CUNG ĐÀN LỖI NHỊP
Truyện dịch
François Mauriac
( 1885 - 1970 )
Giải Nobel Văn học 1952
François Charles Mauriac
sinh ở Bordeaux, trong một gia đình buôn rượu vang giàu có, mồ côi bố khi chưa đầy hai tuổi. Sau
khi tốt nghiệp trung học, Mauriac vào học văn học tại Đại học Bordeaux, tốt nghiệp
năm 1905 với bằng thạc sĩ. Sau chuyển đến Paris , vào học trường École
nationale des chartes năm 1908; sau một số thành công ban đầu, ông bỏ học, chuyên
làm báo và sớm trở thành nhà văn độc lập. Năm 1909, theo lời khuyến khích của tòa
soạn báo Temps présent ( Thời đại chúng ta ), Mauriac xuất bản tập thơ đầu tiên Les Mains jointes ( Những bàn tay gắn kết ), nhưng phải đến năm
1922 ông mới nổi tiếng là nhà viết tiểu thuyết có tài với cuốn Le Baiser aux lépreux
( Nụ hôn cho người hủi ).
Trong Chiến tranh thế giới
lần thứ nhất, tuy không phải nhập ngũ vì lý do sức khỏe, François Mauriac vẫn tình nguyện
tham gia tổ chức Hồng thập tự, phục vụ trong
quân y viện hai năm ở
Balcan, năm 1918 mới giải ngũ. Trong thập niên 1920, ông viết hàng loạt tiểu thuyết, trong đó có cuốn Le Désert de l'amour ( Sa mạc tình yêu ) được tặng giải thưởng cao
nhất của Viện Hàn Lâm Pháp. Thérèse Desqueyroux (1927) cũng là tác phẩm thành công, được giới phê bình
coi là tiểu thuyết Pháp hay nhất đầu thế kỷ 20. “ Ổ rắn độc “ (1932) kể về một
bi kịch gia đình với nghệ thuật phân tích tâm lý sâu sắc được coi là điểm đỉnh
trong sáng tác của Mauriac. Năm 1933, nhà văn được bầu vào Viện Hàn lâm Pháp.
Thời kỳ Chiến tranh thế giới
lần thứ hai, François Mauriac tham gia chống phát xít Đức chiếm đóng Pháp, ủng hộ Charles de Gaulle. Tiểu
thuyết Le Cahier noir (Cuốn sổ đen)
được trao tặng huy chương Bắc Đẩu Bội Tinh. Sau năm 1945, Mauriac làm đại diện Pháp trong tổ chức UNESCO. Lần đầu tiên ông
được đề cử tặng giải Nobel vào năm 1946,
nhưng phải 6 năm sau mới được trao giải. Từ đó đến cuối đời, Mauriac xuất bản thêm 2 cuốn tiểu thuyết, hàng loạt hồi ký (chủ yếu về de Gaulle) và làm báo. Nhà văn mất tại Paris năm 1970.
“ Thérèse Desqueyroux" là một tác phẩm nổi tiếng của François Mauriac, xuất bản năm 1927, kể về cuộc đời của Thérèse, một người phụ nữ sống trong một gia đình quyền
thế ở miền tây nam nước Pháp. Thérèse bị buộc phải kết hôn với Bernard Desqueyroux, một người đàn ông mà nàng không yêu. Cuộc hôn
nhân không tình yêu này đã đẩy Thérèse vào một trạng thái cô đơn và tuyệt vọng.
Khi Bernard phát hiện rằng Thérèse đã cố gắng đầu độc mình, anh ta không đưa
nàng ra tòa, thay vào đó, Bernard và gia đình quyết định che đậy vụ việc để bảo vệ danh dự gia
đình. Thérèse bị giam giữ trong nhà và bị cách ly khỏi xã
hội. Cuối cùng, sau nhiều
tháng bị giam cầm, Thérèse được thả ra, nhưng nàng vẫn phải sống dưới
sự kiểm soát của Bernard và gia đình hắn. Cuộc đời nàng bị lãng phí trong sự cô độc và không bao giờ tìm được
hạnh phúc.
"Thérèse Desqueyroux" là một tiểu thuyết sâu sắc về cuộc đấu tranh nội tâm của một người phụ nữ bị trói buộc trong một xã
hội gia trưởng. François Mauriac đã khắc họa chân thực cảm xúc và suy nghĩ của Thérèse, từ đó tạo nên một nhân vật phức tạp và đáng thương. Tác phẩm không chỉ là một câu
chuyện về sự bất hạnh của Thérèse mà còn là một lời phê
phán sâu sắc về những ràng buộc và áp lực mà xã hội áp đặt lên phụ nữ.
Ngôn ngữ trong tiểu thuyết được viết một cách
tinh tế, đầy chất thơ và giàu cảm xúc. Những miêu tả về cảnh vật và tâm trạng của
Thérèse đã tạo nên một bức tranh sống động và ám ảnh
về cuộc sống của nàng. François Mauriac đã sử dụng ngôn ngữ để làm nổi bật sự cô
đơn và đau khổ của Thérèse, khiến người đọc không
thể không cảm thông với nàng.
Mặc dù được viết từ gần một thế kỷ trước,
"Thérèse Desqueyroux" vẫn giữ được giá trị thời đại và tiếp tục là nguồn cảm hứng
cho nhiều tác phẩm nghệ thuật. Câu chuyện về Thérèse là một lời nhắc nhở về sự cần thiết của tự
do cá nhân và quyền
được sống hạnh phúc, đặc biệt là đối với phụ nữ.
Với Thérèse Desqueyroux, chính Mauriac cũng
đã thú nhận cùng con trai của mình rằng, khi viết tác phẩm này, ông muốn mượn
nhân vật nữ chính nói hộ những điều mà ông tin rằng mình không thể nào chịu đựng
nổi trong cuộc sống lúc đó của ông.
Nói cách khác, Mauriac cũng có những lý do rất
cá nhân của mình khi viết Thérèse
Desqueyroux.
Không thể chối cãi được rằng Mauriac là một
nhà văn có tầm ảnh hưởng bao trùm cả châu Âu, một phần đất văn hóa quan trọng của
thế giới. Ông lại còn là một tác giả đoạt giải thưởng Nobel về Văn chương ( năm
1952 ). Trong số mấy chục quyển tiểu thuyết, kịch,và khảo luận của Mauriac, Thérèse
Desqueyroux là tác phẩm hay nhất, có tầm ảnh hưởng sâu rộng nhất và được bàn cãi
nhiều nhất. Tác phẩm đã được chuyển thể thành phim hai lần.
Lần thứ nhất, vào năm 1962, đạo diễn Georges
Franju và nữ diễn viên Pháp Emmanuelle Riva vào vai Thérèse .
Lần thứ hai, vào năm 2011, đạo diễn Claude
Miller và nữ diễn viên Pháp Audrey Tautou vào vai Thérèse.
Về nội dung, hình tượng nhân vật Thérèse vẫn
còn là một ám ảnh khôn nguôi cho những tâm hồn dám đi ngược dòng đời, những con
người còn bị bao vây bởi ý niệm cô đơn là số phận của con người, nhất là phụ nữ.
* * *
Câu
chuyện về cặp đôi như Desqueroux
là
cuộc đụng độ của hai trái tim không thể xuyên thủng, đó là cuộc đụng độ của hai
nỗi cô đơn
. ( François Mauriac )
Lạy
Chúa, hãy thương
lấy, hãy thương
lấy những người đàn ông và những người đàn bà điên!
Hỡi
Thượng-Đế! sao có được những con quỷ ở trước mặt đấng duy nhất biết rằng vì đâu
lại có chúng,
chúng gây quả như
thế nào, và cách nào chúng có thể đã thoát khỏi được…
( Charles Baudelaire.)
Thérèse, nhiều người sẽ bảo không có nàng,
Nhưng
tôi biết nàng hiện hữu , tôi là người, từ nhiều năm nay, đã từng theo dõi và thường chặn nàng giữa đường, nhìn nàng
rõ mặt.
Thuở mới lớn , tôi còn nhớ đã thoáng thấy, trong
một phòng xử án đại hình ngột ngạt, khuôn mặt bé nhỏ, trắng bệch và không có môi của nàng, chịu đựng những ông
luật sư không đến nỗi tàn ác như những mệnh phụ diêm dúa.
Sau này, trong một phòng khách ở thôn quê, nàng hiện ra trước mắt tôi
trong dáng điệu một thiếu phụ ngơ ngác, khó chịu vì những săn đón của những bà thân
thích già nua, của người chồng
khờ dại . Họ bảo: “Cô ta
làm sao ấy? Chúng ta vẫn săn sóc tận tình đấy chứ.”
