. Khát khao. Mơ tưởng. Thất vọng. Chia lìa. Nhưng đẹp nhiều hơn buồn... Bởi mọi thứ còn tinh khôi e ấp gắn liền với mái trường, lớp học và tuổi hoa niên học trò-đối tượng đông đảo mà nhà thơ tiếp xúc trực tiếp hàng ngày qua nghề dạy học của ông.

Một thế giới mới lớn quá đỗi chân thành, trung thực với mình, với người, với tình yêu mà bây giờ nhớ lại, lòng vẫn còn ngẩn ngơ...



hai

Nhưng, Nguyên Sa đâu chỉ có thơ. Khuôn mặt nào đích thực là khuôn mặt Nguyên Sa? Một giáo sư triết đạo mạo, nổi tiếng, ăn khách? Một nhà báo cương trực dấn thân? Một doanh nhân có đầu óc? Một nhà văn đầy tính nhân văn khai phóng? Ông còn để lại các tập truyện ngắn, truyện dài, biên khảo, sách giáo khoa Luận Lý và Tâm lý học mà học trò lớp luyện thi tú tài 2 ban A, B, C nào cũng không thể thiếu trong hành trang chạy nước rút kỳ thi tú tài 2. Thơ ông dịu dàng lãng đãng một thế giới yêu đương đầy mơ mộng bao nhiêu thì phần biên khảo, tuỳ bút, các bài báo của ông lại hừng hực dấn thân dõng dạc đòi hỏi những giá trị đúng nghĩa nhất cho văn nghệ và người làm văn nghệ bấy nhiêu. Chúng ta lâu nay chỉ dừng lại, khá nhiều và khá lâu, với thơ và nhạc Nguyên Sa mà quên lửng các mảng sáng tác khác của Nguyên Sa. Không chú ý và cũng không còn nhớ để chú ý mảng văn xuôi, lý luận nghiên cứu phê bình. Đủ thể loại. Hồi ký, bút ký, truyện ngắn, truyện dài, dịch thuật...


Tôi thật sự thú vị với các tác phẩm biên khảo của ông.
Mười năm trước, trong quá trình tìm tòi tư liệu bổ sung minh chứng cho các luận điểm đề tài nghiên cứu, tôi đã bất ngờ với những những ảnh hưởng phương Tây và Edgar Poe trong quan điểm sáng tạo của Nguyên SA. Mặc dù, năm 1967, trong một bài viết “Rời bỏ nền văn chương trú ẩn” đăng trên Tạp chí Đất nước, Nguyên Sa từng khẳng định "Lý thuyết văn nghệ của người nào là của người ấy. Lề lối sáng tạo, quan điểm nghệ thuật của người nào là của người nấy. Không thể cả ngày cứ ngồi chờ xem văn học nghệ thuật các nước khác đưa ra ý kiến sáng tạo nào mới lạ, cái lý thuyết văn nghệ nào hay hay là đọc cho mau, áp dụng cho lẹ trước các anh em. Người ta hiện sinh thì mình hiện sinh, người ta hiện thực thì mình hiện thực, người ta dấn thân thì mình dấn thân. Thôi không chơi cái trò này nữa. Nhớn rồi. Hãy rời bỏ những vùng trúí ẩn cũ. Hãy rời bỏ những động đá cần thiết cho mùa Đông nhưng tù hãm lắm, tê liệt lắm."
Thế nhưng, qua khảo sát, chính tác giả tiểu luận "Một bông hồng cho văn nghệ" (1967)- Nguyên Sa- đánh giá cao sự sáng tạo đề tài của Poe. Ông xếp các tác phẩm Poe vào loại đề tài cá biệt, loại “đề tài chỉ được chọn và chỉ chọn được một lần.” (tr.157) Và khi một tác giả đã chọn thì không ai có thể trở lại đề tài ấy nữa và hễ nói đến đề tài ấy người ta liền nghĩ ngay đến tác giả ấy như một nhãn hiệu. Quả đúng như vậy. Đó là “cảm xúc lạ” về “sự kinh hoàng trong tác phẩm Edgar A. Poe, đời sống tiềm thức trong thi ca siêu thực” (tr.159), và loại đề tài này đã đem lại cho người “sáng tạo một chỗ ngồi riêng biệt trong thế giới nghệ thuật”. Như vậy, đối với giới phê bình văn học nghệ thuật miền Nam, Edgar A. Poe được đánh giá khá cao. Ngoài ra, Nguyên Sa còn nhiều lần khẳng định quan niệm “sáng tạo không phải lên đồng hay cầu cơ và nghệ sĩ ngồi đó như cái xác không hồn để cho ngọn gió từ phương xa, tinh thần từ thế giới khác nhập vào” mà khẳng định ý thức về nghệ thuật sáng tạo “có mặt trước khi, trong khi và sau khi cấu tạo tác phẩm” (tr.120) thể hiện qua sự trăn trở tìm tòi về kĩ thuật sáng tạo. Điều này cũng tương đồng với quan niệm quen thuộc của E. Poe về lối thơ duy lý, óc suy luận trong nhiều truyện ngắn của ông. Nguyên Sa còn cho rằng Beaudelaire đã quan tâm nhiều về kĩ thuật thi ca, có lẽ muốn đề cập đến tác phẩm Sự hình thành một bài thơ (Genèse d’un poème) mà Beaudelaire đã dịch sang tiếng Pháp từ tiểu luận Triết lý về sáng tác (The Philosophy of Composition) nổi tiếng của E.
Poe. Như vậy, gián tiếp qua Baudelaire, và chắc chắn cả qua nhiều tác phẩm bằng tiếng Pháp của E. Poe mà tác giả đã tiếp cận có hệ thống trong những năm theo đuổi chương trình Cử nhân Triết học ở Pháp, ít nhiều, những quan điểm thẩm mỹ, đề tài, chủ đề, triết lý và kĩ thuật sáng tác của E. Poe hẳn đã đọng lại trong những vần thơ một thời được giới trẻ Sài Gòn yêu thích của Nguyên Sa.

