Ông Năm trở mình nghiêng qua bên trái. Nghe nhói đau vì vết thương bên vai khá sâu. Cái thằng độc ác, chém gì mà dã man. Ông nhớ tới gương mặt đầy cuồng nộ của Ba Tiết, ánh mắt đỏ ké của hắn lúc vung dao chém tới mà ông lãnh thế khi nhảy vào can ngăn cuộc ẩu đả giữa hắn và thằng Út Trường. Bác sĩ nói tình trạng ông rất xấu, nhưng còn chút hy vọng, chứ trúng đầu thì ông tiêu đời chắc. Chuyện chòm xóm không còn như ngày trước. Cái thị xã Ngã Bảy này hồi xưa đâu có nhiều chuyện gây gỗ, đâm chém nhau tàn bạo như bây giờ! Con người hồi xưa sao hiền khô. Có chuyện gì cũng ngồi lại lai rai chén rượu nói chuyện phải quấy, chứ đâu mà đụng một chút là vác dao phay, mã tấu vung lên. Khiếp quá! Sao thời thế bây giờ ác vậy cà? Ông Năm cứ lẩm bẩm câu hỏi đó nhiều năm rồi mà không tìm ra lời giải. Ông nhìn lên trần nhà, một màu trắng xóa. À, ra mình đang nằm trong bệnh viện. Chai nước biển mới truyền xong còn đong đưa tòn ten kìa! Hình như mình ngủ cũng lâu à nhen! Nhớ rồi, cậu y tá dễ thương mập mạp đưa cho mình viên thuốc gì dài có mấy khấc màu trắng, uống vô ngủ say như chết! Nhìn xung quanh, khoảng chục giường cũng toàn mấy người đang lăn lộn, tay chân lặt lìa, treo lủng lẳng. Hình như ai bị tai nạn hay đâm chém mới được đưa vô đây? Ông nghe có tiếng ai lao xao loáng thoáng bên ngoài phòng. “Ông Năm ơi! Ông nằm phòng nào?”. Một cô gái ốm yếu, đen nhẻm, dắt theo một thiếu phụ ngoài 40 đi phía sau. Con Thảo dắt thím Tám vô thăm ông. Thím Tám, người hàng xóm, gương mặt phúc hậu, tròn, trắng trẻo, bán bánh tầm bì ngoài chợ. Thím bị chồng bỏ theo vợ bé, bán hết ruộng đất, phải đi bán bánh nuôi thân. Không biết hên hay xui là thím không có con cái, cũng không phải lo lắng nhiều, nên không thấy thím già. Thím cười: “Trời đất ơi! Hồi khuya tui tính dzô nhưng họ nói đang mổ cấp cứu cho anh, sợ nhiễm trùng nên đuổi dzìa! Giờ anh thấy sao, khỏe chưa? Tụi quỷ này chém người như chém chuối. Đi tù hết rồi! Cha Ba Tiết bị công an còng tay đưa đi sáng nay, còn thằng Út Trường trốn đâu xuống Năm Căn gì đó, đang kêu dzìa. Mà anh Năm không đỡ nhát chém đó chắc thằng Trường hôm nay mở cửa mả rồi!”. Ông Năm thều thào: “Thím ngồi chơi. Con Thảo đưa thím dzô hả?”. Ông hỏi cho có chuyện thôi chứ chỗ đâu mà ngồi. Con Thảo nó ngồi thu lu ngay mép giường ông. Con nhỏ năm nay cũng trên 20 rồi mà ốm yếu như trẻ mới lớn. Ngày thường nó bán vé số, rồi ông Năm mua giùm nó riết thành quen. Có người xúi nó lấy chồng Đài Loan như con Thắm nhà ông Năm nhưng nó không chịu, nhờ vậy ông Năm mới có đứa sai vặt, nhờ vả chuyện chợ búa khi ông bận đi làm thêm hay có ai nhờ vả chi đó.