Từ đó, đã bao lần tôi ngắm, trên vầng trán rộng
và đẹp, bàn tay nàng hơi to một chút! Đã bao lần, qua những chấn
song linh động của một đại gia đình, tôi thấy nàng bước quay tròn, rón rén , và
bằng con mắt hung dữ mà
buồn, nàng đã ngó tôi.
Nhiều người sẽ ngạc nhiên cho rằng tôi đã tưởng
tượng ra một con người đáng ghê tởm hơn hết mọi nhân vật của tôi. Tôi biết nói
gì về những người tràn đầy đức tốt và có tấm lòng cởi mở? Những “tấm
lòng cởi mở” không có chuyện nói ; nhưng tôi biết chuyện của những tấm lòng giấu
kín, ngập trong một thân thể bùn nhơ.
Thérèse, tôi cũng muốn đau thương đưa nàng
tới bên Chúa; và tôi ao ước
mãi nàng
được xứng với cái tên
đáng kính của nữ thánh Locuste. Nhưng nhiều người, tuy tin nơi sự sa ngã và sự cứu
chuộc của những linh hồn đau khổ chúng ta, sẽ la hoảng cho rằng xúc phạm.
Dù sao, khi bỏ nàng trên vỉa hè, tôi cũng hy vọng, nàng sẽ không cô
đơn.
Chương I
Vị luật
sư mở một cánh cửa. Trong hành lang nơi mé sau
tòa án, Thérèse Desqueyroux cảm
thấy hơi sương phả vào mặt, nàng hít một hơi dài. Ngại có người đón xem nên nàng e dè không muốn bước ra. Một người đàn ông, cổ
áo bẻ cao, rời khỏi một gốc dương; Thérèse nhận ra cha nàng. Luật sư la lên: “Miễn tố ” và quay lại với Thérèse:
“Bà có thể đi ra được rồi : Không có ai hết.”
Nàng
bước xuống những bậc cấp ướt. Thật vậy, khu công viên nhỏ xem ra không có bóng
người. Người cha không ôm hôn nàng, cũng không để mắt tới nàng nữa. Ông hỏi luật
sư Duros, ông
này đáp lại se sẽ, tưởng như có ai đang rình rập họ. Nàng nghe thấp thoáng hai người nói chuyện:
“Mai tôi sẽ nhận được giấy chính thức báo tin
miễn tố.”
- Liệu
có chuyện bất ngờ không?
- Không,
đâu vào đấy rồi.
-
Sau khi thằng rể tôi ra khai trước tòa, ai cũng bảo thế.
- Ai
cũng bảo thế... Biết đâu đấy.
Nhưng
chính miệng hắn đã thú nhận rằng không bao giờ đếm cẩn thận từng giọt thuốc..
- Ông Larroque ạ, ông thừa biết trong những
vụ như vụ này lời chứng của nạn nhân...”
Tiếng
nói của Thérèse cất
lên:
“ Chẳng có nạn nhân nào cả “.
- Thưa
bà, tôi muốn nói: nạn nhân của sự bất cẩn.
Trong
khoảnh khắc, hai người đàn ông nhìn thiếu phụ đứng lặng đó, thu mình trong chiếc
áo ấm, và gương mặt tái xanh không tỏ lộ một chút gì. Nàng hỏi xe đậu ở đâu;
cha nàng đã dặn xe đợi trên đường đi
Budos, bên
ngoài thành phố , để khỏi bị dòm ngó.
Họ đi
ngang công viên: những ngọn lá dương rụng dính chặt trên những chiếc ghế sũng nước
mưa. Cũng may dạo đó ngày đã ngắn bớt nhiều . Với lại, tới đường đi Budos người ta có thể theo những con
đường vắng người nhất trong quận này. Thérèse đi giữa hai người đàn ông, cao hơn hẳn họ một
cái trán; họ tiếp tục tranh luận coi như không có mặt nàng, nhưng vướng thân hình
người đàn bà ngăn cách họ, họ lấy cùi chỏ hích nàng ra. Thérèse bèn lùi
lại một chút, nàng tháo găng ở tay trái ra để giựt những mảnh rêu bám trên những
tường đá cũ nàng men theo. Thỉnh thoảng một chú thợ đi xe máy vượt qua trước mặt
nàng, hay một chiếc xe ngựa, bùn bắn
tung khiến nàng phải nép vào bờ tường.
Nhưng bóng chiều bao phủ, mọi người không ai
nhận ra nàng. Mùi lò bánh mì và sương mù đối với nàng không chỉ là
mùi của buổi chiều tà nơi một thành phố nhỏ: nàng còn tìm
lại được ở trong đó hương vị của cuộc đời
mà mãi tới nay người ta mới trả lại
cho nàng; nàng nhắm mắt nghe hơi thở của lòng đất thiu ngủ dưới cỏ ướt; nàng cố gắng không nghe những lời nói của ông già thấp bé, hai ống chân vòng kiềng ngắn ngủn, chưa hề một
lần quay lại ngó con gái;
nàng có thể ngã nhoài bên
lề đường; cả ông ta lẫn Duros đều
sẽ không để ý. Bây giờ họ không ngại nói lớn tiếng.
“Những lời khai của ông Desqueyroux rất tốt, được rồi . Nhưng còn
cái đơn thuốc: nói tóm lại đơn thuốc đó giả... Chính bác sĩ Pédemay đã đứng lên khiếu nại...
- Ông
ta đã xin bãi nại...
- Dù sao
cũng còn những lời giải thích của bà ta: bảo rằng có một người lạ mặt tới đưa đơn
thuốc cho bà ...”
Không
hẳn vì mỏi mệt, vì muốn tránh những lời mà người ta đã làm cho nàng điên đầu đã
bao tuần nay, Thérèse cứ chậm dần bước lại nhưng vô ích; không cách nào để khỏi nghe thấy tiếng nói lạc giọng
của cha nàng:
-
Tôi đã bảo nó mãi: “Đồ khốn, tìm cách khác, tìm cách khác... ”
Quả thật,
ông có bảo nàng vậy, và có thể yên chí. Tại sao ông còn hục hặc mãi? Điều mà ông gọi là danh dự của gia đình
vẫn nguyên vẹn, từ nay cho tới ngày tuyển cử Thượng nghị sĩ sẽ không còn ai nhớ
tới chuyện này nữa. Thérèse nghĩ vậy và không muốn tiến kịp hai người
kia; nhưng, hăng hái tranh luận, họ bỗng ngừng lại ở giữa đường, hoa chân múa
tay.
“Tin tôi đi Larroque, phải chống cự; ông phải tấn công trên báo Người
gieo hạt số chủ nhật: ông có muốn để tôi lo cho ông không? Phải đưa ra cái tít chẳng hạn
như Lời đồn đại tê tiện …”
“Không đâu, ông bạn; không, không: với lại
trả lời cách nào được? Thật rõ
ràng là dự thẩm đã làm việc tắc trách; không hỏi đến giám định viên về nét chữ nữa, lờ đi, bịt hết, tôi chỉ trông thấy thế. Tôi sẽ hành động, tôi
sẽ phải mất công, vì danh dự của gia đình, phải dìm chuyện đó đi.. dìm hết…”
Thérèse
không nghe thấy câu đáp lại của Duros, vì hai người đã rảo bước. Nàng
lại hít vào cái
không khí ban đêm ẩm ướt, như một người đang sợ bị nghẹt thở; chợt nàng thấy hiện lên trong trí khuôn mặt
không quen biết của Julie Bellade, bà ngoại
nàng - không quen biết vì có tìm kiếm cũng
vô ích, không thể thấy ở gia đình
Larroque hay ở gia đình
Desqueyroux, một bức hình chụp người đàn bà không ai biết một chút gì,
ngoại trừ vụ bà ta bỏ nhà ra đi. Thérèse tưởng tượng rằng thiếu chút nữa chính nàng cũng có thể bị xóa bỏ, bị chìm quên, và sau này con gái nàng, con bé Marie, sẽ không được phép tìm lại trong tập hình cũ, khuôn mặt người đã sinh thành ra nó.
Giờ này chắc Marie đã nằm ngủ trong một căn phòng ở Argelouse, nơi mà khuya nay
Thérèse sẽ về tới; khi đó nàng sẽ nghe thấy trong
bóng tối hơi thở của đứa con đang
ngon giấc; nàng sẽ cúi xuống, đôi môi nàng sẽ tìm kiếm cái sự sống đang bình lặng như một làn nước
đó.
Bên lề đường, đèn của một cỗ xe trùm mui kín
chiếu sáng hai cặp mông ngựa gầy. Ngoài xa, hai bên đường, rừng cây u tối dựng đứng
như bức thành. Từ hai bên những ngọn thông ở gần chụm lại với nhau, con đường bí
mật xuyên qua vòm cây đó.
