Khu đồng cỏ chăn nuôi bò và
trồng các loại hoa màu thuộc vùng đất được người Pháp đến khai hoang… rộng lớn
lắm. Nhưng, chỉ có một căn nhà. Căn nhà cũng rất lớn, là tài sản của vợ chồng người
Pháp được xây dựng rất mỹ thuật. Căn nhà có thể trụ vững vàng được vài trăm năm;
vì được xây dựng bằng những khối đá rất lớn… và có đến mười phòng. Ba tôi mua lại khu chăn nuôi và căn nhà của vợ
chồng ông người Pháp khi cả hai phải trở về cố hương.
Nhìn căn nhà rộng lớn đó, tôi
không hiểu tại sao ông người Pháp lại phải xây nhiều phòng trong khi hai vợ chồng
ông không có người con nào; hay người thân thích ruột thịt nào. Gia đình tôi thì
lại chỉ có ba người gồm ba mẹ và tôi. “Ba mua là vì giá cả vừa với túi tiền. Hơn nữa
vì ông người Pháp đang chăn nuôi và trồng trọt nên ba sẽ không phải đổ mồ hôi
nhiều”. Ba tôi đã nói vậy với tôi.
Để phụ giúp ba trong công việc,
hai anh em ruột người Thượng tên Ney Brôn và Ney Brui đang làm việc cho ông người
Pháp đã đồng ý giúp việc tiếp cho ba. Hai anh Ney Brôn và Ney Brui thuộc sắc
tộc M'Nông - một sắc tộc rất dũng cảm cũng như có kinh nghiệm nuôi và săn bắt
thú rừng. Nhưng, là sắc tộc có truyền thống ‘ơn đền oán trả’ rất phân minh với
tất cả mọi người và mọi sắc tộc.
Tôi được ba cho tự chọn một
phòng nào mà tôi muốn. Tôi đã chọn một phòng rất rộng có cửa sổ hướng ra khu đồng
cỏ, nên mỗi sáng khi thức giấc tôi luôn mở rộng cánh cửa sổ để nhìn ra đó; vì nơi
đó có những con bò to lớn với bộ lông vàng mượt đang ăn cỏ dưới ánh mặt trời sưởi
ấm mọi sinh vật vào buổi sớm mai vốn lạnh lẽo và nhiều sương mù. Theo sự gợi ý
của anh Ney Brôn, ba tôi dựng một cái chuồng bằng cây thông để cho tôi nuôi mười
bốn con heo mọi, là loại heo đặc biệt có chân ngắn ngủn và bụng phệ gần đụng tới
đất. Khu chăn nuôi heo mọi của tôi cách xa nhà chỉ khoảng hơn một trăm thước và
nằm gần bên dòng suối nhỏ. Dòng nước suối mà tôi thấy quanh năm lạnh buốt, mà,
có những buổi sáng khi tôi đi tập thể dục với anh Ney Brui, để rồi sau đó tôi đến
đây rửa mặt mà tôi chỉ có thể nhúng hai đầu ngón tay vô dòng nước lạnh buốt rồi
quẹt lên hai con mắt. Và, như vậy xem như tôi đã làm xong công việc rửa mặt rồi.
Đánh răng súc miệng thì không bao giờ; không bao giờ tôi dám làm công việc này
bên dòng nước lạnh buốt đến tận xương.
Hai anh Ney Brôn và Ney Brui
muốn chỉ cho tôi cách huấn luyện chim săn mồi, nên một hôm anh Ney Brôn nói với
tôi:
“Chúng tôi muốn chỉ cho ‘cậu
chủ’ cách huấn luyện chim săn thú. Chim diều hâu là một trong hai ba loại chim săn
mồi vô địch mà chúng tôi hiện có. Diều hâu rất lớn, rất dữ và, rất thích ăn
thịt. Cái mỏ của nó quặp. Móng chân nó dài, cong và nhọn. Nó thường lượn lâu
trên cao để tìm mồi dưới đất. Khi nhìn thấy con mồi là nó phóng xuống nhanh như
mũi tên bay. Hai anh em chúng tôi sẽ chỉ cho ‘cậu chủ’ cách huấn luyện con chim
diều hâu khi săn mồi không cần phải từ độ cao phóng xuống mà từ chỗ đứng của ‘cậu
chủ’ nó cũng có thể bay đến con mồi dù khoảng cách xa hay gần, rồi đem con mồi về
cho ‘cậu chủ”.
