Thứ Tư, 19 tháng 3, 2025

311 . PHẠM THÀNH CHÂU - Người Bỏ Chạy.

                                                                                                   


              

        Giữa trưa nắng gắt, chiếc xe gắn máy chở đôi đang chạy nhanh trên quốc lộ, đến một cột mốc cây số thì dừng lại, tấp bên đường. Hai người đàn ông trên xe đứng ngó mông. Một con đường đất được đắp cao, vắt qua cánh đồng nứt nẻ, vào trong lũy tre cùng dương liễu phía xa, ở đó, thấp thoáng những mái nhà, với những cây cau vươn cao, những cây dừa nghiêng mình dọc theo mép bờ ruộng. Sau lưng xóm nhà đó là một dãy những đồi cát, cao sừng sững như những đợt sóng thần, chực đổ ụp xuống, phủ lấp mấy xóm nhà nằm dọc theo những đồi cát “Sau mấy "động cát" đó là biển. Biển rất gần, trên bãi cát trắng, có những thuyền đánh cá nằm trên bờ. Bọn mình thường ra đó tắm biển trong mấy ngày nghỉ học”



        - Ông có chắc là vào đúng chỗ không? Trên bốn mươi năm rồi, chẳng còn gì trong trí nhớ của tôi. Tôi thấy, dọc quốc lộ, suốt mấy cây số trên quãng đường nầy, làng xóm trong kia giống nhau. Cũng lũy tre, cũng những động cát phía sau, cũng đồng ruộng...Tôi chịu thua, không nhớ chỗ nào?

        - Ông yên trí, Tôi đi ngang qua đây hoài, tuy cảnh vật đổi thay nhưng cái trụ cây số nầy thì nó vẫn nằm đây. Ông còn nhớ, tụi mình đạp xe đến cái cột mốc nầy thì quẹo vô, đến nhà thằng Hùng, rủ anh em nó ra biển nô đùa không?

        - Mục đích tôi rủ ông đi là đến nhà ông Hùng, để thăm anh em nó. Ông có biết gì về gia đình Hùng không?

        - Thú thật với ông, sau bảy lăm, tôi chưa bao giờ vào xóm nầy. Đời sống quá khó khăn, không tâm trí đâu mà đi thăm bạn bè, nhưng theo tôi biết thì ông bà già của Hùng đã mất rồi, Hùng đi tù cải tạo cũng chết trong tù, chỉ còn lại cô Phương, là cô em. Nghe nói cô ta vẫn sống độc thân, hình nhö vẫn còn ở trong xóm nầy. Tôi với ông vào thử, họa may gặp được người thân của Hùng để hỏi thăm. Hình như ông với cô Phương có tình cảm, tình yêu gì đó. Lúc đó, tụi nầy tin rằng sau nầy hai người sẽ thành vợ chồng” “Tôi về đây để tìm cô Phương, nhưng kiểu nầy e tìm không ra. Thời thế đổi thay, xã hội cũ, con  người cũ không còn nữa. Không biết cô Phương hiện nay ra sao? Bây giờ tụi mình vô đại trong xóm hỏi thăm xem sao" "Có lẽ phải hỏi người lớn tuổi, trên năm mươi, họa may có người còn nhớ”

        Chiếc xe gắn máy nhảy chồm chồm trên con đường đất gồ ghề. Độ một cây số thì cả hai dừng lại trước một quán nước bên đường, nằm ngay đầu xóm, sát với hai trụ cổng bằng gạch, cao khoảng năm mét, loang lỗ những vết đạn chiến tranh, bạc màu, tróc vôi vì thời gian. Đây là một quán nước vừa là nhà ở, nghèo nàn thường thấy trên những con đường làng thôn quê. Phía trước làm chỗ buôn bán, cách một vách phên tre, phía sau là giường ngủ. Cũng mái tranh mục nát, vách phên cũ đến độ muốn bung ra. Trước quán bày những hũ kẹo, những bánh ít, bánh ú, những nải chuối chín, những trái ổi, trái mãng cầu...Một cái bàn gỗ mộc đen xỉn, trên để một bình tích trà, một cái khay nhỏ với vài ba chiếc li nhựa đủ màu. Chủ quán là một người đàn bà tuổi trên năm mươi, hơi cao và gầy, tóc tai biếng chải, áo quần nhàu nát, tăm tối, chỉ có đôi mắt vẫn còn tinh anh nhưng phảng phất buồn. Chị ta không nhìn khách, cũng không chờ khách gọi thức uống, có lẽ để khách được thoải mái ngồi nghỉ một lát rồi lên đường, tiếp tục cuộc hành trình. Hỏi khách cần gì cũng là cách bắt buộc khách ngồi nghỉ trong quán phải ăn uống một thứ gì. Thấy chị chủ quán cắm cúi trên rổ rau, một người hỏi.