Trên đầu nàng, khung trời thấp thoáng qua một lớp cành cây chi chít. Người đánh
xe nhìn Thérèse bằng cặp mắt hau háu. Khi nàng hỏi liệu còn
kịp đáp chuyến xe lửa cuối cùng ở ga Nizan hay không, y bảo nàng cứ yên tâm, nhưng tốt
hơn là đừng nên trì hoãn.
“Chú Gardère ạ, đây là lần chót chú phải nhọc công vì tôi.
- Thưa
bà, thế không còn công việc gì ở đây nữa ư?”
Nàng
lắc đầu, nhưng người đàn ông vẫn giương mắt ngó nàng. Cả đời nàng sẽ cứ bị thiên
hạ dòm ngó như vậy mãi sao?
“ Thế
nào, con đã bằng lòng chưa?”
Mãi bây giờ cha nàng mới tỏ ra nhìn thấy nàng.
Thérèse liếc nhanh dò xét gương
mặt như lem bẩn vì bệnh hoàng đởm, hai gò má lởm chởm những sợi râu cứng màu trắng ngả vàng
mà ánh đèn đang chiếu sáng rõ. Nàng
nói khẽ: “Con đau khổ nhiều quá... rã rời cả người...” rồi nàng chợt im bặt: nói ra có ích gì? Cha nàng
có nghe đâu; ông chẳng nhìn thấy nàng nữa. Những điều Thérèse
phải trải qua có hệ gì đối với ông. Chỉ đáng kể là cuộc ngoi lên Thượng nghị viện
của ông bị gián đoạn, nguy hại vì đứa con gái này
(bọn chúng nó nếu không loạn thần kinh thì cũng ngu độn hết). May mà bây giờ nó
không mang tên Larroque. May mà bây giờ nó không mang tên Larroque; nó thuộc về gia đình Desqueyroux rồi. Ông thở ra: thế là tránh
khỏi tòa đại hình. Làm sao ngăn phe nghịch đừng nuôi mãi vết thương đó? Ngày mai ông phải tới gặp ông
Quận. Nhờ trời, lão chủ nhiệm
tờ Vùng Lande bảo thủ đã nắm được rồi: câu
chuyện được coi như trò trẻ...
ông nắm lấy cánh tay Thérèse:
“Lên xe mau, tới giờ rồi.”
Viên
luật sư, có lẽ vì ác ý, - hay lão không
muốn Thérèse lên đường trước khi lão nói được một câu - hỏi nàng có định ngay tối nay trở về nhà
ông Bernard Desqueyroux chăng. Khi nàng đáp: “Lẽ tất nhiên, vì chồng tôi đang đợi tôi ..” lần
đầu tiên, từ lúc từ biệt ông dự thẩm, nàng tưởng tượng rằng quả thật mấy giờ nữa
nàng sẽ bước qua ngưỡng cửa căn phòng nơi chồng
còn nằm vì chưa khỏi bệnh, và một chuỗi dài những ngày, những đêm sẽ kéo theo, trong đó nàng sẽ phải sống kề bên người
đàn ông ấy.
Đến ở nhà cha nàng, sát nách thành phố nhỏ này,
từ ngày việc bắt đầu đưa sang dự thẩm, có lẽ đã nhiều lần nàng đi qua trên con đường chiều nay; nhưng hồi đó nàng không
bận tâm một chuyện gì khác ngoài việc căn dặn chồng một cách đích xác; trước
khi bước lên xe, nàng nghe những lời dặn dò của Duros
về
nhũng điều mà ông Desqueyroux cần
phải khai nếu Tòa đòi một lần nữa. Hồi trước Thérèse
không một chút lo sợ,
không một chút ngại ngùng
khi nghĩ tới việc phải giáp mặt con người đau yếu đó: hai người không hề đá động
tới chuyện đã thật sự xảy ra mà chỉ nói tới những gì cần thiết phải khai hay không
nên khai. Hai vợ chồng chưa từng đoàn kết với nhau hơn trong vụ lo bào chữa đó; đoàn kết trong một thể xác duy nhất
– thể xác của con bé Marie. Họ tạo ra với nhau, để khai với ông dự
thẩm, một câu chuyện rất bình thường, hết sức có đầu đuôi và có thể thỏa mãn được con người duy lý ấy. Hồi đó Thérèse cũng
đi trên chiếc xe ngựa chiều
nay đón nàng; - nhưng trước kia nàng nóng nảy biết chừng nào mong cho chuyến đi mau hết, còn
bây giờ nàng lại muốn xe cứ chạy mãi không
bao giờ đến! Nàng
nhớ lại mỗi lần vừa bước chân lên xe là nàng đã muốn tới ngay căn phòng ở Argelouse
và nàng chưa quên
những tin tức mang lại cho Bernard
Desqueyroux (nàng còn nhớ Bernard không ngần ngại khai chắc chắn rằng
Thérèse một buổi tối có nói chuyện về cái đơn thuốc do một người lạ
mặt đưa đến và nài nỉ nàng mua giùm, viện cớ người đó còn mắc nợ nhà bào chế nên không dám ló mặt tới... Nhưng
Duros không đồng ý để Bernad
quá trớn đến độ khai rằng y có nhớ đã trách vợ tại sao lại
bất cẩn đến thế …)
Cơn ác mộng đã qua , tối nay hai người, Bernard và Thérèse,
sẽ nói gì với nhau? Nàng nhìn rõ trong trí ngôi nhà hẻo lánh nơi chồng
nàng đang đợi: nàng tưởng tượng ra chiếc giường kê giữa căn phòng vuông, chiếc đèn
thấp ở trên bàn cùng với
những báo chí và
những chai thuốc... Chó bị tiếng động làm thức giấc cất tiếng sủa, rồi im bặt: sự im lặng trang nghiêm lại bao trùm như trong những đêm nàng ngồi nhìn Bernard đang cơn nôn mửa thốc tháo. Thérèse cố gắng tưởng tượng cái nhìn đầu tiên mà lát
nữa hai người sẽ trao đổi; rồi đêm nay, và ngày mai, ngày mốt, những tuần lễ sau,
trong ngôi nhà ở Argelouse, nơi mà hai người không còn cùng xây dựng một khía cạnh có thể lộ ra ngoài được
của tấn bi kịch mà họ đã sống. Bây giờ giữa hai người chỉ còn những gì đã có thật... những gì đã
có thật... Kinh hoảng, Thérèse ấp úng (nàng quay về phía vị luật sư nhưng
thật ra nói với cha nàng):
“Tôi tính ở vài ngày với ông Desqueyroux. Rồi, nếu tình trạng rõ rệt khá hơn, tôi sẽ trở về nhà cha tôi.
- Ấy,
chuyện đó không được đâu, không được, không được, con!”
Nhận
thấy Gardère cử
động trên chiếc bục ngồi , ông Larroque hạ thấp giọng nói tiếp
“ Bộ con điên rồi hay sao đấy? Xa chồng
con trong lúc này? Hai vợ chồng con cần phải tỏ ra khắng khít với nhau như hai
ngón tay... như hai ngón tay, con nghe ra chưa? cho tới lúc chết...
- Ba
nói phải; không hiểu đầu óc con ra sao? Thế ba tới chơi với con Argelouse chứ?
- Không
đâu, Thérèse, những ngày thứ năm phiên chợ ba sẽ đợi
hai con về chơi nhà, như thường lệ. Hai đứa sẽ về chơi như trước!”
Thật
lạ lùng tại sao nàng không hiểu rằng
chỉ làm khác những thói
quen hồi
xưa một chút là họ sẽ chết hết. Yên chí như vậy nhé? Cha nàng có thể trông cậy ở nàng được
không? Thérèse đã
gây rối ren cho gia đình nàng nhiều quá rồi...
“Con sẽ làm tất cả những việc gì mà chồng con
bảo làm. Cha không thể nói
gì hơn được.”
Và ông
ta đẩy nàng vào trong xe.
Thérèse thấy
đưa về phía nàng bàn tay của vị luật sư với những móng đen: “Kết quả tốt, thế là tốt”, ông ta nói vậy; lời
nói đó chí tình; nếu vụ án kéo dài ông ta sẽ chẳng được lợi gì; gia đình này
sẽ nhờ tới luật sư Peyrecave, thuộc luật sư đoàn Bordeaux . Ừ, thế là tốt...