Từ hôm đó, mỗi ngày hai anh
em người Thượng thay phiên nhau chỉ dạy tôi cách huấn luyện chim. Trên khu đồng
cỏ đó tôi đã lớn dần theo năm tháng. Tôi xem hai người Thượng như là người thân
vì tính tình rất hiền hậu, rất thật thà và, rất chăm chỉ. Ngược lại hai ngưòi cũng
xem gia đình tôi như gia đình của hai anh. Hai anh không còn gọi tôi là ‘cậu chủ’
nữa mà gọi là anh, mặc dù tôi muốn gọi tôi là em nhưng hai anh không chịu.
Cuộc sống của gia đình tôi đang
êm đềm và hạnh phúc, thì, một buổi chiều gần tàn vào những ngày cuối tháng ba dương
lịch, tai họa đã xảy đến với gia đình tôi. Ba tôi và anh Ney Brôn đã bị một bọn
trộm bò gồm nhiều người giết chết ngay khu nuôi bò. Hai người bị chém nhiều
nhát dao vô đầu và ngực. Anh Ney Brui ‘lết’ được về đến nhà thì cũng gục ngã vì
vết thương quá nặng vì bị mất khá nhiều máu. Anh Ney Brui không chết. Nhưng, anh
phải vĩnh viễn bị mất một cánh tay.
Khu đồng cỏ chăn nuôi của
gia đình tôi xem ra đã không còn an toàn nữa. Trang trại chỉ còn một người đàn ông
nhưng đã bị tàn tật rồi. Mẹ tôi quyết định đổi chỗ ở nhưng anh Ney Brui không
muốn rời khỏi nơi có nấm mồ của người anh thân yêu. Mẹ tôi mua một con chó săn lớn
và giao khu chăn nuôi cho anh Ney Brui cai quản. Mẹ tôi dọn nhà ra xã Trạm Hành
thuộc thị trấn Đơn Dương… cho an toàn.
***
Thời gian rất nhiều năm đã
trôi qua. Một buổi chiều kia khi tôi đang ngồi đọc báo thì thấy anh Ney Brui xuất
hiện trước cổng nhà tôi.Từ bao năm qua anh vẫn thường đến thăm mẹ tôi tuy anh
cũng rất bận rộn công việc đồng áng và phụ giúp vợ buôn bán. Anh đã lập gia đình
với người phụ nữ Việt Nam và rất đẹp. Khu đồng cỏ của gia đình tôi, phần lớn nay
đã bị nhà cầm quyền Bắc Việt “mượn” để làm khu trại cho quân đội, và, “có lẽ sẽ
bị mất vĩnh viễn rồi bà chủ ơi”. Anh Ney Brui có lần đã nói vậy với mẹ tôi… với
hai dòng nước chảy ra từ đôi con mắt của anh.
Anh Ney Brui chào tôi rồi liền
nói với vẻ không được bình tĩnh:
“Thằng ăn trộm… Thằng giết người...
Thằng ăn trộm năm xưa… Tôi biết nhà của nó rồi.Thằng...”
Tôi đặt bàn tay tôi lên vai
anh và hỏi:
“Có chắc là nó không anh Ney
Brui?”
“Tôi chắc chắn là nó mà. Gương
mặt của nó, gương mặt có vết sẹo dài từ trên trán xuống má bên phải... Tôi
không bao giờ lầm được. Tôi phải giết nó để trả thù cho anh tôi. Chính nó cũng
giết ba anh mà. Rất tiếc là tôi…”
Anh Ney Brui nhìn xuống cánh
tay cụt rồi nhìn tôi. Tôi gật đầu để anh hiểu là tôi sẽ cùng anh tìm phương cách
để trừng trị tên trộm của và giết người đó. Tôi nói với vẻ cương quyết:
“Những kẻ cướp của và giết
người dân hiền lành là kẻ thù chung. Bọn này đã giết anh của anh Ney Brui và giết
ba tôi thì tôi phải trả thù”.