Thím
Tám lấy cà men ra, múc cháo cho ông. “Trời ơi sao thím chu đáo quá!”. “Có gì
đâu, anh Năm, tình làng nghĩa xóm mà! Tui còn lo cho anh nhiều hơn nữa chứ
nhiêu đây nhằm nhò gì!”. Ông Năm nghe mát ruột quá! Từ hồi mẹ con Thắm mất đi
sau tai nạn bị xe tốc hành quẹt phải trong một buổi sáng khi ông đưa vợ ra chợ
bằng xe đạp. Ông Năm đã thề ở vậy nuôi con. Dù cũng có người mai mối chắp nối
nhưng quá thương con, sợ cảnh “mẹ ghẻ con chồng”, ông không đành. Riết rồi cũng
quen, thời trai trẻ qua đi theo sự lớn khôn của con Thắm. Ông tìm quên nỗi buồn
mất vợ bằng cách lao đầu vào công việc: ai thuê gì cũng làm, cho đến ngày ông
phải nhập viện vì đột quỵ. Bệnh viện quyết định phẫu thuật nội soi, gắn đến 3
stents vào người ông vì tim bị nghẽn mạch. Hơn 300 triệu phải bỏ ra cho cuộc
phẫu thuật tốn kém ấy, khiến ông khánh kiệt, phải bán vườn và cầm cả cái nhà ọp
ẹp, rồi thì vay mượn tứ tung, cả bọn xã hội đen. Ngày ra khỏi viện là ngày ông
hoang mang, nợ đầm đìa. Ông đã nhớ đến vợ. Nếu còn bả chắc mình cũng đỡ chật
vật. Hai người đi làm phải hơn một người chứ! Bây giờ gà trống nuôi con mà con
Thắm học giỏi, được vào trường chuyên nên ông phải cho học thêm khá tốn kém.
Những ngày ấy ông không dám nhìn ai vì ngại người ta nghĩ mình làm quen mượn
tiền! Bệnh tim nên không thể làm việc nặng. Ông xin làm quản kho cho con cháu
họ xa có vựa trái cây lớn. Nhưng cũng không đủ trả nợ. Cuối cùng, người ta xúi
ông gả con cho Đài Loan như bao cô gái nhà quê khác. Ban đầu ông cương quyết
chối từ, vì dù gì con ông cũng đang là sinh viên Đại học. Nhưng một hôm con
Thắm từ Cần Thơ về thăm nhà chứng kiến cảnh người ta lồng lộn xỉ vả ông vì
thiếu nợ trây không trả. Nhà cửa thì cầm cố cả rồi. Họ gọi ông là thằng già ốm
yếu, chết mẹ đi cho rồi, sống mà mắc nợ lì không chịu trả. Thắm khóc và khi bọn
môi giới đến, gạ gẫm nó. Ông gọi chúng là lũ Mã Giám Sinh thời đại. Và Thắm
đồng ý thuyết phục ông cho nó trả hiếu. Cái ngày ông gật đầu cho con Thắm lấy
chồng Đài Loan, ông đã dặn lòng không khóc. Ông thấy nhớ vợ da diết. Hôm đám
cưới, khi thắp nhang khấn mẹ con Thắm, nước mắt ông giàn dụa. Lần thứ hai trong
đời sau đám ma mẹ nó, ông khóc. Ông xin lỗi đã không làm gì để bảo vệ con, để
lo cho con tươm tất thành người mà phải gả bán. Tủi nhục quá! Và ông trả bớt
một phần nợ. Tạm yên. Sau đó, Thắm vẫn thường xuyên gửi tiền cho ông trả đến
khi dứt nợ. Khi hết nợ rồi, ông lại ân hận. Phải chi mình có tiền lo cho con,
thì nó đâu phải tha phương xứ người, xa cách nghìn trùng!