Chương
II
Cái mùi da
mốc trên trên những chiếc xe cũ kỹ này , Thérèse
thích thú lắm... Nàng tự an ủi đã quên mang theo thuốc lá, nàng vốn ghét hút thuốc trong bóng tối. Đèn xe chiếu sáng
hai bờ đường, một đường riềm những cây đuôi chồn và những gốc thông khổng lồ. Những đống
sỏi làm biến dạng cái bóng của cỗ xe. Đôi khi một chiếc xe chở đồ chạy qua, hai
con la tự ý tránh sang bên phải trong khi người đánh xe vẫn ngủ yên. Thérèse có
cảm tưởng không bao giờ sẽ về tới Argelouse; nàng ao ước sẽ không bao giờ tới, mất hơn một giờ
xe mới tới ga Nizan; rồi chuyến xe lửa tới ga nào cũng đậu lại mãi. Lại còn
từ Saint -Clair, nơi nàng
xuống xe lửa, phải mất mười cây số
đi bằng xe ngựa mới tới Argelouse ( ban đêm không một chiếc xe hơi nào dám đi vào con đường đó). Tại mỗi chặng, định mệnh còn có thể xuất hiện, giải
thoát cho nàng. Thérèse thả hồn theo ý tưởng xâm chiếm nàng đêm trước
ngày ra tòa, nếu tòa vẫn tiếp tục quy tội cho nàng, ý tưởng chờ đợi một cuộc động
đất. Nàng bỏ mũ ra, tựa cái đầu bé nhỏ,
tái xanh và lắc lư, bên nệm da nực mùi cũ và
mặc sức cho thân thể lắc lư. Cho đến tối hôm nay, nàng đã sống với tâm trạng một người bị truy
nã; bây giờ được giải thoát rồi
nàng mới đo lường
được nỗi suy nhược của mình. Hai má hóp,
gò má cao, cặp môi mím chặt, và vầng trán rộng,
thanh cao, tạo thành một gương mặt của một kẻ bị kết án – đúng thế, tuy rằng người
đời đã không nhìn nhận nàng có tội – một tội nhân phải chịu cô đơn suốt đời. Vẻ quyến rũ của nàng, mà hồi nào
thiên hạ cho rằng không sao cưỡng nổi, những người kia đều đã thấy rõ, những người mà nét mặt tỏ lộ một nỗi đau thầm kín, một vết thương
trong nội tâm đang hành, hoặc giả họ đang cố gắng để phỉnh phờ che giấu.
Ngồi
trong góc chiếc xe lắc lư, trên con đường
xuyên qua rừng thông u tối, người thiếu phụ bị lột mặt nạ lấy bàn tay phải vuốt
nhẹ trên gương mặt của một người bị hỏa thiêu. Bernard mà lời khai gian
khai gian cứu thoát nàng khởi đầu sẽ nói những câu gì? Có lẽ
Bernard sẽ không hỏi một lời nào, ngay tối nay... nhưng đến mai? Thérèse
nhắm mắt, rồi mở mắt, nàng thử đoán đây là dốc gì, trong khi cặp ngựa leo bước một.
Ồ, cứ thây kệ. Không chừng sẽ giản dị hơn nàng tưởng. Cứ thây kệ. Ngủ đi... Tại
sao nàng không ở trong xe nữa? Người đàn ông ở sau tấm thảm xanh: ông dự thẩm...
lại ông ta nữa... ông ta thừa biết rằng vụ án đã kết thúc. Cái đầu ông ta lắc lư
từ trái qua phải: bản án miễn nghị, không thể ban được, có một sự kiện mới. Một
sự kiện mới? Thérèse ngoảnh mặt để cho đối phương khỏi ngó thấy
nét mặt tiều tụy của nàng. “Bà hãy
cố nhớ lại. Ở túi trong của chiếc áo
choàng cũ - cái áo mà tới tháng mười bà mới dùng đế, để đi săn chim cu, bà có bỏ quên vật gì? Có giấu
giếm vật gì không?” Làm sao chối cãi được; nàng thấy nghẹn thở. Không rời mắt khỏi con mồi, viên thẩm phán đặt trên bàn một gói
giấy nhỏ xíu, có gắn xi đỏ. Thérèse thuộc làu những hàng chữ ghi trên chiếc
bao thư mà ông ta đọc với một giọng sắc bén:
Chloroforme 30 gram.
Aconitine:
viên số 20.
Digitaline
nước:20 gram.
Ông thẩm
phán cả cười... Chiếc thắng cọ vào bánh xe. Thérèse tỉnh
giấc; lồng ngực căng thẳng của nàng hít đầy sương lạnh (có lẽ xe đang xuống dốc
suối trắng). Hồi bé nàng
cũng chiêm bao như vậy, chiêm bao thấy có sự sai lầm khiến nàng bị buộc phải
thi lại bằng Tiểu học. Đêm nay nàng lại thưởng thức cùng một sự an ủi như hồi xưa khi tỉnh giấc: có
lo lắng đôi chút vì lệnh miễn nghị chưa chính thức: “Nhưng cô phải biết rằng lệnh đó trước hết phải
báo cho luật sư biết đã …”
Được tự do... còn mong chi hơn nữa? Bây
giờ tạo một cuộc đời có thể
sống nổi ở bên Bernard chỉ còn
là một trò trẻ.
Giao phó hoàn toàn cho Bernard, không che giấu một chút gì; đó là giải thoát.
Hay để cho tất cả những gì che đậy
trước kia lộ hết ra ánh sáng, và ngay từ đêm nay. Quyết định đó khiến cho
Thérèse tràn đầy sung sướng. Trước khi tới Argelouse
nàng sẽ có thì giờ “sửa soạn lời thú tội”, như lời cô bạn ngoan đạo Anne de la Trave vẫn nhắc lại mỗi thứ bảy, thời
hai người còn
thảnh thơi đi nghỉ hè. Cô
bé Anne, cô bé ngây thơ đáng yêu, cô em có biết đã giữ một vai trò như thế
nào trong câu chuyện này! Những con người cao khiết nhất thường không biết rằng
hằng ngày, hằng đêm họ dính líu vào những gì, và những mầm mống nhiễm độc thường
nổi dậy dưới bước chân thơ ngây của họ.
Hẳn là cô bé đó có lý khi nhắc mãi với Thérèse hồi
nàng còn là một nữ sinh ưa lý sự và hay châm chọc: “Chị không thể tưởng tượng sự giải thoát sau
khi đã thú tội, đã được tha thứ, - khi mọi chuyện đã thu xếp xong, ta có thể làm
lại cuộc đời với những cố gắng
mới.” Thérèse chỉ cần nhất định sẽ thú nhận hết là ngay
lúc này đã cảm thấy một sự cởi mở thú vị: “Bernard sẽ biết rõ hết, ta sẽ nói hết với chàng…”
Nàng sẽ nói ra sao? Bắt đầu thú thật chuyện
gì trước? Những lời lẽ liệu có đủ chứa đựng cái mớ rắc rối những ham muốn, những quyết tâm, những hành vi không
lường trước được? Họ xử trí ra sao, những người đã nhìn thấy rõ tội ác của họ? … “Ta
đâu có nhìn thấy rõ tội ác của ta. Ta đâu có định tâm phạm cái tội mà mọi người buộc cho ta. Ta chẳng biết
ta định làm gì. Ta chẳng
hề biết cái mãnh lực
cuồng bạo ở trong ta và bên ngoài ta hướng về đâu: những gì mà mãnh lực đó phá hủy khi tràn lên, chính ta cũng lấy làm kinh hãi...”.
Một
ngọn đèn dầu bốc khói chiếu sáng
bức tường quét vôi
trần ở nhà ga Nizan và một cỗ xe ngựa đậu tại đó. (Bóng tối bao phủ mau chóng làm
sao ở chung quanh!) Từ một con tàu đậu ở
ga thoát ra tiếng còi, buồn như tiếng bò rống.
Gardère xách cái túi hành lý của
Thérèse và y lại chăm chú nhìn nàng. Ý hẳn vợ y đã căn dặn:
“Mình
ngắm kỹ cô ta xem cái mặt ra thế nào... ”. Với
người đánh xe của ông Larroque, Thérèse tự
nhiên tìm lại được nụ cười khiến cho mọi người vẫn phải nói: “Không ai tự hỏi cô ta xấu hay đẹp, ai cũng chịu cái duyên của cô ta…”. Nàng bảo
hắn ra ghi-sê mua vé xe,
vì nàng ngại đi ngang phòng đợi có hai
chị tá điền ngồi đó với chiếc rổ
để trên đầu gối, cúi đầu
lắc lư, tay đan len.
Khi
hắn đem tấm vé lại,
nàng bảo hắn giữ lấy chỗ tiền lẻ. Hắn đưa tay lên ngang mũ chào, khi đã cầm dây
cương hắn còn quay lại một lần nữa ngó nét
mặt cô con gái ông
chủ.
Các
toa xe chưa nối xong. Hồi trước, vào những dịp nghỉ hè hay tựu trường, Thérèse Larroque và Anne de la Trave đều lấy làm thích thú lúc xe đậu lại ở ga
Nizan. Họ tới quán ăn một dĩa trứng tráng với dăm-bông,
rồi hai người ôm lưng nhau dạo chơi
trên con đường đêm nay đầy bóng
tối; nhưng Thérèse trong những năm đã qua đó, chỉ thấy con đường này trăng sáng như bạc.
