Ta ngồi lại bên cầu thương
dĩ vãng Nghe giữa hồn cây cỏ mọc hoang vu
(Hoài Khanh,
Ngồi lại bên cầu, Thân phận, tr. 19)
1.
Nếu
lấy mốc ra đời tập thơ đầu tiên Dâng rừng
năm 1957 thì cho đến nay, thi sĩ của dòng Cà Ty, Hoài Khanh, đã đi qua một
hành trình hơn nửa thế kỉ với văn chương Việt, với văn học miền Nam. Hơn nửa
thế kỉ ấy, không chỉ với tư cách là một nhà thơ nổi tiếng, Hoài Khanh còn là
một dịch giả chuyên giới thiệu các tác phẩm triết học của các nhà văn lớn như Martin Heidegger, Hermann Hesse, hay tác
phẩm của Henry Miller, Walter Kaufmann… Nhà thơ từng là “người coi sóc” tập san
văn nghệ Giữ thơm quê mẹ do nhà Lá
Bối xuất bản, quy tụ những tác giả lớn, gây được tiếng vang đáng kể, rất có ảnh
hưởng trong văn giới trí thức. Đồng thời, Hoài Khanh cũng từng là người điều
hành nhà xuất bản Ca Dao - một nhà xuất bản có uy tín ở miền Nam, đã in được
nhiều tác phẩm có giá trị trước 1975.
Viết
về một tác giả của văn học miền Nam trước đây thật sự là điều không dễ. Hầu như
người viết hôm nay phải bắt đầu từ những con số không. Bởi tư liệu, sách vở về
giai đoạn này thật sự hiếm hoi. Phần thất tán. Phần bị hạn
chế. Phần thời gian hủy hoại…Một sự đứt mạch nửa chừng...Mà thời gian thì
không chờ không đợi một ai, cứ thế, lạnh lùng, khắc khoải:
“Nước xuôi lạnh một dòng sầu
Biết về đâu hỡi mấy màu thời
gian”
(Hoài Khanh,
Dòng sông của tôi, Thân phận,
tr. 26)
Trong
tiểu luận Thi ca miền nam 54-75, nhà
nghiên cứu Nguyễn Vy Khanh cho rằng “Kẻ hậu sinh sau này muốn tìm hiểu con
người và cảnh tượng đời sống Việt thế hệ 1954-1975 không thể không mở tìm lại
những trang thơ mang suy tư về cá nhân và tập thể của Mai Trung Tĩnh, Hoài
Khanh, Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên, v.v » Nhìn lại với độ lùi bốn mươi năm,
càng lúc độc giả hôm nay càng thấy rõ một sự chênh vênh phi lý khi nhìn lại
những khoảng trống hiện nay trong việc nghiên cứu văn học miền Nam. Rõ ràng bộ
phận văn học ấy thực sự cần được nhìn lại ở nhiều góc độ khách quan, công bằng
hơn. Vì vậy, việc tập san tư
liệu-sáng tác văn học nghệ thuật Quán Văn, với tôn chỉ gìn giữ những giá trị
văn chương đích thực, lần lượt chọn giới
thiệu những cây bút tiêu biểu của một nền văn học quá khứ đến nay vẫn
gắn bó máu thịt với đất nước và con người miền Nam..., từng là một dòng chảy
độc đáo của văn học Việt Nam, thật sự
là một việc làm có ý nghĩa. Tuy chỉ là một phần nhỏ nhoi của dòng chảy ấy,
nhưng đáng quý biết bao cái tình văn chương.
Nếu không có những giọt nước nhỏ nhoi này, mai đây, những bạn trẻ của
chúng ta sẽ biết gì về một dòng văn học miền Nam mênh mang từng tưới tắm cho
tâm hồn bao thế hệ…? Những phù sa mà bản thân tôi, nửa đời đi qua hai dòng chảy ngược xuôi, vẫn không
nguôi
khao
khát tìm lại cội nguồn từng nuôi lớn khôn tôi… Trong tâm thức đó, Quán Văn đã lần lượt phát hành
những tập san về các tác giả Nguyễn Mộng Giác, Trương Thìn, Đỗ Hồng Ngọc, Đinh
Cường, Kinh Dương Vương-Rừng- Dung Nham... Gần đây hơn, bước sang tuổi thứ 2,
Quán Văn tiếp tục giới thiệu một loạt chân dung Trịnh Công Sơn, Nguyễn Bắc Sơn,
Nguyễn Đức Sơn, Lữ Quỳnh...những cây bút tiêu biểu một thời của văn học miền
Nam, đáp ứng nhu cầu của đông đảo độc giả cả hai miền Nam Bắc. Những người đọc
của hôm nay đường như cũng đang cần lấp đầy những khoảng cách không gian, thời gian
mà điều kiện lịch sử của nước ta nhiều năm dài còn lúng túng.
Và
lần này, chúng ta có tiếng thơ cô độc chứa chất cả nỗi sầu thế kỉ của thi sĩ
Hoài Khanh...
2.