Sau bữa cơm tối cùng ăn
chung với tôi, tôi tiễn anh ra về và hứa với anh là sẽ sớm tìm ra phương thức để
trừng trị kẻ gian ác kia.
Mấy ngày liền một câu hỏi cứ
xuất hiện trong đầu tôi: Tôi phải làm sao để trả được thù mà không bị luật pháp
trừng trị? Nếu tôi bị thất bại thì có thể tôi sẽ bị mất mẹ sớm. Mẹ tôi đã già và
đang bệnh. Tôi cũng không muốn anh Ney Brui bị liên lụy vì anh đang bị tật và
hơn nữa anh đang sống rất hạnh phúc với người vợ Việt hiền hậu, đảm đang và rất
thương yêu anh.Tôi không muốn anh bị tù tội vì anh đã giúp đỡ cho gia đình tôi quá
nhiều.
Mấy đêm liền tôi gần như
thức trắng vì cứ mãi nghĩ cách trả thù. Nhưng, càng nghĩ tôi lại càng quẫn trí
hơn. Tôi không muốn tên trộm và giết người phải chết mà phải sống, nhưng, phải
bị tàn tật.
***
Hôm nay tôi có hẹn với anh Ney
Brui để anh cho tôi biết nhà của tên trộm và giết người. Tôi đi mà trong lòng
không vui vì chưa biết phải nói làm sao cho anh Ney Brui hiểu vì anh Ney Brui đặt
mọi niềm tin nơi tôi. Anh tin là tôi sẽ có phương thức giải quyết, vì trong quá
khứ bao lần anh nhờ tôi khi anh gặp khó khăn, tôi đều giúp anh giải quyết được.
Đang suy nghĩ và lo lắng thì
bỗng từ đâu có một đàn chim bay ngang trên đầu tôi. Chúng vừa bay vừa phát ra
những tiếng kêu hốt hoảng vì bị kẻ thù, là con chim lớn đuổi theo phía sau. Tôi
ngước mặt lên trời nhìn đàn chim nhỏ đang cố bay thật nhanh để thoát khỏi móng
vuốt con chim lớn. Nhưng, một con bay sau cùng đã bị con chim lớn chộp được . Cảnh
tượng trước mắt đã làm cho tôi chợt nghĩ ra một kế hoạch có thể thực hành được điều
mong muốn.
Tôi biết cách huấn luyện con
chim để nó sẽ trở thành sát thủ và thay tôi trừng trị tên sát nhân; như vậy tôi
sẽ không bị tội với luật pháp. Tôi vui mừng quá nên liền đi trở vô lại trong
nhà. Tôi nhìn cái tủ đựng chén và thức ăn đã bỏ trống từ lâu. Cái tủ khá lớn và
có hai cánh cửa bằng lưới. Cái tủ xưa mà những năm xa xưa lắm nhà nào cũng thường
có và được gọi là ‘gạc-măng-rê’ theo tiếng Pháp Garde-Manger. Tôi sẽ nuôi con
chim diều hâu trong cái tủ đó. Và , sẽ huấn luyện nó.
Tôi đi trở ra đường quốc lộ.
Tôi đón xe đi đến chỗ hẹn. Anh Ney Brui đã đứng đón tôi tại bến xe. Nhìn anh Ney
Brui mà trong lòng tôi dâng lên một niềm thương mến anh vô cùng. Anh hiền hậu và
chân thật quá.
Vừa gặp nhau tôi liền đưa anh
Ney Brui vô quán nước vắng và nói rõ kế hoạch cho anh nghe. Anh Ney Brui vui mừng
ra mặt. Nhưng, liền sau đó anh đã nói ra những điều khó khăn mà anh biết:
“Chim diều hâu bây giờ khó
bẫy lắm. Chim diều hâu lớn nên khi bắt được thì người ta liền làm thịt ăn chứ
không nuôi nữa. Nuôi diều hâu thì phải cho nó ăn thịt trong khi người còn chưa
có đủ gạo để mà ăn thì làm gì có thịt cho nó. Kiếm một con chim diều hâu lúc này
thì khó khăn… gần như tìm cây kim dưới đáy biển”.