Đã
nhiều đêm từ khi con Thắm đi lấy chồng, ông tha thẩn bên bàn học của con. Mân
mê những món đồ nó bỏ lại: cây viết máy, những quyển vở cũ, những tờ giấy khen,
những huy chương thể dục… Rồi lại mở cuốn album hình, có những tấm chụp từ hồi
nó còn học tiểu học ra xem. Duy có hình đám cưới là ông để riêng, không muốn
xem. Ông nhớ dáng con ngồi học bài, dáng nó gội đầu sau bếp. Cho đến 8 tuổi,
ông thậm chí vẫn còn phải tắm, gội đầu cho nó, rồi dỗ nó ngủ khi nó cứ đòi mẹ
về. Nhớ mỗi lần gội đầu, nó la làng khi xà bông văng vào mắt, ông phải hứa mua
chè bà ba cho nó ăn, nó mới chịu nín khóc. Ông nhớ làm sao những sợi tóc mềm
của nó bay lòa xòa vào mặt ông mỗi khi chở nó ngồi phía trước. Ông nhớ tiếng
cười của con lúc kể chuyện vui ở trường hay sau này khi Thắm lớn lên, hai cha
con nói chuyện đời như bè bạn. Thắm là đứa thông minh, học rất giỏi. Ông chứng
kiến con lớn lên từng ngày từ khi 4 tuổi đến giờ.
Căn
nhà trống vắng đến nao lòng khi con ra đi. Nhiều đêm thức dậy lúc 3 giờ sáng,
ông lại hồi tưởng những ngày xưa. Ông
thấm thía lời ca dao: “Má ơi, đừng gả con xa chim kêu vượn hú biết nhà má
đâu?”. Bây giờ cha con đôi ngả, nhìn ngày về sao mờ mịt quá.
Rồi
ba năm sau khi lấy chồng, Thắm về đem theo một thằng nhóc gọi là cháu ông, dễ
thương kháu khỉnh làm sao! Nhưng ông chỉ bên cháu được hơn một tháng trước khi
nó phải về bên Nội ở xứ Đài. Sau khi con và cháu đi, ông lại buồn cả tuần. Ông
thương con xứ người cơ cực. Ba cái Tết rồi nó không về dù ông trông ngóng. Ông
luôn run người mừng rỡ khi nghe chuông điện thoại reo! Ông tập thở vì Thắm nói
ba rán sống cho con vui vì nhiều khi ông cũng thấy tức ngực khó thở. Ông biết
người bệnh tim đi rất nhanh nên ông dặn hờ thím Tám nhiều việc đến nỗi bả kêu
cha già này lẩm cẩm quá, có một chuyện dặn hoài. Có người xúi ông sao không lấy
thím Tám hủ hỉ cho đỡ buồn lúc tuổi già nhưng ông thấy mệt mỏi. Ông nói sống
một mình riết cũng quen. Bây giờ sống hai người rồi lại phải thích nghi cho vừa
lòng nhau, rủi xảy ra tranh cãi, bắt mệt!
“Ăn
cháo đi anh Năm. Sao anh thừ ra dzậy. Nhớ con phải hôn?”. Tiếng thím Tám kéo
ông về với thực tại. “Ừ thì cũng nhớ nó chứ thím! Nghe nói nó đang mang bầu đứa
thứ hai! Thím Tám đút từng miếng cháo vô miệng ông.” Con Thảo tủm tỉm: “Già mà
tình ác!”.
Ông
dặn thím. “Con Thắm điện thoại dzìa, thím đừng kể nó nghe, nó lo lắng thêm tội
nghiệp! Thím nói tui dzô chùa, dự khóa tu ba ngày mới dzìa, nhen thím!”. Vừa
lúc đó, điện thoại trong túi thím Tám rung lên. “Con Thắm, anh Năm ơi!”. Thím
Tám cầm điện thoại ra ngoài hành lang nói chuyện. Hai người nói chuyện vui vẻ
khá lâu. Con Thảo đút cháo cho ông Năm ăn tiếp. Nó nói. Thôi kết bả luôn đi,
nhận tui làm con nuôi cho thành một gia đình, hổng dzui sao ông Năm! Ông nhếch
mép muốn cười nhưng thấy đau dưới hàm. Ông tính nói. Mày khôn quá dzậy con,
nhưng ông ê ẩm khắp sườn.