Thử tiến hành một khảo sát
sơ bộ trên công cụ tìm kiếm google, chúng ta có thể tìm thấy trên hai mươi bài
tiểu luận phê bình, nhận định riêng, chung…, trong đó hơn 2/3 là của những nhà
văn nhà thơ, nhà nghiên cứu cùng thời với thi sĩ mà chỉ cái tên của các cây bút
tài hoa lừng lẫy ấy thôi đã cuốn hút người đọc miệt mài đi theo từng dòng, từng
chữ… Thú vị có. Băn khoăn có. Bởi những luận điểm có khi tương đồng, có khi
khẳng định, có khi dè dặt, có khi vừa khẳng định vừa phủ định trong cùng một
bài viết, hay những người viết cùng thời…như một cuộc đối thoại văn chương thú
vị giữa những siêu-độc-giả: Bùi
Giáng, Phạm Công Thiện, Đặng Tiến, Tuệ Sỹ, Phong Nhã -Trần Phong Giao… ở những
năm 60. Bẵng đi hơn 30 năm, qua nỗ lực của nhóm Thư Ấn Quán, bắt đầu từ bè bạn
văn chương hải ngoại, nửa cuối những năm 2000, người đọc lại bắt gặp những nhận
định chí tình chí lý của Võ Phiến, Nguyễn Vy Khanh, Trần Tuấn Kiệt… trong các
công trình văn học sử về thi ca miền Nam; Những tiểu luận phê bình cảm nhận và
phân tích sâu sắc từng mặt của Nguyễn Lệ Uyên (Gió Bấc Trẻ nhỏ Đóa hồng và Dế -khúc hát nao lòng), Phạm Ngọc Lư (Hoài Khanh và Thân phận) Lê Ngọc Trác (Hoài Khanh, từ lục bát nâu đến lục bát thiền),
Thích Phước An (Người thi sĩ đi tìm lại
nguồn cội của dòng sông), Hải Phương (Hoài
Khanh, một đời nghe gió thổi hoài)… , “Phác
họa Hoài Khanh” bằng thơ như nhà thơ Luân Hoán…Hay khảo sát và nhận định
toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp sáng tác thơ, văn, dịch thuật, báo chí, xuất bản
của Hoài Khanh như bài khảo luận của Nguyễn Mạnh Trinh (Hoài Khanh, từ Thân phận đến Lục bát). Nhìn chung, các tác giả đều khá gần nhau ở những nội dung
chính trong thơ Hoài Khanh:
(1)
Bối cảnh đất nước trong
những năm tháng chiến tranh đã bôi đen tâm tư tuổi trẻ và những dồn nén trong
nỗi buồn rầu bất lực.
(2)
Những suy niệm đớn đau về
thân phận con người - Con người cô đơn, bi quan không chút hy vọng ở tương lai.
(3) Ý thức siêu hình và thiền tính trong thơ
Hoài Khanh.
(4) Khung trời thi ca mênh mang của 1 kiếp vô thường đã chịu thua mạng số.
Gần
đây hơn là những hoài niệm của các cây bút bạn bè xưa khi hay tin nhà thơ đột
quỵ như Viên Linh, Trần Hoài Thư, Đinh Cường, Tâm Nhiên, Đỗ Hồng Ngọc, Phạm Phù
Sa, Đặng Châu Long…Chen lẫn trong những kỉ niệm riêng chung, các tác giả tiếp tục đọc lại
thế
hệ trước và tô đậm những đặc điểm đã nêu trong thơ Hoài Khanh, qua đó, tái
khẳng định vị trí của Hoài Khanh trong dòng chảy của văn học miền Nam trước kia
cũng như hiện nay và những âu lo tình bạn cảm động dành cho tác giả của Thân phận.
Tôi
cũng đặc biệt bất ngờ, ngạc nhiên, xúc động khi đọc lại bức thư sôi nổi và hết
sức chân thành của một cậu “sinh viên
18 tuổi, Văn khoa, Huế, và một kẻ yêu thơ. Nó yêu thơ như yêu chính nó (ái
“thi”như ái thân), như nó yêu cha mẹ
nó, yêu trăng, yêu sông núi, quê
hương đói nghèo quằn quại trong lửa, máu chinh chiến.” (Thư Cao Quảng Văn ngày
5.10.1965, trang 2) gửi thi sĩ Hoài Khanh với tất cả niềm ngưỡng mộ và hạnh
phúc khi được đọc tập thơ Thân Phận của
Hoài Khanh. “Một tập thơ mà nó đã đọc lên bằng tất cả linh hồn, với tất cả đam
mê buồn bã, của một tình tự mang mang thiên cổ, của một thằng người mọc lên từ
nỗi nhớ niềm thương…” (trang 1).
Chưa
có điều kiện để tìm hiểu đầy đủ những tiếp nhận đồng cảm của các bạn rất trẻ
trên các trang mạng sachxua.net, chutluulai…Chủ yếu là những cảm nhận ngắn khi
đọc lại và trích dẫn một số bài phê bình, một số bài thơ tiêu biểu của Hoài
Khanh. Song, thoảng qua, hầu như khoảng cách thẩm mỹ không cách biệt là bao so
với người đọc những thế hệ trước. Hoài Khanh và thân phận với diễn ngôn chối bỏ
hiện thực tan hoang bi đát vẫn mênh mang đâu đó như dòng sông Đồng Nai hiền hòa
êm ả mà lồng lộng con nước bốn mùa. Nửa thế kỉ hơn, Hoài Khanh vẫn lặng lẽ trôi
bên đời như thế…, không ồn ào, nếu không nói là ẩn dật, lánh xa chuyện vô
thường…Nhưng bất kể không gian địa lý và thời gian…thơ ông vẫn được đón nhận
với một sức sống bên trong của chính nó.
Với hành trang và tâm
thế đó, bước đầu cùng tập thơ duy nhất tôi có trong tay, tôi đã chạm ngõ thế giới nghệ thuật u hoài hoang
mang bất lực nỗi buồn thân phận của thi sĩ Hoài Khanh qua những người đọc nhiều
thế hệ của ông. Có điều, thật tiếc là tôi lại có quá ít thông tin về con người
nhà thơ. Hình như ông cũng cố tình như thế. Chỉ có thơ. Thơ Hoài Khanh tự nói
về ông với cuộc đời này…Như Phạm Công Thiện từng nói trong bài mở đầu tập Thân phận của Hoài Khanh, qua thơ, đó là
“một hình ảnh hãi hùng (…), là hình ảnh bi đát của Đời, của con người, của một
kẻ bị đày giữa bãi đất hoang tàn của nghĩa địa trần gian. Nhìn nét mặt Khanh,
tôi thấy sự Chết, tôi thấy Bệnh hoạn , Đau khổ, Quằn
quại, Ray rứt, Xao xuyến, Hãi hùng, Hoang liêu, Cô đơn; tôi thấy sự Chiến bại,
sự Thất vọng của con người.”… (Thân phận, tr.8). Nỗi cô đơn tột cùng mà
chính tác giả cũng tự thú nhận:
Ta đối diện với một hồn đơn
chiếc Ta khóc cười với một bóng lưu linh.