Hồi ấy hai người cùng cười
thấy bóng mình chụm lại và trải dài. Có lẽ hồi đó hai người đã nói chuyện tới các bà thầy và các bạn cùng lớp, - một người bênh vực trường nữ tu của
mình còn người kia lại bênh vực trường trung học của mình. Thérèse gọi
tên cô bạn trong bóng tối: “Anne...” Trước hết ta hãy nói chuyện về Annne với Bernard... Bernard
là một người đàn ông đúng mực bậc nhất: bao tình cảm đều được sắp xếp, phân biệt
kỹ, Bernard không hề biết có những đường hẻm, những hành lang thông thương giữa
những tình cảm đó. Làm sao đưa vào những khu vực bất định, nơi Thérèse đã
sống và đã đau khổ? Tuy nhiên việc đó không thể tránh. Không thể có một cử chỉ nào
khác, lát nữa, khi bước vào phòng, ngoài cử
chỉ ghé ngồi bên thành giường
và dẫn Bernard đi từng
chặng một cho tới lúc anh ta sẽ ngăn Thérèse lại:
“Bây giờ anh hiểu rõ hết rồi; đứng dậy đi
, anh tha thứ hết cả .”
Thérèse dò
dẫm đi ngang mảnh vườn của ông xếp ga, ngửi thấy mùi hương cúc nhưng không nhìn thấy những bông
hoa. Không có ai trên toa xe hạng nhất, vả chăng ngọn đèn nhỏ không đủ chiếu sáng
khuôn mặt nàng. Không thể đọc sách được: còn thiên truyện nào mà Thérèse chẳng
thấy tẻ nhạt, so với cuộc đời ghê gớm của nàng? Có lẽ
nàng sẽ chết vì hổ thẹn, vì lo sợ, vì
hối hận, vì mệt - nhưng nàng sẽ không chết vì buồn chán.
Thérèse
thu mình trong góc, nhắm hai mắt lại. Có ai tin được rằng một người đàn bà thông
minh như nàng lại không sao khiến cho người khác hiểu được tấn bi kịch đó? Phải đấy,
Thérèse thú tội xong, Bernard sẽ nâng nàng dậy: “Thérèse, cứ hãy
yên
tâm đi, đừng thắc mắc chi hết. Trong căn nhà tại Argelouse này, chúng ta
sẽ sống với nhau cho tới lúc chết, không bao giờ những chuyện đã qua có thể chia rẽ được đôi ta. Anh khát nước quá. Em hãy đích thân xuống bếp pha cho anh một ly nước
chanh. Anh sẽ uống cạn một hơi dù ly nước
không chanh. Anh sẽ uống cạn một hơi dù ly
nước không được trong. Có hệ gì nếu ly nước nhắc nhở mùi vị chén
sô cô la buổi sáng của tôi hồi trước? Em ơi, em có nhớ những lúc
anh nôn mửa? Bàn tay thân yêu của em nâng đầu anh ; em không quay đi để
khỏi nhìn thấy thứ nước xanh xanh đó; anh ngất đi em cũng không thấy sợ hãi. Thế mà vào cái đêm anh bỗng thấy hai chân cứng đơ, không
cảm giác, thì em đã tái người đi. Anh rét
run lên, em có nhớ không? Rồi cái lão
bác sĩ đồ tồi Pédemay
lại lấy làm
kinh ngạc thấy nhiệt độ của anh xuống thấp quá, mạch của anh nhảy mạnh quá…”
Thérèse
ngẫm nghĩ: “Hừ!
Bernard sẽ chẳng hiểu gì cả. Phải nói lại hết, kể từ đầu...” Đâu là chỗ bắt đầu
của những hành vi của ta? Định mệnh của ta, một khi ta muốn tách rời chẳng khác nào gốc cây kia, không thể nhổ lên
với y nguyên cả rễ. Thérèse có cần quay trở lại từ thời còn nhỏ hay không? Nhưng chính thời niên thiếu
cũng là một cứu cánh, một chung cuộc.
Tuổi thơ của Thérèse: đó
là áng tuyết trắng nơi ngọn một con sông
vấy bẩn nhất. Thời ở trường trung học công lập, nàng coi bộ sống thản nhiên, như
xa cách hẳn những thảm kịch bé nhỏ nó vò xé những
bạn học của nàng. Các cô giáo thường đưa Thérèse
Larroque ra làm gương mẫu cho họ: “Thérèse không đòi hỏi một phần thưởng nào khác ngoài cái vui thực hiện nơi mình một kiểu mẫu con người
cao cả. Ý thức là nguồn sáng độc nhất và sung mãn đối với Thérèse. Thérèse
thấy khích lệ do sự kiêu
hãnh đứng vào hàng những con
người cao cả hơn là bởi sự sợ hãi sẽ
bị trừng phạt...” Một trong số các cô giáo của nàng đã nói như vậy. Thérèse tự
hỏi: “Hồi đó
thật tình ta có sung sướng
như vậy không? Những gì thuộc về thời trước ngày đám cưới của
ta đều mang trong ký ức ta một vẻ thuần khiết đó, có lẽ ngược lại hẳn với những
lem lấm không sao gột sạch khi lấy chồng? Trước thời ta là vợ, là mẹ, trường học không khác nào cõi thiên
đàng. Hồi đó ta đâu ý thức được như vậy. Làm sao ta có thể biết được rằng trong
những năm trước khi vào đời ta đã thật tình sống cuộc đời của ta? Khi đó ta thuần khiết thật: đúng là một
thiên thần! Nhưng một thiên thần đầy ham mê. Mặc
dầu các cô giáo ca tụng, hồi đó ta đã đau khổ và làm cho người khác đau khổ. Ta
thích thú vì những điều ác ta đã làm và cả những điều ác bạn ta gây cho ta; đó là
thứ đau khổ thuần khiết không hề bị những hối hận làm biến chất: sung sướng hay đau khổ đều do những thú vui thơ
ngây.”
Phần thưởng của Thérèse là
cứ mỗi mùa hè không cảm thấy thua kém Anne khi gặp lại cô bạn dưới bóng những cây sồi ở Argelouse. Nàng
cần phải nói với cô gái
được nuôi dạy ở trường nữ tu Thánh Tâm ( Sacré Cœur ): “Muốn thuần khiết như cô, tôi không cần tới những
dải lụa và những chuyện nhàm tai như thế…”. Hơn nữa, sự thuần khiết của Anne de la Trave phần lớn lại do ngu dốt mà ra.
Các bà ở tu viện Thánh Tâm đã đem cả ngàn
tấm màn ra ngăn cách giữa thực tế và những cô gái nhỏ ấy. Thérèse khinh
họ vì họ lẫn lộn đạo đức với ngu dốt: “Em bé ơi, cô chẳng hiểu đời một chút nào…” những mùa hè xa
xưa ấy nàng thường nói như vậy. Ôi những mùa hè tươi
đẹp! Trên chuyến xe lửa xếp
mãi sau mới chịu chạy, Thérèse tự
thú nhận nàng phải hồi tưởng lại những ngày hè đó, nếu nàng muốn hiểu rõ. Có một sự thật không ngờ là trong những buổi
mai thuần khiết của cuộc đời chúng ta, những cơn giông tố phũ phàng nhất
đã ngưng đọng. Những buổi mai tươi sáng quá, đó là triệu chứng không tốt cho buổi
trưa và buổi chiều.
Nó báo hiệu có những mảnh vườn bị tan nát, những cành cây bị bẻ gãy và bao nhiêu là bùn bẩn. Thérèse
không hề suy nghĩ, không hề toan tính trước vào bất kỳ giai đoạn nào trong đời
nàng; không hề có một khúc quanh bất ngờ: Nàng lăn mãi trên một cái dốc, ban đầu còn chầm chậm,
sau trở nên nhanh hơn. Người đàn bà sa ngã đêm nay chính là con người tươi trẻ của
những ngày hè ở Argelouse, nơi mà nay nàng trở lại, lén lút, trốn trong bóng tối.
Thật là mệt! Khám phá những động lực thầm kín của những việc đã qua
để làm gì? Qua khung kính cửa, thiếu phụ không nhận thấy gì khác ngoài phản ánh
của gương mặt đã tàn héo của nàng. Nhịp đều đều của con tàu chợt gián đoạn: đầu máy kéo còi dài, chầm chậm tiến vào một ga. Một ngọn đèn do một cánh tay đu đưa, những tiếng réo gọi bằng thổ âm, tiếng những chú lợn con từ trên toa xe đưa xuống kêu the thé; đã tới ga Uzeste rồi. Còn một ga nữa là tới Saint- Clair, rồi từ đó sẽ phải đi một chặng
cuối cùng bằng xe ngựa để về
Argelouse. Thérèse chẳng còn bao nhiêu thì giờ nữa để sắp sẵn
những lời biện hộ!