Tôi nhìn anh mà chưa biết phải
nói gì. Kế hoạch tưởng sẽ tốt đẹp nào ngờ… Ngày trước mọi người dư ăn dư mặc bao nhiêu thì
ngày nay… Một người từng kiếm sống trong rừng cách dễ dàng như anh Ney Brui, thế
mà còn phải thốt ra lời cay đắng như vậy. Anh và tôi im lặng cũng có đến dăm ba
phút thì, bỗng anh lên tiếng với đôi con mắt mở lớn vẻ hớn hở:
“Tôi nhớ ra rồi. Tôi biết một người là đồng bào với tôi đang nuôi
một con chim chuyên ăn thịt và rất dữ nhưng nhỏ hơn con diều hâu. Con chim này
có cánh dài và bay rất nhanh… nhanh như cắt. Đó là con chim cắt đó anh. nó dữ và bắt mồi độc
đáo không thua gì con diều hâu. Nhưng, nó nhanh hơn nhiều…”
“Có hy vọng gì không anh Ney
Brui?”
“Hy vọng lắm anh à. Tôi tin
tôi sẽ có được con chim đó. Người đó chắc chắn giúp tôi khi biết tôi sẽ dùng
con chim cho công việc gì. Tôi tin tưởng như vậy. Nếu anh đồng ý thì tôi đi
ngay bây giờ và khi có kết quả tôi sẽ đến nhà cho anh biết tin ngay. Nếu chẳng
may người đó không còn con chim thì chúng ta cũng đã biết phải làm những điều gì
rồi”.
Và, để tránh sự chú ý của an
ninh, tôi ngồi lại trong quán nhìn anh Ney Brui bước đi thật nhanh ra đường.
Tôi không ngờ anh Ney Brui suy nghĩ và nói năng khác xa ngày trước nhiều quá. Có
lẽ nhờ học nơi người vợ Việt mà anh Ney Brui đã thay đổi nhiều. Tôi nghĩ, với
con chim cắt thì sẽ dễ dàng cho tôi huấn luyện hơn. Tôi tin tôi sẽ thành công.
Trên đường trở về lại nhà,
tôi đã gặp và mua một cái tượng người giả bằng nhựa và dầy của một nhà may quần
áo nay đã nghỉ may.
***
Con chim cắt về nhà tôi hôm
nay nữa là vừa đúng bốn ngày. Bốn ngày qua tôi không cho con chim cắt ăn bất cứ
một thứ gì… mà chỉ cho uống nước thôi. Con chim bị đói nên lúc đầu nó còn nhảy
lung tung nhảy loạn xạ trong cái tủ đựng chén cũ mà nay đã thành cái chuồng. Cái
chuồng này tôi đặt trong nhà kho. Bây giờ có lẽ nó bị đói quá nên không còn
hung hăng nữa. Tôi lấy một con chuột con đã chết mà tôi đã bẫy được và nhét vô con
mắt của cái tượng. Hai con mắt của cái tượng tôi đã khoét đi từ khi đem về nhà.
Cái tượng có chiều cao bằng như người thật. Tôi đặt cái tượng ngay cửa ra vô nhà
kho. Con chim cắt nhìn chằm chằm vô con mồi vẻ thèm thuồng. Tôi cột chân con
chim cắt bằng sợi dây ny-lon. Khi tôi mở cửa chuồng, con chim cắt không thể bay
ngay đến con mồi được mà phải chờ tôi ra dấu bằng cái chỉ tay và nới lỏng sợi dây
thì con chim mới bay được đến con mồi. Và, đúng là nhanh như cắt. Tôi vừa ra
dấu chỉ tay về phía con mồi thì con chim...vèo một cái nó đã bay đến và dùng mỏ
mổ vô con mồi rồi ngậm luôn trong miệng và bay trở lại chuồng rồi… chén.
Ngày huấn luyện đầu tiên mà được
như vậy là tôi đã toại nguyện lắm rồi.
Ba ngày sau tôi mới lại cho
con chim cắt ăn. Nhưng, lần này với hai miếng thịt tươi nhỏ. Với một cú bay... nhanh
như cắt, con chim đã mổ vô hai miếng thịt thật gọn, nhẹ, ngay hai con mắt của
cái tượng.