        - Chị có nước đá không chị?

        Chị chủ quán buông chiếc dao nhỏ vào rổ rau.

        - Dạ có! Mấy ông uống trà, cà phê hay nước ngọt?

        - Chị cho hai chai bia. Nóng quá, chịu không thấu!    Chị chủ đem hai cái ly đựng mấy cục nước đá, hai chai bia để trên bàn rồi quay về ngồi lại chỗ cũ, tiếp tục công việc. Hai người bưng bia uống rồi khà một tiếng ra vẻ đã khát lắm. Một người quay nhìn vào trong xóm.

        - Cái cổng nầy thì đúng rồi, nhưng nhà cửa thay đổi, đường sá cũng khang trang hơn trước. Coi bộ khó tìm nhà cô Phương. Nghỉ một lát cho bớt nắng rồi hãy vào xóm. Đâu gấp gáp gì. Bây giờ ông kể lại chuyện tình giữa ông với cô Phương ra sao? Tưởng ông đi sĩ quan Đa Lạt, ra trường về cưới cô ta. Không ngờ, đến bây giờ vẫn còn đi tìm cô Phương. Định nối lại tình xưa hay sao đây?

        - Tôi không ngờ cô Phương đến bây giờ vẫn sống một mình. Thời đó, chiến tranh quá ác liệt, nhiều khi, tôi định về cưới cô, nhưng sau mỗi trận đánh, thấy đời mình thật là mong manh, chỉ cần một viên đạn, một mãnh đạn pháo nhỏ cũng đủ quật ngã người lính để không bao giờ đứng dậy nữa. Tôi không muốn cô Phương thành góa phụ với một bầy con.

        - Ông có thường về thăm cô ta không?

        - Có. Sau khi tốt nghiệp sư phạm, cô về dạy ở một trường thôn quê. Tôi hành quân liên miên ở vùng giới tuyến, chỉ khi đơn vị về hậu cứ, tôi mới đi phép vài ngày. Chiều thứ sáu lái xe đến trường đón cô về thành phố, sáng thứ hai đưa trả lại cô về trường.

        - Như vậy thì tội nghiệp cô Phương quá!

        - Nhưng lương tâm tôi chỉ ân hận một điều là đã làm cho cô phải dỡ dang, chứ sự thật thì tôi vẫn giữ cho cô được trong trắng.

        - Ông nói vậy mà ai tin được. Lính tráng, sống rày chết mai, hưởng được giây phút nào thì biết giây phút đó. Đưa người đẹp vô phòng ngủ mà chẳng làm gì? Chuyện lạ đời!.