(Buồn con chim lạ,
Gió Bấc Trẻ nhỏ Đóa hồng và Dế, tr.54)
Rồi khẩn
khoản kêu gọi tình thương:
Van người xin hãy thương
nhau Mai kia đất vẫn dâng mầu lưu ly
(Mầu lưu ly, Gió Bấc Trẻ nhỏ Đóa hồng và Dế, tr.7)
Không
thể để lãng quên một ngòi bút tài hoa, ngày 19.9.2014 vừa rồi, chủ biên Nguyên
Minh đã tổ chức chuyến viếng thăm thi sĩ Hoài Khanh tại tư gia của anh ở Biên
Hòa. Nhờ vậy, chúng tôi không chỉ còn “văn kì thanh, bất kiến kì hình” như
trước nay nữa. Nhiều chi tiết về tác phẩm, về bản thân nhà thơ…qua
cuộc trò chuyện cũng có nhiều điểm sáng
rõ
hơn…Và, thật xúc động khi cầm trên
tay những tập thơ giấy đã sờn rách, ngả vàng
màu năm tháng: Thân phận (1972), Lục bát (1968), Gió Bấc Trẻ nhỏ Đóa hồng và Dế (1970), bên cạnh mùi giấy hãy còn
thơm của tập Thân phận tái bản lần
thứ 6, giấy phép xuất bản vẫn còn… chưa ráo mực (30.7.2014). Càng xúc động khi
anh cố gắng nghiêng người trên giường bệnh để kí vào trang
bìa chữ kí tặng đã có
phần run rẩy cái tên Hoài Khanh đầy đủ, nằm gọn trên nét gạch dưới ngoéo lại
cách điệu như dấu Anpha của chữ Latin… Mà…Anpha (tiếng Hy Lạp: Αλφα) cũng chính
là chữ cái đầu tiên trong bảng chữ cái Hy Lạp. Trong hệ thống chữ số Hy Lạp, nó
mang giá trị là 1. Nó bắt nguồn từ chữ cái Phê-ni- xi Aleph (Nguồn: http://vi.wikipedia.org/wiki/Alpha).
Lan
man một chút…, không biết chữ kí này nhà thơ dùng tự bao giờ nhưng…, biết đâu
cũng là một gửi gắm của tác giả Thân phận…
(?)
3.
Theo Nguyễn Mạnh Trinh,
“Hoài Khanh là bút hiệu, tên thật của ông là Võ Văn Quế, sinh ngày 3 tháng 6
năm 1933 tại phường Ðức Nghĩa, huyện Hàm Thuận, tỉnh Bình Thuận. Học chưa hết chương trình tiểu học thì cuộc
kháng chiến chống Pháp bùng nổ, ông
cùng một số bạn bè rời bỏ trường học vào chiến khu tham gia kháng chiến ở tuổi
còn rất nhỏ. Sau năm 1954, ông trở về Sài Gòn và làm nhiều nghề để tự mưu
sinh.” (Nguyễn Mạnh Trinh, Hoài Khanh, từ “Thân phận” đến “Lục bát”). Chi tiết
“vào chiến khu tham gia kháng chiến…”
không biết tác giả bài viết căn cứ vào tư liệu nào nhưng khi chúng tôi đọc lại
cho thi sĩ nghe nhằm xác nhận các mốc thời gian, nhà thơ - tuy nằm trên giường
bệnh - cũng bật cười xòa: “Hồi đó còn nhỏ, biết gì đâu… mà tham gia kháng
chiến…chạy tản cư thì có!” Anh còn nhớ rõ lúc đó đã cùng Ngô Đình Cường (?) đi
tản cư ở bưng Cò Ke, một vùng kháng chiến ở Hàm Thuận Nam, Phan Thiết, là vùng
phần nhiều đất đỏ, nhiều cụm rừng cây có gai và dây bụi đan xen nhau, nhưng có
nước ngọt…Chỉ ở bưng biền một thời gian ngắn, sau đó anh đã trở về quê nhà Phan
Thiết sinh sống.
Điều
đáng khâm phục là con đường lập thân của Hoài Khanh chủ yếu là “tự học, tự trau
giồi sinh ngữ, hầu hết kiến thức đều do trường đời chứ không phải trường học.”
Chi tiết này thì Nguyễn Mạnh Trinh hoàn toàn chính xác. Ở quê Phan Thiết được
ít lâu, Hoài Khanh đã vào Sài Gòn, làm đủ nghề để tự mưu sinh. Trò chuyện với
chúng tôi, 81 tuổi, anh vẫn còn nhớ rõ kí ức thơ ấu nhọc nhằn: “Thời mới vô Sài
Gòn, long đong, không có chỗ ở, cực khổ nhất là thời gian tôi đi học đóng giầy,
bị chủ chửi mắng nhục nhã mà vẫn phải cắn răng chịu đựng.” Vừa kiếm sống anh
vừa tự học. Theo lời anh kể, cũng những năm tháng đó anh đã tìm học Anh văn căn
bản với một vị linh mục được vài ba tháng, sau đó về mua sách, băng đĩa tự mày
mò, kiên trì luyện tập. Như nhiều thanh niên thời ấy, để…trốn quân dịch, chàng
trai Võ Văn Quế đã xin vào làm Thông tin ở Tòa Hành chánh tỉnh Biên Hòa. Đó cũng
là thời điểm anh mê thơ quá,
bán cả chiếc xe mobylette- tài sản có giá trị duy nhất lúc đó của mình
để in tập thơ đầu tay Dâng rừng (1957).