Chương
III
Argelouse ở tận
cùng trái đất; một trong những nơi không ai có thể đi xa hơn nữa, nơi mà trong
vùng gọi là một làng : vài nông
trại không có nhà thờ, không có quận đường, không có nghĩa địa, rải rác chung
quanh một cánh đồng lúa mạch, cách thị trấn Saint -Clair mười cây số, được nối liền với thị trấn này bằng một con đường có nhiều chỗ lún. Con đường đầy ổ gà và hố biến thành một lối cát sau khi chạy qua Argelouse. Từ đó cho tới
biển còn tám chục cây số những bãi lầy,
những đầm nước mặn, những gốc thông khẳng khiu, những truông, nơi cuối mùa đông bầy cừu trở thành màu xám tro. Các gia đình khá giả ở Saint-Clair đều xuất thân từ ấp hoang vắng này. Vào khoảng
nửa thế kỷ trước, khi nhựa và gỗ thông bắt đầu tăng thêm số lợi tức còn do nghề
chăn nuôi của họ,
đời sống của những người hiện đang cư ngụ tại Saint-Clair tời lập nghiệp tại thị trấn đó,
nhà của họ ở Argelouse trở thành nông trại. Những cây kèo có chạm trổ trên mái hiên, đôi khi một cái
lò sưởi bằng đá hoa, chứng
tỏ địa vị cao hồi xưa của những gia cư đó. Nay mỗi năm những ngôi nhà lại lún
xuống một chút, cả một
cánh mái rộng đã quá xưa trệ xuống gần sát đất.
Trong số có hai ngôi còn là nhà chủ ở. Gia đình Larroque và gia đình Desqueyroux vẫn giữ nhà của họ ở Argelouse
y nguyên như của tổ tiên để lại. Jérome
Larroque, xã trưởng và hội đồng quản hạt ở B; có một ngôi nhà chính ở ngoại châu thành quận lỵ, nhất định không chịu sửa chữa chút
gì tại sở đất ở Argelouse, hồi môn của bà vợ ông ta ( chết vì hậu sản trong khi
Thérèse còn nằm trong nôi ) và ông ta không thấy làm lạ thấy cô con gái thích về đó nghỉ hè. Từ tháng bảy cô gái về Argelouse với một bà
chị lớn của ông bố, bà cô Clara, một cô gái già nghễnh ngãng, bà Clara cũng ưa chốn hoang vắng này vì ở đó, theo lời bà ta,
bà không thấy cặp môi mọi người mấp máy và bà biết chắc rằng họ không thể nghe
thấy gì khác hơn là tiếng gió hú trên những ngọn thông. Ông Larroque lấy làm bằng lòng vì Argelouse vừa giúp ông đỡ bận với cô con gái,
vừa đẩy cô bé lại
gần chàng Bernard Desqueyroux, để rồi
ra cô bé sẽ phải
lấy làm
chồng như ý muốn của cả hai họ, tuy dự định này không chính thức.
Bernard Desqueyroux thừa kế của cha một ngôi nhà kế
cận với nhà của gia đình Larroque tại Argelouse;
không ai gặp Bernard ở đó trước mùa săn.
Bernard cũng chỉ ngủ lại đó trong tháng mười, vì ở gần đó có đặt một cái chòi săn chim cu. Về mùa đông, người thanh
niên thuần phác này theo học về luật khoa ở Paris; mùa hè, chàng dành rất ít thì giờ cho gia đình:
Bernard thậm ghét
Victor de la Trave mà mẹ chàng lấy sau khi góa chồng, lão ta không một xu dính túi, nhưng ăn tiêu
hoang rộng nổi tiếng khắp cả vùng
Saint-Clair. Cô em cùng mẹ khác cha tên là Anne còn nhỏ tuổi quá nên
chàng chẳng lưu ý tới. Bernard có quan tâm đến Thérèse
nhiều hơn không? Cả vùng đều
gán ghép hai người với nhau vì đất đai
của hai người gần như đã định sẵn sẽ phải dính liền, về điểm này anh chàng khôn
ngoan cũng đồng ý với dân trong vùng,
Nhưng Bernard không phó mặc một việc gì cho may rủi và lấy làm kiêu hãnh vì biết sắp đặt đời mình chu đáo. Người
con trai coi bộ sớm phì nộn thường nói: “Ở đời người ta chỉ khổ vì tại mình …” Cho
tới ngày lấy vợ,
Bernard biết chia đều những công việc và thú vui, chàng không dửng dưng với thức ăn ngon, với
rượu, nhất là với thú săn bắn, nhưng chàng cũng làm việc “quần quật”, như lời bà mẹ vẫn nói. Người chồng bao giờ cũng phải học hành hơn vợ hồi
đó Thérèse đã nổi tiếng thông minh, có lẽ đó là một đầu
óc cứng cỏi … nhưng Bernard biết rằng người đàn bà phải chịu nhịn những gì; với lại, đám đó rất được,
bà mẹ thường bảo cậu
con: “nên
có chân ở cả hai bên”, ông già Larroque
có
thể giúp ích cho chàng. Năm hai mươi sáu, sau mấy chuyến du lịch “đã được nghiên cứu rất kỹ từ trước”
tại Ý, Tây ban nha và Hòa
lan, Bernard Desqueyroux sẽ cưới cô gái giàu nhất và thông minh nhất cùng truông này, có lẽ nàng, có lẽ nàng cũng
xinh đẹp nhất, “nhưng
không, ai tự hỏi cô ta
xấu hay đẹp, ai cũng
chịu cái duyên của nàng”.
Thérèse mỉm cười
với bức hí họa về Bernard nàng phác ra trong đầu: “Thật tình, anh ta coi bộ tế nhị hơn hầu hết
những cậu mà ta có thể
lấy làm
chồng.” Đàn bà ở vùng
truông này thường vượt xa đàn ông vì, ngay thời ở trường trung học, họ sống
quanh quẩn với nhau và không trở nên thanh tao hơn chút; vùng truông này đã nắm giữ trái tim họ; tâm hồn
họ cũng tiếp tục ở lại nơi đây; đối với họ không có gì hơn những thú vui mà vùng này dành riêng cho họ; sống khác những tá
điền trong vùng,
không nói tiếng thổ âm, bỏ những cung cách thô sơ, man dại, tức là phản bội, là dứt bỏ với vùng này. Dưới cái vỏ cứng của Bernard có một chút nhân hậu nào
không? Khi sắp chết, tá điền trong vùng vẫn
nói: “ Cậu ta mà chết đi ở đây không còn ông chủ nào nữa”, Thật vậy, chàng nhân
hậu và đúng mực, và hết sức thật; chàng
không hề bao giờ nói tới những gì chàng không biết; chàng biết tự lượng. Hồi trẻ, anh chàng
Hippolyte thô kệch ấy không đến nỗi xấu – Bernard không quan tâm tới các cô gái bằng tới những con thỏ rừng mà chàng
săn bắt ở ngoài truông…
Tuy nhiên, Thérèse,
hai mi khép, đầu
dựa vào cửa kính ở toa tàu, không nhìn thấy Bernard cỡi xe đạp hiện ra trong những buổi sáng ngày xưa, trên con đường từ Saint-Clair tới Argelouse, vào khoảng chín
giờ, trước khi bắt đầu nắng gắt, không phải anh chàng vị hôn phu nhạt nhẽo, mà cô em gái nhỏ của Bernard là cô Anne với khuôn mặt ửng hồng – tiếng ve sầu đã bắt
đầu bừng lên từ ngọn thông này qua ngọn thông khác và cái lò lửa vùng
truông đã bắt đầu hun nóng
dưới bầu trời. Cả triệu
con ruồi
bay lên từ những bãi
cao: “Cháu
khoác áo ấm vào đã rồi hãy vào
phòng khách; lạnh như trong tủ nước đá…” Bà cô Clara còn nói thêm: “Khi nào hết mồ hôi cháu hãy uống nhé...” Anne la lên những lời chào hỏi
vô ích với cái bà
nghễnh ngãng: “Cô đừng rát cổ vô ích, bà ấy cứ trông môi cô mấp máy là hiểu hết...” Nhưng cô gái nhọc công dằn
từng chữ, làm méo mó
cả cái miệng nhỏ xíu: Bà cô trả lời không ăn nhập chi hết cho đến lúc hai người
bạn phải bỏ chạy để cười với nhau cho thỏa thích.