        - Để tôi kể ông nghe. Lần đầu, chúng tôi vào khách sạn. Cô ta nói với tôi rằng. “Cuộc đời em thuộc về anh, anh muốn gì em cũng cho anh. Nhưng rủi anh không cưới em thì đời em sẽ khổ. Một mình em làm sao nuôi con? Mà chiến tranh, loạn lạc, chắc gì em lo được thân em. Thà một mình em chịu khổ, chứ con chúng mình, nó tội tình gì!” Ý cô muốn nói rằng tôi muốn gì, cô cũng chiều, nhưng rủi có bầu thì cô sẽ khổ. Nhưng tôi lại nghĩ thêm rằng, nếu hai đứa chờ đến hòa bình mới cưới nhau thì biết đến bao giờ! Mà rủi hôm sau ra trận, tôi lãnh viên đạn thì cô làm sao lấy chồng khi cô đã thành đàn bà. Đòi hỏi quá nhiều ở cô thì thật tội nghiệp. Cả hai đứa tôi đã lớn rồi, không còn lãng mạn, lý tưởng như thời còn đi học. Nhiều khi đang dạo phố với nhau, đột nhiên cô ôm tôi khóc ngon lành. Hỏi, cô lắc đầu, nhưng tôi biết cô sợ tôi chết. Cô sợ giây phút được tin tôi tử trận. Thế nên tôi an ủi cô "Cám ơn em đã khóc cho anh. Anh xin nhận những giọt nước mắt nầy của em. Nước mắt lo sợ và cũng là nước mắt vĩnh biệt. Anh không sợ chết nhưng anh hứa với em, anh sẽ thận trọng, khôn ngoan hơn trong mọi quyết định, vì không chỉ riêng anh mà còn biết bao chiến hữu, đồng đội dưới quyền anh cũng chịu hậu quả". Thế là từ đó, chúng tôi là đôi bạn đúng nghĩa, nhưng trong đó còn có tình yêu. Thương nhau, nhớ nhau. Tôi là thằng lính, giây phút nào cũng nghĩ đến sự an toàn cho đơn vị, cho đồng đội. Khi đụng trận thì trí óc căng thẳng như giây đàn. Phải quyết định thật nhanh, thật chính xác, vì lúc đó, cái chết ào đến như đàn ong đang tấn công. May, rủi, sống, chết chỉ trong tích tắc. Hiếm khi tôi có được giây phút thoải mái để nghĩ đến riêng mình, đến người thân yêu, nhưng tôi biết, về phần cô, cô nhớ tôi nhiều lắm. Những lá thư dài cô gửi cho tôi hàng tuần đã cho tôi biết cuộc đời cô đã gắn liền với tôi.

        - Bây giờ ông về đây, nếu tìm thấy cô Phương thì ông giải quyết ra sao?

        - Cầu cho cô có được một cuộc sống bình thường. Nếu tệ quá thì tôi nhất quyết phải đưa cô ra khỏi đây, ít ra phải về thành phố. Tôi có thể lo cho cô chu toàn, rồi sau đó sẽ tính tiếp.

        - Ông nói thật lòng ông đi! Cô Phương bây giờ không còn như trước nữa. Thời thế đổi thay, những người cai trị mới đã cố tâm dập vùi gia đình cô ta xuống dưới bùn đen. Khi họ đã ra tay trả thù thì chỉ có nước chết, có sống cũng không còn là con người nữa. Cô Phương sẽ như thế, sẽ tàn tạ quá sức ông tưởng tượng...

        Người đàn ông ra dấu cho bạn đừng nói nữa.

        - Ông có hiểu lầm tôi không? Giá như cô Phương đã chết rồi, tôi vẫn có thể ấp ủ bộ xương của cô như lúc cô còn sống. Tôi yêu thương cô hơn cả bản thân tôi.

        Người đàn ông nghẹn lời không nói tiếp được. Thấy bạn xúc động, người kia kêu hai chai bia nữa, chị chủ quán đem bia ra, bỏ thêm mấy cục nước đá rồi về lại chỗ cũ, tiếp tục cuùi maët xuoáng rổ rau. Chị ta ngồi xây lưng về phía hai người khách, thỉnh thoảng ngước nhìn qua cửa sổ, thẩn thờ như không quan tâm đến câu chuyện của họ. Hai người lại tiếp tục.

        - Sau đó thì sao?

        - Thì đi tù.

        - Có liên lạc, thư từ cho cô ta không?