Năm sau, 1958, mối duyên với cô gái Biên Hòa – một nữ công chức cùng sở làm - đã gắn anh với mảnh đất
hiền hòa này: chị Hoài Khanh bây giờ…Nhưng sau đó, do bất đồng ý kiến, cự cãi
với Trưởng Ty, anh nghỉ việc, và có lẽ chính thức từ đó, dấn thân vào nghiệp
văn chương…
Song, chưa bao
lâu, ông đã sớm chán ngán cảnh “ngục tù áo cơm”:
“Đi trên thành phố phai nhầu
Bước chân xiêu vẹo nghe sầu vọng âm” (Đổi thay, tr.88)
Từ
trước 1975, nhà thơ đã về mở một trại chăn nuôi ở Biên Hòa, ven bờ sông Ðồng
Nai, sống điền viên nơi vườn bưởi quê vợ cho đến nay. Tưởng tuổi tác và bệnh
tật đã làm anh gục ngã, nhưng hôm nay, tận mắt nhìn anh nằm trên giường, hai
chi dưới đã không còn tuân theo ý muốn, vẫn tươi tỉnh, hào hứng trò chuyện, rồi
bảo cậu con trai là Bình Thuận tìm trên thư phòng các tác phẩm dịch thuật và
tập truyện ngắn duy nhất Trí nhớ Hoang Vu và Khói để Quán văn làm
tư liệu…, tôi lại thấy một điều rất rõ: ở thi sĩ Hoài Khanh, niềm đam mê văn
chương chưa dứt, dường như cái nợ bút nghiên vẫn còn nguyên như thưở Dâng Rừng…
4.
Trở lại những thế hệ người
đọc thơ Hoài Khanh mà căn cứ vào thời điểm xuất hiện chúng tôi tạm đi theo ba
mốc tiếp nhận chính: những năm 1960, những năm 2000 và hiện nay. Trong phạm vi bài viết
này, chúng tôi quan tâm đến những khoảng cách thẩm mỹ khá rõ nét
trong quá trình tiếp nhận thơ của cây bút này giây phút tác phẩm ấy ra đời.
Khai sinh một tác phẩm văn học, chắc
chắn nhà văn nhà thơ nào cũng hướng về người đọc - người thưởng thức sản phẩm văn chương của mình. “Trong cái tam giác tác giả-tác phẩm- và người thưởng
thức, thì người thưởng thức không phải là phần
sáng tạo thụ động hay chỉ
là mắc xích đơn giản của hoạt động tiếp nhận, mà chính là năng lượng tạo thành
lịch sử” (Trương Đăng Dung, Tác phẩm văn
học như là quá trình, tr. 396). Trường hợp Hoài Khanh cũng vậy. Những độc
giả đương thời của ông thập niên 60 được kể ở phần 2 của bài viết này thực sự là những người đọc lý tưởng, đã tạo thành
lịch sử tiếp nhận thơ Hoài Khanh một cách độc đáo. Có thể thấy 20 bài tiểu luận
phê bình, nhận định về thơ Hoài Khanh, cả lục bát lẫn các
thể loại thất ngôn,
tự do đều có một xu hướng
chung là đề cao và khẳng định tài năng thi ca của Hoài
Khanh. Trường hợp tiếp nhận thơ Hoài Khanh, tình thế tiếp nhận là điều đáng chú ý. Những người đọc đầu tiên của
nhà thơ vốn là những người bạn thân thiết hoặc đồng trang lứa. Đó là những trí
thức rất trẻ - có người còn trên ghế giảng đường – đầy lý tưởng, yêu quê hương,
giàu nhiệt huyết, và sẵn sàng dấn thân. Hoàn
cảnh chiến tranh đe
dọa hãi hùng kéo dài trên
đất nước như một hiện thực nghiệt ngã chống lại
họ, tạo ra một tâm thế bi quan, chán nản, bất lực bao trùm thân phận, lỡ làng
cả sự nghiệp, tương lai... Bao nhiêu mộng ước đổ vỡ. Bao nhiêu cuộc đời trai
trẻ bỗng chốc bị đọa đày, hủy hoại
đớn đau…trong khi bản thân những người trẻ tuổi ấy luôn ý thức và đặt nặng trách nhiệm với tổ quốc, với đồng bào. Bi kịch của
sự - bất - lực – được - ý
- thức luôn dày vò họ, giam cầm họ
trong nỗi buồn hào phóng triền miên không lối thoát. Và thơ ca, như một sự cứu
rỗi kịp thời, một sự giải thoát đúng lúc…
Ngay
trong bài mở đầu tập thơ “Thân Phận”,
tác giả Ngày sinh của Rắn - Phạm Công
Thiện đã mở ra trước mắt chúng ta một khuôn mặt thi sĩ cô đơn, tràn đầy suy tư
về thân phận con người: “Nghe sự im lặng của Khanh tôi cảm thấy Thượng đế, tôi
cảm thấy Quỷ ma. Tôi cảm thấy Tiếng nói của một ngàn đêm, hai ngàn đêm, triệu
ngàn đêm, tiếng nói của muôn triệu ngàn đêm vọng về hiu hiu trong lòng nhân
thế.” (Thân phận, IX, 1962)
Bùi Giáng trong Đi vào cõi thơ Hoài Khanh
với cái nhìn tri âm khẳng định hồn thơ lục bát
của Hoài Khanh: “Từ Dâng Rừng tới Thân Phận, Hoài Khanh đi một bước riêng biệt
choáng váng trong dòng lục bát của ông. Ông không bị một ảnh hưởng nào gò bó. Ông
chỉ chịu ảnh hưởng của trời, của sương, của giòng sông, bến quạnh quê
hương.” Cách cảm nhận độc đáo của thi sĩ họ Bùi, cộng với tài phù thủy ngôn ngữ
của ông đã đẩy thơ Hoài Khanh như một dòng sông đi, như một triều sóng động.