Trong
góc toa xe tối, Thérèse ngắm những ngày trong trẻo đó của đời nàng
trong trẻo và được chiếu sáng bằng một tia hạnh phúc mỏng manh, và cái ánh lửa
vui sướng vẩn đục, hồi đó Thérèse đâu có dè phần của nàng ở đời chỉ có vậy. Không có gì báo trước cho Thérèse
biết số phận của nàng ở trong một căn phòng khách đầy bóng tối, giữa một mùa hè gay
gắt, - trên chiếc canapé bọc
vải đỏ, gần bên Anne với tập
ảnh chụp để trên hai đầu gối khép lại.
Hạnh
phúc đó tự đâu tới? Anne có ham thích nào giống
như của Thérèse hay không? Anne ghét đọc sách chỉ ưa may vá, nói chuyện tíu tít
và cười cợt? cưòi
cợt . Chẳng có một ý kiến về bất kỳ một thứ gì, trong khi Thérèse đọc
ngấu nghiến, cũng ham thích không khác nhau những tiểu thuyết của Paul de
Kock hay những Chuyện ngày thứ hai, Lịch
sử thời Tổng tài chế, tất
cả những sách bỏ quên
trong những ngăn tủ một ngôi nhà ở vùng
quê. Không một ham thích nào giống nhau, ngoài cái thú ở bên nhau những buổi trưa nắng gắt bủa
vây mọi người ẩn kín trong bóng rợp. Thỉnh thoảng Anne đứng lên xem đã hết nắng
chưa. Nhưng vừa hé cánh cửa sổ, ánh sáng tựa một luồng kim khí lỏng vụt ùa vào, tưởng như muốn đốt cháy bím tóc, thế là
cô bé lại phải đóng kín cửa
và ẩn núp như cũ.
Ngay
tới lúc hoàng hôn, khi mặt trời chỉ còn
làm ửng đỏ những gốc thông và một con ve cuối cùng còn ra rả gần sát đất, dưới bóng những cây sồi cái nóng vẫn còn nặng nề đọng lại. Hai người bạn
nằm dài ở phía ngoài cánh đồng,
tưởng như ngồi ở bên hồ. Những tảng mây xoa xuyến hiện ra trước mặt họ với những
hình ảnh mau đổi, nhưng trước khi Thérèse kịp nhận ra người đàn bà có cánh mà Anne
nhìn thấy trên trời thì cô bé đã bảo rằng đó chỉ là một con vật kỳ lạ đang nằm.
Vào tháng chín, sau bữa ăn trưa, hai cô gái có thể ra ngoài và đi sâu vào xứ khát: ở Argelouse
không hề có một ngọn
suối;
phải đi rất xa trên bãi cát mới tới ngọn con suối mang tên là la Hure. Nhiều
ngọn suối cắt ngang những vũng thấp của những cánh đồng
cỏ hẹp ở giữa đám rễ những cây trăn. Ngâm trong nước lạnh, bàn chân không của
hai cô bé trở nên
không còn cảm giác, rồi vừa mới khô đã lại
nóng hổi. Hai người vào trong một căn chòi, tháng mười những người săn chim cu
vẫn dùng, giống như khi nãy hai người ngồi trong gian phòng khách đầy bóng
tối. Không có chuyện gì để nói với nhau, không một lời trao đổi; những phút giây
trôi qua trong lúc ngừng chân vô tư lự khiến cho hai cô gái không nghĩ tới chuyện
cục cựa, khác nào người đi săn khi trông thấy một đàn chim bay tới ra dấu để mọi
người im lặng. Thành ra tưởng
như một cử chỉ đủ làm bay mất mối hạnh phúc vô hình và thanh khiết của họ.
Người
đầu tiên là Anne bỗng
vươn vai, sốt ruột không chờ bắn chim sơn-ca vào lúc hoàng hôn; Thérèse vốn
ghét trò chơi đó nhưng cũng đi theo vì chưa thấy ngán
sự có mặt của bạn. Anne lấy cây súng nòng 24, vì không giật, treo ở lối đi vào. Thérèse đứng trên gò nhìn cô bạn ở giữa đồng lúa mạch đang nhắm mặt
trời như muốn làm tắt đi. Thérèse trong khoảng không một tiếng; kêu say sưa vụt tắt, cô gái đi săn nhặt con chim bị thương, nương
nhẹ trên tay, và vừa lấy môi vuốt ve những lông chim còn nóng hổi vừa bóp nghẹt con chim.
“Mai tới nữa không?
- Ồ!
không; đừng tới mỗi ngày.”
Cô bạn
không mong gặp nàng mỗi ngày; nói vậy là phải, không nên cãi
lại; chính Thérèse cũng
thấy phản đối là vô lý. Anne không
thích trở lại; có lẽ chẳng có gì ngăn cản cô ta hết; tại sao cứ phải gặp nhau mỗi
ngày? Thérèse tự
nhủ: “Thế nào
rồi cũng đến ghét nhau.” Nàng đáp: “Ừ... ừ... nhất là đừng coi như một bổn phận: lúc nào thích thì đến... lúc nào không
có vụ gì thú hơn.” Cô gái cỡi xe đạp khuất dạng trên con đường đã tối, tiếng chuông xe kêu keng keng.
Thérèse đi
về phía nhà: các tá điền chào nàng từ xa: trẻ con không dám tới gần. Giờ đó là lúc
bầy cừu tràn ra dưới những gốc sồi, bất chợt chúng hè nhau chạy bừa, chú chăn cừu la lên. Bà cô đứng chờ nàng trên ngưỡng cửa
, giống như những người nghễnh ngãng
khác, bà nói luôn miệng để cho Thérèse khỏi nói. Tại sao lại hồi hộp như vậy? Thérèse
không buồn đọc sách; chẳng
thiết gì hết, lại đi lang thang: “Đừng đi chơi nữa: bữa ăn sắp dọn lên rồi.” Thérèse
quay lại
bên bờ đường - trống trải cho tới hết tầm mắt.
Có tiếng chuông reng từ trước cửa bếp. Không
chừng tối nay phải thắp đèn. Sự im lặng đối với bà nghễnh ngãng, ngồi yên lặng khoanh tay để trên tấm khăn
trải bàn, có lẽ không nặng nề như với cô gái
đang ngơ ngác.
Bernard, Bernard làm sao đưa anh ta vào cái thế giới mơ hồ này, Bernard thuộc loại những
người mù quáng, loại những con người bình dị nhưng riết róng? Thérèse
nghĩ: Ngay câu đầu Bernard sẽ chặn lại: “Tại sao cô lại chịu lấy tôi? tôi có theo đuổi cô đâu…” Tại sao ta lại chịu lấy Bernard? Đúng
thế, Bernard không hề tỏ ra vội vã. Thérèse còn
nhớ bà mẹ Bernard, bà Victor de la Trave, không ngớt nhắc mãi: “Cậu ấy
có thể chờ được, nhưng cô ta muốn thế. Khổ quá, cô ta không quen những lề nếp của chúng mình; chẳng hạn cô ta hút thuốc lá như một chú lính thợ: tự tạo ra cái lối như vậy,
nhưng con người bản chất ngay thẳng lắm, thẳng như ruột ngựa. Gia đình tôi sẽ khiến cho cô ta trở nên có lề
nếp ngay. Đã đành là vụ hôn nhân này không hoàn toàn tốt đẹp. Vâng… Bà Bellade bà ngoại cô ta … tôi biết lắm … nhưng người ta cũng dễ quên, phải không? Cứ kể
ra thì cũng có đôi chút
tai tiếng, nhưng vụ đó cũng được giấu giếm kỹ. Bà có tin ở huyết thống không? Ông
bố có những tư tưởng ngoại đạo, đã đành; nhưng ông ta luôn luôn làm gương tốt
cho con, một ông thánh ngoại đạo đấy. Ông ta lại có thế lực nữa. Ai cũng cần đến cả. Với lại cũng phải bỏ qua đi ít nhiều. Lại nữa, tùy bà có muốn tin lời tôi hay không: nhà cô ta giàu có hơn nhà tôi nhiều. Không ai tin,
nhưng đúng như thế. Cô ta lại mê
cậu Bernard nhà tôi, thế là tốt lắm.”
Thật
vậy, nàng tỏ ra say mê Bernard: không một cử chỉ nào lại dễ dàng hơn. Trong phòng khách ở Argelouse hay dưới gốc những cây sồi ở bên
rìa cánh đồng, cứ đưa mắt nhìn
Bernard là tự nhiên nàng tỏ ra đủ tài khéo để anh chàng thấy tràn đầy một mối thương
yêu thơ ngây. Có một con mồi
như vậy ở dưới chân,
Bernard lấy làm
vinh hạnh lắm, nhưng không ngạc nhiên. Bà mẹ thường nhắc cậu con: “Đừng trêu chọc
con nhỏ, nó còm cõi đi
mất đấy.”