        - Để làm gì? Thằng tù mất nước thì còn gì để nghĩ đến nữa? Ở tù mà không có ngày về thì chuyện chết trong tù chỉ là thời gian thôi. Bạn tù chết liệt địa mà chẳng ai thèm nghĩ đến lượt mình. Ra tù, tôi có gửi thư cho cô. Toâi bò chính quyeàn Coäng Saûn quaûn cheá, coù ñi ñaâu ñöôïc. Qua Mỹ, tôi cũng gửi thư cho cô. Không được trả lời, tôi mới về đây nhờ ông.

        - Bây giờ mình thử vào xóm hỏi quanh, hi vọng cô Phương còn ở đây. Hay là hỏi chị chủ quán xem sao. Chị ơi. Chị biết trong xóm nầy có cô nào tên Phương không?

        Chị chủ quán trả lời mà không quay đầu lại.

        - Cô Phương thì không có, chỉ có bà Phượng, nhà đằng kia, quí ông ngồi đây, thấy mấy cây cau cao nhất, cứ đến đó hỏi thử. Nghe nói vợ chồng bà Phượng đã về Bắc thăm gia đình rồi. Nhưng quí ông cứ vào đó hỏi xem sao.

       

        Sau khi trả tiền, hai người lên xe, chị chủ quán bước ra cửa nhìn theo. Chị ta biết chiếc xe phải chạy vòng vèo trong xóm một lúc, đến chiếc cầu nhỏ bắt qua con rạch rồi quẹo trái mới đến nhà bà Phượng. Tuy hơi xa nhưng đứng đây, chị ta có thể thấy rõ vì nhà nằm ngay bờ rạch, tiếp giáp với cánh đồng. Đứng một lúc, chị quay vào, và như tình cờ, chị soi mặt mình trong chiếc gương nhỏ treo trên cột nhà, gần bếp lửa. Chị chải đầu, vuốt tóc ra phía sau, rồi lại soi gương, nghiêng ngó những nếp nhăn ở khóe mắt, gò má. Chị đưa hai bàn tay lên, nhìn đăm đăm, ngạc nhiên như lần đầu thấy chúng. Những đường nhăn, những mạch máu xanh đen, những ngón tay xương xẩu, khô đét như chân một con chim đã chết. Chị thở dài, lắc đầu, bước ra cửa, tựa người vào vách, nhìn về phía chiếc cầu nhỏ như chờ đợi. Rồi thì chiếc xe gắn máy chở hai người đàn ông xuất hiện, dừng lại ở dốc cầu. Một cậu thanh niên qua cầu, hai người hỏi cậu ta gì đấy, cậu ra dấu, chỉ ngôi nhà khang trang có hàng cau cao trước sân. Chiếc gắn máy đổ dốc, dừng lại trước ngôi nhà đó. Chị chủ quán biết chắc nhà không có người vì gia đình đó đã về ngoài Bắc, chỉ còn một bà cụ nghễnh ngãng, chẳng biết gì. Chị ta mỉm cười, theo dõi và chờ chiếc xe sẽ thất vọng quay ra. Chị ta sinh ra, lớn lên ở trong xóm nầy, chuyện gì, người nào chị cũng biết rõ. Hai người đàn ông đó tìm đúng nhà cô Phương, nhưng sau bảy lăm, nhà bị tịch thu, gia đình cô Phương bị đuổi ra, và cán bộ vào ở. Bà chủ mới của ngôi nhà đó tên Phượng.