Hãy nghe nhà thơ cảm nhận: “Người ta đi vào
bài thơ như đi vào cõi như
lai tịch mịch ngậm ngùi. Như đi
vào một cung đàn diễm ảo nhớ
nhung khép mở, gây một trận tịch hạp chon von, cho nảy ra một niềm đốn ngộ. Người ta không biết đâu bờ bến để
phân tích. Không còn chủ nghĩa. Không còn lập trường. Chỉ còn một niềm phiêu
dật hồn nhiên tự phóng nhiệm hòa vào cây cỏ, nước mây, là môi trường riêng tây
của thi sĩ…” Thậm chí, Bùi Giáng còn không ngần ngại sánh người bạn thơ của mình “thuở ấy còn
nhỏ tuổi, giọng thuần phác như nhiên, đùng một cái, đứng song song lên ngang
những thi bá đời Đường, mà uyển chuyển như câu hát Kinh Thi, lại pha màu cay đắng của thời đại lao lung nhược tiểu”…
Ngàn sâu lắng xuống
mịt mùng
Lãng du đêm quạnh lại chùng bước chân
(Dâng rừng,
Thân phận, tr.123)
Say
sưa với “cõi như lai tịch mịch ngậm ngùi” của cõi thơ Hoài Khanh…, song Bùi thi
sĩ cũng tỉnh táo mà nhận ra nỗi lận đận điêu linh của “con tàu nhược tiểu” mà
Hoài Khanh đau đáu:
Khách qua tàu
đã xa rồi
Là thôi còn một góc trời
chênh vênh
(Tâm sự một nhà ga, Thân phận, tr. 117)
“Trung
niên thi sĩ” cũng không quên nhắc
đến nỗi ngậm ngùi có những chiều Xa
quê nghe gió Nồm khiến người đọc hôm nay, không khỏi nhớ đến hình ảnh cố
quận của Hoài Khanh: “quê hương Phan
Thiết của anh, với sông, núi, đèo, truông hiu quạnh (…) phảng phất những oan
nghiệt biển dâu, thôi thúc con người đi suốt xứ tìm trong viễn vọng chiêm bao
những ân tình chung thủy” lãng đãng trên “Ngàn
năm một bến Cà Ty”, mịt mờ trong “Sương
trên Tà Cú nguồn đưa gió về” (Xa quê nghe gió Nồm, Thân phận, tr.42.). Và không khỏi ngậm ngùi:
Ngùi thương bóng nhỏ giọng sầu
Cõi kia cũng quạnh
quẽ mầu lưu linh. (Mầu
lưu linh. Lục bát, tr.49)
Có thể nói, “hồn thơ thuần nhiên điền đã” này đã hoàn toàn chinh
phục thi sĩ họ
Bùi.
Tác giả Nguyễn Mạnh Trinh
sau này đã nhìn thấy sự đối lập trong cách đọc
của Bùi Giáng và Đặng Tiến: một bên “viết trong kinh ngạc: sánh tài thơ
Hoài Khanh “Nguyễn Du, Nguyễn Khắc Hiếu tái sinh còn phải lạnh mình trước cái
vĩ đại hồn nhiên của một tài hoa chưa ráo máu đầu” (NMTrinh, bài đã dẫn); một
bên thì viết trong sự tỉnh táo khách quan, dè
dặt đánh giá tập Thân phận “sẽ
ghi dấu thời kì tàn tạ của lối thơ cổ điển chăng?”
và nêu lên sự dễ dãi, non nớt, khuôn
sáo trong Dâng Rừng, tập thơ đầu tay
của Hoài Khanh.
Tuy
nhiên, không thể phủ nhận bài phê bình “Đọc Thân
phận của Hoài Khanh” đã được nhà phê bình Đặng Tiến viết một cách công phu
dựa vào kiến thức, kinh nghiệm đọc so sánh đối chiếu và
cảm thụ thi ca nhạy bén của mình với tất cả
lòng đồng cảm “Nếu thượng Đế hữu hình người sẽ khóc một câu
thơ của Hoài Khanh nghe dường như muốn ràn rụa nước mắt…”. Điều này, nhà thơ
Luân Hoán đã tinh ý khi chọn dùng mở đầu bài thơ viết về Hoài Khanh của mình bằng mối đồng cảm Đặng Tiến- Hoài Khanh
ấy như thông điệp đến với người đọc về tâm thế tri âm của mình đối với nhà thơ
ông chưa từng quen “nhưng biết ông hơi nhiều” qua những người đọc trước:
Đặng Tiến chợt muốn khóc Gặp “nỗi buồn chính mình”
Ngay sau khi được đọc Dòng trầm tư Hoài Khanh
(Luân
Hoán, Phác họa Hoài Khanh,
24.4.2012)
Đặng
Tiến đã phát hiện thơ Hoài Khanh “luôn
luôn có cái ám ảnh thời gian” và hình ảnh đặc trưng thường xuyên xuất hiện
trong thơ Hoài Khanh là sự luân chuyển không ngừng của “những dòng sông luân lưu”, những “áng mây bay đi không bao
giờ trở lại” chất chứa nỗi
buồn thản nhiên chua xót của các thi hào Pháp Apollinaire, Verlaine…hay cả cái du du thiên địa “Tiền bất kiến cổ nhân/Hậu bất tri lai giả”… trong thơ Trần Tử Ngang
(TQ). Tác giả bài viết còn lý giải:
“Mỗi con người đều bị thời gian cuốn đi. Sở dĩ Hoài Khanh thường nói đến thời
gian, vì chàng có một ý thức lưu đày trong thời gian: mỗi ngày mỗi tháng trôi
qua, mòn mỏi một ít cô đơn, mà Hoài Khanh thì vẫn còn trơ vơ với số phận.” Hơn
thế nữa, nhà thơ còn “tự biết mình đã luân hồi lộn kiếp”…
Ta sẽ chết và rồi em cũng
sẽ
Đành bỏ đi những luyến nhớ
một thời Những buồn giận cùng tấm lòng ước vọng
Sẽ là gì trong một kiếp xa xôi?