Đọc Một mình một ngựa", ngay từ mấy trang đầu tôi đã thú vị vô cùng với cách phân tích thẳng thắn của Nguyên Sa. Nhân danh "một con người, với tất cả những yếu đuối đáng hãnh diện của kiếp người, tôi đã sống trong những tình cảm oán giận và lo sợ..."* Những yếu đuối đáng hãnh diện mà một con người dứt khoát không thể cúi đầu ấy, Nguyên Sa đã vượt qua và viết. Viết không khoan nhượng trước cái xấu cái ác trong văn nghệ, trong sáng tác.
"Văn nghệ là một loài mọc thẳng. Gió to quá gãy thì chịu, không thể chấp nhận sự uốn cong nào cả. Xin xỏ, nịnh hót, quy thuận, gia nhập bè nhóm, chịu sự cai trị của một kẻ khác để tác phẩm của mình được mang ra in thành sách hay trên mặt báo thì hỏng hết.
Con đường nhỏ là con đường của cành củi khô mục, con đường của rác rưởi. (...) Là một con người, với tất cả những yếu đuối đáng hãnh diện của kiếp người, tôi đã sống trong những tình cảm oán giận và lo sợ..."
(Một mình một ngựa, 1971, Nhân Văn số 3, tr.6-7)
Đúng là một mình một ngựa, Nguyên Sa dịu dàng mỏng manh lụa là đài các của thơ, giờ đang một mình dấn thân chống lại cả một thế lực "mafia văn nghệ" - 'bọn sa-đích văn nghệ" vì cái đẹp của nhân cách người sáng tạo cái đẹp trong tác phẩm văn chương hay lý luận phê bình.
Giật mình... sao mà đúng quá. Đáng để những ai làm văn nghệ hôm nay trót chọn "con đường nhỏ - rác rưởi" ấy phải hổ thẹn cúi đầu. Gió có to quá... gãy.
Thì chịu.
Ý thức.
chấp nhận.


Đây mới là một khuôn mặt khác của Nguyên Sa mà tôi đi tìm.

 

Còn Hồi ký Nguyên Sa lại là một hi hữu khác. Nhà văn/thơ tự phản tình, nhìn lại và lý giải vì sao mình sáng tác như thế này, chọn hình ảnh như thế kia..., không phải đợi đến nhà phê bình như thông lệ. Ngay cả bút hiệu Hư Trúc cũng được ông lý giải ngay những dòng dầu của tập Hồi ký gồm 4 phần, 418 trang. "Trong mọi trường hợp, những bài ký tên Hư Trúc trên nhật báo Sống không vị nghệ thuật. Hư Trúc không phải là một nhà tu hành nghiêm túc như các bậc sư phụ. Tu sĩ này, trong tác phẩm của Kim Dung có hai bản ngã, một bản ngã ban ngày và một bản ngã ban đêm, hay, nói đúng hơn, một bản ngã vô thức, một bản ngã trong đời sống thực tại và một bản ngã vô thức trong đời sống của những giấc mơ” (tr.9) Bút danh nhà báo Hư Trúc cũng là một cách lựa chọn có ý thức như Nguyên Sa kể "Nghề dạy học đòi hỏi nhà mô phạm phải khép mình vào khuôn khổ, vào kỷ luật đạo đức học đường chi phối vô thức làm tôi bị lôi cuốn bởi phần đời vô thức của Hư Trúc? Tôi muốn khiêm tốn nói lên tôi cũng không đạo đức gì hơn, nhà mô phạm này cũng là một kẻ đãng tử, ít nhất trong phân nửa đời người. (tr.11). Vô thức đó sau này là nỗi sợ hãi trải dài trong nhiều trang viết phần 1 tập Hồi ký này, về nhà tù, và những cực hình, những nỗi sợ hãi, khủng hoảng mà chính nhà thơ trải qua trong thời gian "bị bắt nhầm" ấy.