Ông
thấy cơ thể mình yếu đến lạ kỳ, nhấc tay không được, chừng như xụi hết một bên
rồi. Nhát chém chí mạng ấy chắc sẽ để lại nhiều hậu quả cho ông. Tự nhiên ông
nghĩ quẩn: “Sống mệt mỏi quá, sống dai làm chi bắt mệt, chết quách cho rồi! Mai
này lấy ai hầu hạ? Thím Tám còn công chuyện của bả nữa chứ! Mình báo người ta
cũng kỳ!”.
Ông
thiếp đi trong một giấc ngủ dài. Ông mơ thấy mình đang lênh đênh trên chợ nổi,
thuyền ghe tứ xứ đổ về. Ông đi từ phía Cái Côn tới, gặp bà vợ đang ngoắc ông,
hình như từ miệt Sóc Trăng… Chu choa, bả đi đâu mà diện quá! Trẻ như hồi đôi
mươi, vành môi của bả sao giống ai kìa? À, giống con Thắm. Ông nhớ vành môi
trái tim ấy! Nhiều thằng chết! Mà sao
ghe của bả chở nhiều cam quá vậy? Cam sành Ngã Bảy nổi tiếng mà. Ông ngoắc tay
gọi bà đưa ghe sát ghe mình vì có một lớp sương mù khiến mọi thứ mơ hồ. Ông
tính khoe bà một chuyện bí mật mà bà không biết. Ông tính nói: “Mình ơi, tiền
con Thắm gửi về, tui đã chi tiêu tằn tiện mua được 2 công đất trồng cam rồi, bà
tha hồ bán.” Ông dự tính tháng tới đi nghe phổ biến cái vụ trồng theo Viet Gap
gì gì đó để xuất khẩu. Ông reo to lên. “Mình ơi, lại tui kể nghe chuyện này
nè.” Mà sao mình mua mà bả không biết vậy cà? Ông thấy ghe mình cặp sát ghe của
bà, nhưng càng gần càng thấy mờ mờ. Ông chồm tới trước nhưng thấy bóng bà lóa
lên rồi tan biến trong hư không. Ông níu áo bà thì bừng tỉnh dậy. Thì ra là mơ.
Áo còn ướt đẫm mồ hôi. Tay ông nắm chặt mép tấm drap. Trời sáng từ lâu rồi. Ông
bác sĩ thăm bệnh còn đang bận chăm sóc những người khác sau khi đi ngang qua
giường ông, thấy ông còn ngủ.
Thím
Tám xuất hiện phía ngoài. “Sao hôm nay Thím tới sớm vậy?”. “Mua đồ ăn sáng cho
ông anh đây nè.” Bà rút ra từ trong giỏ lỉnh kỉnh nào mấy hộp bánh ướt, bánh
bao, và cả cơm tấm nữa, sao mua chi dữ dzậy? “Tiền đâu thím mua. Tui chưa đưa
mà?”. “Đáng bao nhiêu đâu. Mua cho anh ăn mau hồi sức, còn dzìa mà đón cháu
ngoại nữa chứ! Tui kêu con Thắm dzìa thăm nhà tháng tới nè. Nó nói để nó thu
xếp. Tui nói nó chuẩn bị ăn đám hỏi thằng cháu con ông anh tui ở Xẻo Môn, sẵn
đi chơi luôn. Tui tính mời anh đại diện đàng trai đó nghen!”. “Trời đất, tui ăn
nói như thằng cà lăm mà thím kêu tui, chắc chết quá!”.
Ông
thều thào nói. Chợt nhớ ra điều gì, ông nói nhỏ với thím Tám. “Tui nhờ thím hai
việc, vì tui thấy mình cũng yếu lắm rồi, mất máu nhiều quá!”.
“Việc
gì anh cứ nói.” Ông Năm chậm rãi: “Thứ nhứt là nhờ thím bón phân cho 4 cây Sứ
Thái Lan mà con Thắm nó mua cho tui hồi Tết ba năm trước. Phân thì không cần
bón nhiều chỉ bón thúc khi cần thôi, và nước thì vài hôm thím châm cũng được.”