(Sẽ là gì
trong một kiếp xa xôi? Thân phận, tr.37)
“Tâm
tình của Hoài Khanh còn bi thiết gấp mấy lần của Lưu Thần Nguyễn Triệu lúc đòi
trở lại trần gian” Và mối sầu của Hoài Khanh “mãnh liệt xô bồ như một tảng núi
u sầu vĩ đại cuốn theo dòng thời gian âm thầm thác lũ”, mối sầu ấy còn là “mối
sầu muôn thế kỉ chồng chất vào một giấc mơ muôn đời tuyệt vọng:
Vai mình mang một quê hương
Còn mang nặng cả nỗi buồn tử
sinh
(Đổi thay, Thân phận, tr.88)
Không phải chỉ một lần Hoài Khanh nhắc đến
hình ảnh “vai mang nặng” này. Ngoài gánh nặng quê hương và chuyện tử sinh của
kiếp vô thường, nhà thơ còn thấy những mất mát:
Đi trên vai nặng bóng
chiều
Đành nghe mất mát ít nhiều
riêng tư
(Thầm lặng,Thân phận, tr.86)
Hay có lúc, như Trần Phong Giao cho là ‘dấu
vết đầu tiên của triết thuyết Hiện Sinh” khi Hoài Khanh cũng tự “chìa vai ra vác những thế kỉ nặng nề hợp thành lịch sử” (J’ai pris les
siècles sur mes épaules et j’en répondrai) như nhân vật Frantz von Gerlach trong kịch bản
Les Séquestrés của Jean Paul Sartre:
Vai mang thế kỉ buồn đau
Ngàn xưa đã mất nghìn sau có
còn. (Nửa đêm thức giấc, Thân phận, tr.51)
Đáng
trân trọng là trong dòng sầu miên man của hồn thơ Hoài Khanh, Đặng Tiến còn tìm
ra những tia nắng ấm mà sau này, Bùi Giáng trong“Đi vào cõi thơ Hoài Khanh” 1969, có nhắc đến: “Hoài Khanh dễ yêu ở
mối tình quê hương và nhân loại bàng bạc trong ý thơ. Tâm hồn chàng có lóe lên một tia nắng ấm, tia nắng ấy chàng
sẽ trao về cho đồng loại. Tôi nhớ đến thuyết Le pessimisme actif của
Camus, tôi nhớ đến những thanh niên đi tìm lãng quên trong hạnh phúc của đồng
loại.”
Bao giờ đem nắng mười phương
lại Rộn rã nhân gian những tiếng cười (Trở
gối, Thân phận, tr.49)
Có thể còn có những
điểm trong bài phê bình của Đặng Tiến
mà nhà thơ Hoài Khanh chưa
đồng ý, ví dụ như chi tiết “Trường hợp Thân
Phận được nhiều người nhắc nhở đến, điều đó tỏ ra anh được lòng độc giả trung bình chứ không chứng tỏ
Thân Phận
là một tuyệt tác, hoặc ngược lại là một tác phẩm bình
dân hạ cấp”. Dè dặt mà nói, điểm qua 20 đọc giả tiêu biểu của thơ Hoài Khanh
nửa thế kỉ qua, người viết lại thấy hầu hết là những nhà văn, nhà thơ, nhà
nghiên cứu, đồng thời cũng là các giáo sư đại học khá nổi tiếng, vốn thuộc tầng
lớp trí thức có trình độ cao nếu không nói là những khuôn mặt lỗi lạc của nền
văn học nước nhà thời bấy giờ…
5.
Một trường hợp khác cần trao đổi ở đây là những ý kiến được cho là nặng
nề của tác giả Phong Nhã-
Trần Phong Giao. Thân phận-thi phẩm của
Hoài Khanh được “người gác cổng”, Thư kí tòa soạn của của tạp chí Tin Sách
(sau này, 1.1964 phụ trách tòa soạn Tạp chí Văn - một
tạp chí có số lượng
phát hành lớn nhất
miền Nam thời bấy giờ) -
viết với bút danh Phong Nhã, đăng trên Nhật báo Tự
Do, số 1579 ra ngày Chủ nhật 24-6-1962. Đây là trường hợp tiếp nhận thơ Hoài
Khanh khá đặc biệt. Trong bài viết này, Trần Phong Giao đọc với con mắt của một
thư kí tòa soạn nghiêm khắc, mỗi ngày phải đọc và trả lời hàng trăm thư độc
giả, rồi bao nhiêu là những sáng tác, biên khảo, dịch thuật các nơi gửi về để
chọn bài đăng cho mỗi số Văn. Vì thế, ông thẳng thắn nói ngay thi phẩm thứ hai
này của Hoài Khanh không có gì mới mẻ: “Trong thơ của những người trẻ tuổi hôm nay, có nhiều hình ảnh đã trở
thành khuôn sáo. Điển hình nhất là cái không khí ngột ngạt, của đô thành với
những ghế đá công viên, cột đèn đại lộ,
những vòng khói thuốc, những ly cà phê đen, những cung thanh êm ái của điệu kèn trompette…những hình ảnh ấy
phản ảnh một cách sâu đậm cái tâm trạng rã rời của những anh hùng thấm mệt” nên
“Sau những khóc than, những nôn mửa, và ngay cả “những lần toan hủy hoại” không
thành, Hoài Khanh đành an phận tự lưu đày (se séquestrer) trong
một dưỡng trí viện dành cho những“Thiên
tài cất kỹ để dành mai sau”. (An
ủi, trang 100).