Tôi sẽ còn làm đi làm lại rất
nhiều lần cho đến khi con chim thuần thục theo ý của tôi. Tôi tưởng tượng đến một
ngày không xa nữa, tôi sẽ chứng kiến kẻ đã
giết ba tôi và anh Ney Brôn đang… chống gậy đi ăn xin vì hai con mắt đã bị đui
rồi. Kẻ sát nhân phải trả món nợ và trở thành kẻ vô dụng.
***
Hôm nay cũng vừa đúng ba
ngày tôi chưa cho con chim của tôi ăn nên nó đã đói lắm rồi.Tôi mới mua thêm một
cái tượng cũng giống y cái tượng cũ tại tiệm may hôm nào. Cái tượng mới tôi đặt
cách xa cái tượng cũ khoảng năm thước và tôi đặt lên hai con mắt của cái tượng
mới hai miếng thịt. Con chim cắt nhìn tôi rồi nhìn hai cái tượng. Tôi bước đến
một cái hộp mà tôi đã để trước trên bàn. Tôi lấy từ trong hộp ra một con chim
sẻ nhưng đã chết và cầm trong tay.Tôi mở cửa chuồng cho con chim cắt của tôi
rồi bước đến bên cái tượng cũ. Tôi chỉ tay vô hai con mắt của cái tượng cũ mà tôi
đã gắn vô đó hai con mắt mới. Cái tượng này không có hai miếng thịt. Và, tôi ra
dấu cho con chim bay đến mổ vô đó. Con chim ngập ngừng khoảng một hai giây và
rồi nó cũng làm theo ý muốn của tôi. Con chim cắt lao thật nhanh như mũi tên và
đến mổ vô hai con mắt của cái tượng làm lủng hai cái lỗ thật lớn. Và, lần này
nó không bay trở về lại chuồng mà nó đứng trên đầu cái tượng nhìn tôi như chờ
đợi để được nhận phần thưởng. Tôi ra dấu cho con chim cắt bay trở lại chuồng và
tôi đi đến thưởng công cho nó con chim sẻ mà tôi đang cầm trong tay.
Tôi không ngờ con chim cắt
của tôi lại thông minh… giống như tôi vậy.Tôi nghĩ là tôi đã may mắn, may mắn
đến độ không ngờ. Tôi nghĩ đến anh Ney Brui với cái miệng cười mà hai hàm răng đã
bị cà gần sát tới nướu. Chính nhờ anh Ney Brui và người anh xấu số Ney Brôn mà
tôi đã biết cách cũng như biết kiên nhẫn để huấn luyện con chim dữ trở thành
con vật phục vụ theo ý mình muốn.Từ nay tôi sẽ cho con chim cắt của tôi ăn mỗi
ngày và tôi sẽ tập cho nó mổ nát cái mặt của cái tượng ra.
***
Đến hôm nay nữa là vừa đúng
bảy tháng tôi đã huấn luyện con chim cắt thi hành theo đúng ý của tôi với sự chứng
kiến của anh Ney Brui.Tôi đã tập cho con chim biết tấn công vô bất cứ cái tượng
nào mà tôi ra dấu,và, chỉ tấn công duy nhất vô hai con mắt mà thôi.Tôi muốn tên
giết người không được chết. Tôi muốn tên đó bị tàn tật mà thôi. Tên đó sẽ bị
đui hai con mắt để vĩnh viễn phải sống trong đen tối âm u của những ngày còn lại
trên cõi đời.
Mỗi lần con chim cắt của tôi
thực tập trên cái tượng, và, dù cái tượng đó tôi đặt bất cứ ở đâu, thì, sau khi
thực tập xong con chim cắt của tôi cũng bay thẳng về nhà. Những lần sau đó tôi
chỉ tay đến cái tượng, con chim cắt hiểu ngay đó là một mệnh lệnh phải thi hành
để rồi sau đó nó sẽ nhận được phần thưởng là hai con chim sẻ, thay vì phải bị bỏ
đói nhiều ngày. Tôi nể phục hai anh em Ney Brôn và Ney Brui đã biết cách làm
cho con thú dữ phải biết vâng lời. Thắt bao tử lại bằng cách cho ăn ít đi thì
dù đó là việc làm đối với con vật, cũng là hành động quá dã man rồi. Vậy mà chế
độ này lại hành động như vậy đối với những con người đã chịu buông súng, thì… dã
man quá xá là dã man.