        Khi thấy chiếc gắn máy trở đầu, chị chủ quán định quay vào, nhưng bất chợt chiếc xe dừng lại trước một người đàn bà vừa đi tới. Người đàn bà chỉ chỏ ngôi nhà rồi lại chỉ tay về hướng quán nước. Chị chủ quán biết rõ người đàn bà đứng kia, đó là bạn chị ta. Và chị cũng đoán được những đối đáp giữa họ với nhau. Chị biết người đàn bà sẽ nói "Đúng rồi, trước kia là nhà cô Phương, bây giờ chủ khác rồi" "Chị có biết bây giờ cô Phương ở đâu không?" "Cô Phương ở ngoài cái quán nước đầu xóm đó. Cô là chủ quán. Cứ ra đó thì gặp" Thấy hai người đàn ông đi xe gắn máy quay nhìn về hướng mình, chị chủ quán bước lùi vào trong, nép mình sau vách nhà, mắt vẫn theo dõi họ. Khi chiếc gắn máy lên dốc cầu, khuất vào con đường nhỏ, chị chủ quán vẫn còn tựa vào vách nhà, đứng lặng một lúc rồi thở dài. Chị nhìn xuống bộ áo quần đang mặc trên người, đưa tay vuốt tà áo. Chiếc áo trắng bạc màu, sờn vai với mảnh vá ở tay áo. Chị lại vuốt tóc rồi bước đến chiếc gương, soi mặt mình vào trong đó. Chị thấy những nếp nhăn như hiện rõ hơn, xương gò má cao lên, mắt sâu vào và mái tóc bỗng bạc trắng. Cô giáo xinh đẹp ngày xưa đã biến mất, không lưu lại chút dấu vết nào. Mấy mươi năm nay, từ ngày bị đuổi ra khỏi trường, không được dạy học nữa, chị chưa bao giờ để ý xem dung nhan, thân thể, áo quần mình ra sao. Cả đến cái quán nước ngày càng xiêu vẹo, mục rã, chị cũng không quan tâm. Chị như con thú hoang, cô độc, quanh quẩn trong cái hang ẩm mốc, nằm tình cờ bên đường, chẳng ai nhìn đến... Chị cứ đứng nhìn sững mình trong gương, không thể ngờ mình tàn tạ, còm cõi như một bà lão. Rồi chị thấy hai giọt nước mắt long lanh xuất hiện trong gương soi. Chị ôm mặt, quị xuống, cố gắng không khóc, nhưng chị lại khóc oà lên. Gần ba mươi năm, giòng nước mắt, lần đầu được dịp tuôn trào. Chị ngồi im, nghiến răng, kềm chế, nhất định không than thở, không kêu rên. Kể từ sau năm 1975, không bao giờ chị khóc. Cha chết trong tù, chị không khóc, rồi người anh chết trong tù sau đó, chị cũng không khóc. Cách đây vài năm, mẹ chết, mắt chị vẫn ráo hoảnh. Những người thân yêu không còn, chị chẳng thiết gì trên cõi đời nầy nữa, bình thản chờ ngày theo cha, theo mẹ, theo anh.

        Chị nghe, hình như có tiếng xe gắn máy trong xóm vang đến. Đột nhiên chị đứng lên, vùng chạy ra cửa sau. Chị băng qua cánh đồng còn trơ gốc rạ, bước bừa lên những bờ ruộng. Cánh đồng quá trống trải, chị phải cố sao cho đến được hàng dương liễu đằng kia. Núp sau gốc cây thì không ai thấy được. Chỉ mấy trăm thước mà chị chạy mãi không đến. Chị không ngờ mình suy kiệt đến thế! Chị vừa chạy vừa quẹt cánh tay lên mặt, chùi nước mắt. Thất thểu chạy được một quãng, chị vấp phải bờ ruộng, ngã xuống, lại gượng dậy chạy tiếp. Rồi lại vấp, lại ngã xuống, lại gượng dậy. Chị giở chân không còn cao nữa nên cứ vấp mãi. Chị kiệt sức, lạng quạng. Cảnh vật trước mặt nhòe nhoẹt, nghiêng bên nầy, bên kia, khi xa, khi gần, như muốn kéo chị chúi nhủi xuống. Rồi mặt đất đổ ụp lên mặt chị. Chị ngã lăn ra bất tỉnh.   

       

        Chiếc xe gắn máy dừng lại trước quán nước. Người đàn ông ngồi sau xe vui vẻ kêu lên.

        - Phương  ơi! Phương. Anh đây nè!

        Nhưng quán vắng tanh. Hai người dựng xe, vào quán. Một người đi vòng ra sau quán đứng ngó mông. Đồng không mông quạnh, không một bóng người.

        Đột nhiên ông ta kêu lên.

        - Trời ơi! Sao dậy nè? Ra đây phụ tôi một tay, ñôõ Phöông voâ nhaø. Mau leân!