Và
sau đó, Trần Phong Giao - con người có bề ngoài lạnh lùng, thường gây bất mãn
cho những người tìm kiếm mình
tại tòa soạn do cương vị và áp lực công việc của ông (dù thực tế là một người rất có lòng
với các cây bút trẻ)- đã
không ngần ngại đưa ra những nhận
xét
mà
nhiều người cho là quá nặng nề: “Chịu ảnh hưởng sâu đậm của triết thuyết Hiện
Sinh, Hoài Khanh đã nhìn đời một
cách vô cùng lệch lạc. Một sa mạc mênh mông, một tinh cầu giá lạnh, một giòng
sông bơ vơ, một nghĩa trang sầu thảm”…
Ông
còn tỏ thái độ ngao ngán: “Tiếng nói của anh đượm nhiều vẻ chân thành và cũng
dễ nghe. Điều đáng tiếc là anh đã lảm nhảm quá nhiều về một điều dễ làm cho
người nghe bắt ngán: sự suy tư về
thân phận làm người.”
Điểm
mà Trần Phong Giao đánh giá cao tác phẩm của Hoài Khanh chính là những bài thơ
lục bát và thất ngôn. “Nếu như anh
có được một sự nghiệp thi ca, và nếu ta có thể ví sự nghiệp đó với một giòng
sông, thì chắc chắn là trước khi đổ về biển cả, giòng sông đó sẽ cuốn theo một
giòng nước trong lành thơm ngọt. Dáng trong vị ngọt đó, trong thơ Hoài Khanh, đã, sẽ và chỉ là những
vần lục bát hiền lành, những điệu
thất ngôn đôn hậu.” Chính sắc thái riêng trong trẻo ấy đã làm nên chỗ đứng
không thể nào chìm lẫn trong đám đông các thi tập đang ồn ào xuất hiện lúc bấy
giờ.
Thế
nhưng, sau này, đọc lại Hoài Khanh, cũng chính Trần Phong Giao đã lấy tên một
bài thơ hay mà nhiều người vẫn thuộc của Hoài Khanh làm nhan đề cho tập truyện
ngắn của mình: Ngồi lại bên cầu. Nguyễn
Mạnh Trinh cho rằng hình như Trần Phong Giao có biệt nhãn nào đó với Hoài Khanh
và đặc biệt lắm mới có sự thay đổi khác hẳn với những đánh giá nặng nề trên.
Nguyễn Mạnh Trinh cũng đưa ra những phản biện với tác giả Phong Nhã về những điểm ông
ta cho là “Hoài Khanh chịu ảnh hưởng của Sartre rất nhiều. Phải chăng
anh chính là một nhà thơ vô thần?” Đồng thời, cho biết cũng chính nhà văn họ
Trần sau này đã xác nhận chỉ là những ngộ nhận đã qua.
6.
Điểm qua vài nét về những
cách đọc khác nhau cuả những người cùng thời với thi sĩ Hoài Khanh những năm
60, có thể thấy không phải ngẫu nhiên mà tên tuổi của Hoài Khanh được nhắc nhở,
ghi nhận nhiều trong những công trình nghiên cứu phê bình tiểu luận của các cây
bút lừng danh trên văn đàn cùng thời và văn học sử của hai mươi năm văn học miền Nam. Hoàn cảnh đất nước với
bao dâu bể từng thời đã là tiền đề, là mảnh đất
nuôi dưỡng tiếng thơ cô đơn bất lực mang trọn nỗi sầu thế kỉ của Hoài Khanh. Và
những thay đổi đổ vỡ chia cắt của thời hậu hiện đại đầy rẫy bất an hôm nay
khiến chất thiền trong thơ Hoài Khanh lại bừng lên, vỗ về an ủi những tâm hồn
đau khổ lạc loài cần tìm chốn tâm linh nương tựa giải thoát…
Qua sông là một nhịp cầu
Qua tôi là một kiếp sầu vô chung
(Tự tình, Dâng rừng, tr.108)
Thơ
Hoài Khanh nhẹ nhàng thôi mà còn cho ta hiểu thấu lẽ vô thường của kiếp người
bé nhỏ, mong manh. “Đấy thôi, tàn cuộc nhân sinh. Một trời sương bảng lảng. Một
vì sao cô độc, lấp lánh, và long lanh như khóe mắt vương nỗi sầu thiên cổ, nỗi
sầu trường mộng nhân sinh” (Tuệ Sỹ, Lục
bát Hoài Khanh, tr.8)
Và tôi hột cát sa mờ
Một đêm nào bỗng tình cờ
sương tan.
(Trong giọt
sương tan, Lục bát, tr.21)
Nhà
thơ Tuệ Sỹ còn phát hiện ở thơ Hoài Khanh vẻ đẹp chất chứa vang vọng bi kịch
của lịch sử: “Tình cờ, những câu thơ lục bát của Hoài Khanh chợt khuấy động. Nó
ngân vang từ phương trời đồng vọng của Nguyễn Du, ngay giữa dòng lịch sử cuồn
cuộn sóng, hay bên lề cuộc lữ tồn sinh. Ấy là âm vang đồng vọng trên những bước
chân:
Ngược xuôi bao kẻ đi về
Tấm thân bé mọn bên lề tồn vong Chuyện đời có có không không Phù vân
một áng bụi hồng xa xa
(Nhớ Nguyễn Du,
Lục Bát, tr.7)
Do
tâm thế, hoàn cảnh tiếp nhận cụ thể của từng đối tượng đọc, thơ Hoài Khanh được
tiếp nhận với những khoảng cách thẩm mỹ khác nhau. Mỗi người đọc cụ thể có một
cách giải mã tác phẩm của riêng mình. Có trường hợp ngưỡng mộ sùng bái như
trong bức thư của cậu sinh viên 18 tuổi Cao Quảng Văn. Có người đọc tri âm theo
cách đồng nhất hóa cảm thông lẫn đồng nhất hóa kết hợp như Bùi Giáng, Phạm Công
Thiện hay Nguyễn Lệ Uyên, Tâm Nhiên, Hải Phương, Lê Ngọc Trác,
Đặng Châu Long,
Luân Hoán, Đinh Cường… sau này.