Năm lần sau cùng tôi đã giao
nhiệm vụ cho con chim thực hành gần nhà của anh Ney Brui, cách xa nhà tôi mười
lăm cây số, và, cũng thành công như ý muốn. Tôi quyết định một ngày không xa nữa,
con chim cắt của tôi sẽ thật sự thi hành điều mong chờ của anh Ney Brui và tôi.
***
Còn đúng một tuần nữa thì nhà
cầm quyền thành phố sẽ làm lễ kỷ niệm ngày cướp được miền Nam Việt Nam tự do. Ngày
đó, theo thông lệ thì nhà cầm quyền sẽ cho công nhân viên nghỉ để đi tham dự buổi
lễ. Như vậy sẽ có nhiều người chứng kiến nạn nhân bị thương là do bởi con chim
gây ra nên công an không cần phải mất nhiều thời gian để điều tra.
Sáng sớm ngày 30 tháng tư năm…
tôi đặt con chim cắt trong cái túi vải và đeo lên vai rồi đi đến địa điểm tổ
chức. Điạ điểm tổ chức cũng rất gần cửa tiệm bán phụ
tùng xe đạp của kẻ sát nhân.
Tôi chọn chỗ đứng bên một
thân cây lớn cách cửa tiệm của tên sát nhân khoảng ba mươi lăm thước. Đây là
lần đầu tiên tôi cho con chim cắt của tôi thực hành nơi con người đang còn sống,
và, ở một khoảng cách vừa phải nên tôi hơi run tay. Tôi run là vì sợ con chim
sẽ hành động lầm vô người khác thì…
Người đi xem mỗi lúc mỗi
đông hơn. Hiện tại không có một người nào đứng bên cạnh tôi hay để ý đến tôi. Trong
khi chờ cho kẻ sát nhân xuất hiện, tôi nhìn con chim, con chim nhìn tôi chờ lệnh
như bao lần thực tập vừa qua. Tôi vuốt lên đầu nó như đặt hết kỳ vọng vô nó.
Vừa ngay lúc đó tên sát nhân bước ra đứng trước cửa tiệm. Cơ hội đến. Thật bình
tĩnh, tôi đưa con chim lên cao ngang tầm mắt và chuẩn bị chỉ tay về phía tên
sát nhân, thì, ngay khi đó có một đứa bé con khoảng bốn năm tuổi từ trong nhà
chạy ra và ôm lấy chân kẻ sát nhân. Hắn cúi người xuống ẵm đứa bé lên tay. Đứa
bé gái kháu khỉnh ôm chặt lấy cổ kẻ sát nhân nũng nịu làm tôi phải khựng lại. Nhìn
kẻ từng giết ba mình và người bạn Thượng cười giỡn với đứa bé, gợi cho tôi nhớ
lại hình ảnh ngày nào ba tôi và tôi cũng có những tháng ngày vui cười bên nhau
trên khu đồng cỏ. Nhìn đứa bé gái với hai con mắt tròn xoe và hai cái má phúng
phính làm tôi không nỡ ra tay ngay. Nghĩ đến đôi con mắt thơ ngây của đứa bé đó
phải nhìn thấy ba nó bị đui mù và rồi hai cha con sẽ không còn có được những
cảnh vui cười như hiện tại, và, dĩ nhiên cuộc sống của gia đình đứa bé đó chắc
chắn sẽ là những tháng ngày buồn thảm kéo dài chưa biết đến khi nào mới nguôi… làm
lòng tôi chùng xuống.
Tôi nhìn kẻ sát nhân và nhìn
đứa bé rồi tự hỏi: Có nên hành động không khi mà ba của mình và người bạn
Thượng cũng đã chết từ lâu rồi? Thù hận mãi thì hận thù sẽ triền miên không
biết đến bao giờ mới chấm dứt.Tại sao mình không tha thứ cho kẻ thù và như vậy
có lẽ lương tâm mình sẽ yên ổn hơn trong những ngày còn lại trên cõi đời này. Nếu
kẻ thù của mình có bị đui cả hai con mắt rồi, thì, mình sẽ nhận được gì khi đứa
bé kia không còn có những nụ cười hồn nhiên thơ ngây nữa.