“Chuyện
thứ hai là chuyện riêng chỉ tui với thím biết. Chuyện là tui có hai công đất ở
thị xã này.” Thím Tám la lên: “Trời đất tiền đâu anh mua dzậy?”. “Ừ, thì tiền
con Thắm nó gửi, tui xài nhín lại còn dư mua được 2 công, tính tháng tới tui
trồng cam.” “Sao anh nói tui nghe chi?”. Thím Tám thắc mắc. “Tui sợ nếu tui có
làm sao thì Thím đưa 2 cái sổ đỏ cho con Thắm giùm tui. Nói nó là của hồi môn
cho con mà bây giờ tía mới có.” “Trời ơi, nó la tui chết! Anh không lo tẩm bổ
thân anh, còm nhom mà bày đặt mua đất làm gì. Bao giờ nó mới về Việt Nam, anh
ơi!”. “Thì cho người ta thuê cũng được, có thêm thu nhập, cho con cái. Còn tui
già rồi biết còn sống bao lâu nữa mà ham ăn với ham xài.”
“À
mà còn một chuyện nữa, thím ghé qua nhà, lấy trong ngăn kéo bàn học ra cái hộp
bánh bích quy cho tui.” “Hộp đựng sổ đỏ hả?”. “Không, sổ đó tui để dưới đầu
giường, thím lật lên thấy cất giùm tui, còn cái hộp đó đựng cuốn album. Dzô đây
coi hình làm chi?”. “Thôi, tui hiểu rồi. Anh muốn coi hình hồi xưa chứ gì? Bệnh
này là bệnh nhớ con đây mà!”. Ngay lúc đó con Thảo đi vô. Câu chuyện cắt ngang
lưng chừng. Nó khoe con mới mua điện thoại xịn nè. “Con để dành gần một năm mới
mua được. Hay lắm. Bây giờ ông muốn nghe ai hát con mở ông nghe. Khỏi mua dĩa
mua băng mua máy chi cho mệt.” Ông Năm ngờ ngợ: “Tiến bộ dữ? Bây giờ tao muốn
nghe Út Trà Ôn hát Tình Anh Bán Chiếu được hôn?”.
“Ông
Năm chờ con.” Nó quay sang hỏi anh y tá. “Ở đây có mạng không anh. Xong, anh mở
giùm em Tình Anh Bán Chiếu đi.” Cậu y tá dặn dò: “Mở nhỏ thôi nghe, đừng làm
ồn.” Xí, nó nguýt anh ta. “Mai, tui mua cái loa ngoài tui mở cả cái bệnh viện
nghe luôn bây giờ. Xứ này, ai chẳng khoái cải lương, cha nội.”
Và
nó để điện thoại lên giường ông Năm, giọng hát Út Trà Ôn vang lên, gợi nhớ một
thời đã xa…
Buổi
chiều, ông Năm thấy bỗng dưng phát mệt, khó thở. Bác sĩ chuyển ông trở lại
phòng Cấp Cứu. Ông nhắn với con Thảo mai có “dô” cho mượn nghe lại bài Tình Anh
Bán Chiếu. Nghe như có tiếng thím Tám kêu thất thanh. “Anh Năm ơi.” Ông thiếp
đi bồng bềnh, lại thấy bà Năm trên ghe vẫy gọi… Ông trườn mình tới trước, nhẹ
như sợi khói. Tiếng hát nghe vọng từ xa…
Ghe chiếu Cà Mau đã cắm sào trên bờ
kinh Ngã Bảy / Sao cô gái năm xưa chẳng thấy ra... chào.
Cửa vườn cô đã khoá kín tự hôm nào
/…Tôi đã vác đôi chiếu bông từ dưới ghe lên xóm Rẩy, / Chiếc áo nhuộm bùn đã
lấm tấm giọt mồ hôi… / Nhà của cô sau trước vắng tanh, gió lạnh chiều đông /
Bỗng có ai dạo lên tiếng nguyệt cầm, / Như gieo vào lòng tôi một nỗi buồn thê
thảm…
Ông
đã chìm sâu trong giấc ngủ. Không bao giờ thức dậy. Mắt dường như có chút lệ ứa
ra. Có tiếng gió rít nhẹ sau khe cửa và tiếng lộp độp ngoài hiên. Ngoài kia mùa
mưa đã về…
Nguyên Cẩn