Ông cũng rất ý thức về cách tạo những rung động cho thơ mình: "Tôi thích suy nghĩ về vần, về kỹ thuật dụng ảnh, vai trò của liên tự trong việc sáng tạo hình ảnh mới lạ, sự sáng tạo ngôn ngữ, triết học và thơ, bản chất thơ, kỹ thuật khác biệt của mỗi loại thơ..." (tr.39). Và tôi cũng hoàn toàn đồng tình với ông "Vẻ đẹp của giáo đường không phải là sự cộng lại của những iên gạch. Kiến trúc của giáo đường mang lại vẻ đẹp cho mỗi viên gạch."

ba

Tôi đã dành cho mình cơ hội đọc và yêu khuôn mặt đầu tiên của Nguyên- Sa- thơ gần như cả phần đời thanh xuân nồng nàn nhất. Bây giờ tôi lại dành cơ hội cho mình đến với khuôn mặt thứ 2, 3, 4... của Nguyên Sa- biên khảo, Nguyên Sa-phê bình, Nguyên Sa-nhà báoNguyên Sa- truyện ngắn, truyện dài của ông... Những mảnh đất thật sự lấp lánh nhiều giá trị một Nguyên Sa trí thức-tài hoa-uyên bác- dấn thân chưa được tìm hiểu hết.

Không phải chỉ soi Nguyên Sa với những cảm xúc ngày mười tám hai mươi chân thật hồn nhiên, mà còn tìm kiếm Nguyên Sa trong quan điểm sáng tác, trong những suy tưởng nghệ thuật và hiểu đầy đủ hơn về bức tranh văn học miền Nam dù khoảng cách nửa thế kỷ nhưng vẫn có nhiều điều đáng cho những ai trên con đường sáng tác đón nhận và suy ngẫm, tìm ra bài học cho riêng mình. Tất nhiên không có sự đọc cuối cùng bởi mỗi lần đọc lại chúng ta có thể đã cho văn bản một ý nghĩa mới. Riêng với thơ Nguyên Sa, xét lại lòng mình, từ ngày tôi ngân nga những lời thơ, câu hát phổ từ thơ ông đầu tiên đến nay, phút này, vẫn còn đó những rung động dịu dàng, cho tôi được trở về quãng đời hoa mộng nhất của tôi - thời mới lớn.

Cái thời vu vơ làm sao mà cũng đẹp làm sao.

“Em chợt đến chợt đi, anh vẫn biết”. Tình học trò có gì hứa hẹn có ai biết nguyên do... cũng như làm sao có thể giải thích: “Trời chợt mưa chợt nắng bởi vì đâu...”

Ừ... yêu là yêu làm sao biết bởi vì đâu...

Vâng. Đọc để có thể thấy được “Nguyên Sa ý thức và vô thức, cho thấy bản ngã của người làm thơ tương đối đầy đủ nhất, cả bản ngã đã có, bản ngã đang có và bản ngã muốn có.

Cảm ơn Vũ Nguyễn, anh Thành Tôn, anh Nguyễn Châu, bạn Nguyễn Trọng Hiệp bên kia bên này đại dương và anh Nguyên Minh đã cùng tôi đi tìm lại những khuôn mặt khác của Nguyên Sa qua những tư liệu có lẽ đã nhiều năm ngủ yên trên kệ sách nhưng đọng thức mãi trong hồn người một lần gặp gỡ...

Tản mạn đêm Thị Nghè,

12. 3.19

hoàng kim oanh

Tham khảo:

1.   Nguyên Sa, 2000, Thơ -toàn tập, CA.

2.   Nguyên Sa, 1967, Rời bỏ nền văn chương trú ẩn, Tạp chí Đất Nước số 2 tháng 12.

3.   Nguyên Sa, 1998, Hồi ký, CA. Nxb. Đời.

4.   Nguyên Sa, 1967, Một bông hồng cho văn nghệ, nxb Trình Bầy

5.   Nguyên Sa, 1971, Một mình một ngựa, Nguyệt san Nhân văn số 3, phát hành tháng 9