Tôi nhìn đưa bé gái một lúc
nữa rồi quyết định tha cho tên cướp của giết người. Tôi tha cho hắn cũng vì tôi
thương đứa bé gái sẽ phải sống những ngày tuổi thơ đau buồn. Những đứa bé thơ
trên quê hương miền Nam thương yêu của tôi đã phải chịu quá nhiều đau khổ mất
mát và thiếu ăn kể từ sau ngày 30 tháng tư năm 1975 vì những người cha, những
người thân của những đứa bé thơ đó đã cầm súng quyết chống lại bọn cướp nước
nên rồi phải chịu tù tội, chịu đọa đầy, mà một số không nhỏ phải bỏ xác nơi
rừng thiêng nước độc chỉ vì đã tin vô những lời dụ dỗ hòa giải hòa hợp của bọn
cướp nước.
Trước khi rời khỏi nơi đang
đứng, tôi nhìn lại tên giết ba tôi và anh Ney Brôn với lòng không còn thù hận.
Tôi nhìn đứa bé và thầm mong cho nó được vui cười và hạnh phúc mãi mãi bên
người đã từng nhúng tay vô máu để cướp đi mạng sống của hai người. Tôi bước
từng bước chậm rãi đi về hướng có ngôi chợ. Ngôi chợ chính của thị xã mà những
ngày còn ấu thơ, tôi được theo ba tôi mỗi khi ông đi giao hàng là những sản phẩm
nuôi và trồng trong nông trại. Những lần như vậy tôi luôn được ba cho ăn tô bún
bò Huế có chút ớt cay cay và rồi sau khi ăn, tôi cũng luôn được uống ly sữa đậu
nành lạnh.
Tôi cố dằn để ngăn cơn xúc động
mạnh khi nhớ lại những năm tháng vàng hoa mộng trên quê hương tự do ngày cũ.
Tôi đi vô chợ và đi đến gian
hàng bán gà con. Tôi mua hai mươi con gà con với một cái lồng. Con chim cắt của
tôi rất xứng đáng được nhận những phần thưởng, mặc dù hôm nay và mãi mãi về sau
nó sẽ không cần phải làm một việc gì cho tôi nữa. Tôi sẽ nuôi con chim thật đầy
đủ trong một vài năm như là sự cảm ơn của tôi đối với nó. Sau đó tôi sẽ trả nó
về với núi rừng, với bầu trời cao và rộng. Con người hay con vật cũng đều muốn
được sống tự do.
Trên đường đi tôi cũng ghé vô
tiệm tạp hóa mua một lít rượu đế ngon. Tối nay anh Ney Brui sẽ đến nhà để nghe
tôi kể về kết quả. Tôi sẽ cố gắng giải thích, tôi sẽ cố gắng thuyết phục cho anh
hiểu. Và, tôi tin anh cũng sẽ đồng ý với quyết định của tôi, mặc dù truyền
thống của sắc tộc M`Nông là phải trả thù cho những người thân đã bị sát hại.
Thành phố chiều nay có nhiều
nắng nên ấm và đẹp hơn mọi ngày. Nhiều người đang đi trên đường phố ngược chiều
với tôi đã nở nụ cười thật tươi với tôi khi tôi nhìn ngay mặt họ. Có lẽ họ cũng
muốn hoà chung một niềm vui với tôi chăng.
Tôi lại nhớ đến đôi mắt thơ
ngây với hai cái má phúng phính cùng nụ cười của đứa bé. Kỷ niệm thời thơ ấu
của tôi trên cánh đồng cỏ xanh tươi mượt mà bên cạnh dòng suối mát lạnh chợt
hiện ra trước mắt làm tôi xúc động. Tôi nhìn con chim và ôm nó sát vô mình tôi
hơn. Nhưng, mắt của nó cứ nhìn chằm chằm đến những con gà
con đang kêu chíp chíp trong cái lồng chứ nó không màng gì đến cử chỉ âu yếm
của tôi đang dành cho nó. Con chim hiện tại thật hiền và thật ngoan. Nhưng, khi
cần thì nó chính là con chim sát thủ rất nguy hiểm./.
Topa (Hòa Lan)