Trước những bất an, bi kịch, chịu đựng của nhân
vật trữ tình trong thơ Hoài
Khanh có sự đồng nhất hóa
thanh lọc như cách đọc của Đặng Tiến, Nguyễn Mạnh Trinh và một phần trong bài của Phong Nhã, Phạm Ngọc
Lư. Cá biệt cũng có những ngộ nhận nhất thời dẫn đến sự phủ định tác phẩm như
cách đọc của Phong Nhã những năm 1962…Nhưng rồi sự thay đổi cách nhìn nhận của Trần Phong Giao sau này đã cho thấy có sự đọc lại liên tục những tác phẩm của Hoài Khanh và
có sự thay đổi khoảng cách thẩm mỹ trong cách nhìn nhận giá trị tác phẩm so với
chính cùng trong một người đọc trước đó. Sự phong phú, đa dạng trong nhiều cách
đọc thơ Hoài Khanh cho thấy tác phẩm của Hoài Khanh thực sự mang những giá trị
độc đáo. Tôi muốn trích ở đây ý kiến của nhà nghiên cứu Nguyễn Mạnh Trinh về
kinh nghiệm đọc lại Hoài Khanh của ông để thấy giá trị đích thực của thơ ca là
chỗ đứng của nó trong lòng người đọc:
Về
sau này, thời gian gần đây, tôi đọc lại Hoài Khanh với suy nghĩ khác. Cái cảm
giác náo nức thời tuổi trẻ đã không còn khi đọc. Thay vào đó, là những cảm giác
của người đã trải qua nhiều ngõ quanh trong cuộc đời và thấy ẩn tàng đâu đó trong ngôn ngữ
trong hình tượng thi ảnh có một thế giới khác, lãng
đãng, mù không. Thơ gợi lại suy tư. Thơ bỗng nhiên có khi là hình bóng gần cận
khuôn dáng của mình. Những bài lục bát làm tôi nhớ lại một thời yêu thi ca và
đọc thơ như là một cách để trường hành theo đoạn đường dài muôn dặm từ Nguyễn
Du cho đến bây giờ. Ðọc lại những bài như “Ngồi Lại Bên Cầu” hay “Nhớ Nguyễn
Du”, từ những vần lục bát đến thơ tám chữ, tôi lại bùi ngùi và hồi nhớ lại một
thời thanh xuân của mình. Bây giờ, đã qua tuổi sáu mươi, sao lòng mình vẫn còn
rung động…
(Nguyễn Mạnh Trinh, Hoài Khanh-từ Thân phận
đến Lục bát, 2012)
Đánh
giá sự đóng góp của Hoài Khanh cho nền văn học Việt Nam, nhà thơ Viên Linh
trong bài viết đăng ngày 19.2.2013, cho rằng “con người thơ của Cà Ty, Phan
Thiết đã không được đón nhận đúng mức”. Còn nhà văn Trần Hoài Thư thì đánh giá
rất cao những đóng góp nhiều mặt của thi sĩ Hoài Khanh về văn học, văn hóa vào
dòng văn học miền Nam “từ thi ca đến dịch thuật, đến nhà xuất bản Ca Dao do ông
chủ trương với những tác phẩm dịch rất giá trị từng được coi là gối đầu giường
của giới trẻ thời bấy giờ của Hermann Hesse hay Krisnamurti v.v…”. Tác giả còn cảm thấy ngạc nhiên, không hiểu vì
sao:
“Một người đã cống hiến trọn đời mình
trong lãnh vực văn chương chữ nghĩa như thế,
nhưng lại không được một tạp chí văn học thời bấy giờ trân trọng dành cho một
vòng hoa, hay chế độ bấy giờ cũng chẳng dành cho ông ít ra một giải thưởng văn
học” (Trần Hoài Thư, Viết lúc 4AM: Vũ Hữu Định, Hoài Khanh và văn chương thời
chiến, 2012)
Đúng
thật. Những đóng góp to lớn ấy quá xứng đáng để được tôn vinh. Nhưng với Hoài
Khanh hình như anh chẳng quan tâm.
Mọi cái với anh chỉ là phù phiếm. Nada y Nada. Chỉ là Hư vô thôi. Câu trả lời có lẽ
chính Hoài Khanh đã nói từ cách đây nửa thế kỉ trước. Có là gì… Có là gì
đâu…Một dòng sông không ngừng trôi…Một áng mây mải miết bên trời…
Tôi lẩn trốn vì thấy mình
không thể Mây của trời rồi gió sẽ mang đi… (Ngồi lại bên cầu, Thân phận, tr.18)
Sài Gòn,
cuối thu, 6.10.2014.
Hoàng Kim Oanh
Chú thích: Các câu thơ trích dẫn trong bài được rút từ:
1.
Hoài Khanh, Thân phận, S. Nxb Ca dao, 1972.
2. Hoài Khanh,
Lục bát, S. Nxb.Phương Đông, 2009.
3. Hoài Khanh, Gió Bấc Trẻ nhỏ Đóa hồng
và Dế, S. Nxb Ca dao, 1970.