“Ta bằng lòng lấy Bernard vì...” Thérèse, đôi
mày nhíu lại, một bàn tay che trên cặp mắt, cố
gắng hồi tưởng lại. Có cái thú trẻ con sau đám cưới thành chị dâu của Anne. Nhưng chính Anne
thấy làm
thích thú chuyện đó, còn Thérèse không thấy sự liên lạc đó đáng kể. Thật tình,
tại sao lại đỏ mặt? Hai ngàn mẫu đất của Bernard không phải nàng không ham. “Cô ta vốn sẵn có máu tư sản.” Vào lúc sau những bữa ăn kéo dài,
rượu mạnh được bưng ra trên mặt bàn ăn đã dọn sạch, Thérèse
thường ngồi lại với đám đàn ông vì mải nghe chuyện họ nói về tá điền, về cọc chống
hầm mỏ, về nhựa thông và dầu nhựa thông. Nàng rất ham nghe ước lượng giá trị những sở đất. Không còn hồ nghi gì khi
cho rằng nàng bị mê hoặc vì chuyện làm sở hữu chủ một cánh rừng lớn: “Với lại, chính Bernard cũng ham những rừng thông của ta…” Nhưng không
chừng Thérèse đã nghe theo một tình cảm thầm kín hơn mà nàng
đang muốn bộc lộ: có lẽ nàng không tìm trong hôn nhân quyền ngự trị hay sỡ hữu,
mà chỉ tìm một chốn nương thân. Nàng vội vàng, như vậy, phải chăng vì một mối kinh hoàng? Một cô
gái thực tế, một người nội trợ trẻ tuổi, nàng đã vội tìm một địa vị, kiếm một
chỗ ngồi vĩnh viễn: nàng muốn được yên tâm trước một nguy cơ mà chính nàng cũng
không rõ.
Trong đời chưa
bao giờ nàng tỏ ra khôn ngoan hơn hồi đính hôn: nàng bám chặt lấy khối gia tộc,
“cô ta
kiếm một địa vị”; nàng đi tu. Nàng chạy trốn.
Mùa xuân
đó, vào thời Thérèse mới đính ước, hai người đi trên con đường cát từ Aegelouse tới Vilméja. Lá vàng
trên những cành sồi làm hoen nền
trời xanh dương; những cây đuôi chồn
khô ngập đầy dưới đất, đây đó chổi lên những nhánh non một màu lục gắt. Bernard
nói: “Em hãy coi chừng tàn thuốc; có thể còn cháy được ;
trong truông không có lấy một giọt nước.” Nàng hỏi: “Có phải trong lá cây đuôi chồn
có chất thanh toan không? Bernard không biết chất đó có nhiều đến độ thành một
thứ độc dược hay không. Chàng âu yếm hỏi: “Em có ý muốn chết hay sao?” Nàng cả cười.
Bernard ngỏ ý ao ước nàng trở nên bình dị hơn. Thérèse
nhớ lại lúc đó nàng nhắm mắt, trong khi hai bàn tay to lớn ôm lấy cái đầu bé bỏng của nàng, và một giọng nói ở bên tai nàng:
“Trong đầu này còn một vài ý tưởng sai lệch nữa.” Nàng đáp: “Bernard ạ, công việc của anh là trừ khử nó đi.”
Hai người tới xem thợ hồ cất thêm một phòng nữa trong nông trại ở Vilméja. Chủ trại này, người Bordeaux, định để cho cậu con út về đây ở, “người đó đau ngực chết”. Người chị hắn cũng chết vì bệnh này. Bernard hết sức thờ ơ với gia đình Azévédo: “Họ thề
sống thề chết rằng không phải gốc Do Thái… nhưng cứ ngó mặt họ mà coi. Thế mà còn ho lao; đủ các thứ bệnh …” Thérèse bình
tĩnh như không. Dịp đám cưới, Anne sẽ từ trường nữ tu ở Saint- Sébastien
về. Cô ta sẽ cùng với cậu con trai nhà Deguilhem đi quyên tiền tại nhà thờ. Cô
ta có nhờ Thérèse, “ngay trong chuyến thư sau”, tả cho cô ta biết
các cô phù dâu
bận áo gì: “Liệu
có thể lấy được mẫu hàng không? Tất cả các cô phù dâu đều có bổn phận phải ăn bận sao cho hòa đồng…”
Chưa bao giờ Thérèse trải qua một thời kỳ bình thản như vậy – nàng
cho là bình thản nhưng thật ra đó chỉ là sự ngủ thiếp, nửa chừng, của con rắn ở trong bụng nàng.
Chương
IV
Ngày
đám cưới ngột ngạt, trong
nhà thờ nhỏ ở Saint-Claire tiếng
rì rào của các bà át hẳn tiếng
phong cầm đang hụt hơi và mùi các bà
át hẳn mùi trầm
hương, chính ngày đó Thérèse cảm thấy sự mê lầm. Nàng bước vào cái lồng giam như một con người mắc chứng mộng
du, tới lúc cánh cửa sắt nặng nề đóng sập lại, cô gái đáng thương bất chợt hồi tỉnh. Không
có gì thay đổi, nhưng nàng có cảm tưởng rằng từ nay sẽ không thể nào thoát ra một
mình được nửa. Giữa vòng vây ngột ngạt của gia đinh, từ nay nàng sẽ sống âm ỷ,
khác nào một ngọn lửa ngầm cháy đang tràn lan trên bãi
hoang, bừng đốt một cây thông, rồi một cây nữa, lần lần gây thành cả một
rừng bó lửa. Trong đám đông kia chẳng một khuôn mặt nào Thérèse có
thể thấy một sự nghỉ ngơi cho con mắt, ngoại trừ khuôn mặt của Anne; nhưng nỗi
vui thơ ngây của cô gái ngăn cách cô ta với nàng: nỗi vui của Anne! Tưởng như cô ta không biết rằng ngay đêm nay hai người sẽ xa cách, không riêng trong không gian; mà còn
bởi những gì Thérèse sắp sửa phải chịu - những gì thể xác thơ ngây của nàng
sẽ phải chịu mà không sao cứu vãn. Anne đứng lại bên bờ của những con người
nguyên vẹn; Thérèse sẽ lẩn vào đám đônng những cô gái đã hiến
dâng. Thérèse nhớ lại lúc ở phòng thay áo, khi nàng cúi
xuống hôn khuôn mặt bé nhỏ
đang cười ngất ngẩng lên về phía nàng, bất chợt nàng nhận thấy sự trống rỗng ở chung
quanh đó nàng đã tạo ra một bầu trời những nỗi đau mơ hồ và những niềm vui phảng phất; nàng
khám phá ra,
trong khoảng khắc một vài giạy; một sự chênh lệch vô cùng giữa những mãnh lực thầm kín của lòng nàng và khuôn mặt dễ
thương dồi đầy phấn.
Mãi lâu sau ngày hôm đó, ở Saint-Claire cũng như ở B., mọi người hề nói
chuyện tới đám cưới ở
Gamache (hồi đó hơn một trăm tá điền và
gia nhân được mời ăn uống dưới bóng những cây sồi) là không quên nhắc lại rằng
ai cũng thấy cô dâu, “có lẽ
cô ta không hoàn toàn đẹp nhưng thật là có duyên”, hôm đó ai cũng thấy xấu và còn
khó coi nữa: “Cô ta
không giống thật một chút nào, như là một người nào khác vậy...” Mọi người chỉ nhận ra nàng không giống với bề ngoài của nàng như thường nhật: họ đổ tại bộ áo trắng,
tại trời nóng; họ đâu có nhận ra bộ mặt thật của nàng.
Chiều
ngày đám cưới
nửa quê, nửa
tỉnh, những đoàn người, trong đó nổi bật những áo đẹp của các cô gái, đứng ra
ngăn xe hơi của đôi
tân hôn phải đi chậm lại,
và họ hoan hô hai người. Trên đường đầy hoa dạ -hợp rụng, hai người vượt
qua những cỗ xe ngựa ngất ngư do những người vui tính đã say rượu cầm cương. Nghĩ tới cái đêm sau đó, Thérèse lẩm
bẩm: “Thật
là ghê gớm...” rồi lại đổi ý: “Không
đâu... cũng không đến nói ghê gớm quá...”
Trong chuyến đi chơi các hồ bên Ý, nàng có đau đớn nhiều không? Không,
không; nàng có một trò chơi
tinh quái: không để lộ bản chất. Một người vị hôn phu dễ bị lừa lắm; nhưng một
người chồng! Bất kỳ ai cũng có thể nói ra những lời dối
trá; những dối trá của
thể xác đòi hỏi một nghệ thuật khác. Vờ ham muốn, thích thú, mệt mỏi thích thú,
không phải ai cũng
dễ vờ được. Thérèse biết ép thể xác nàng giả bộ như vậy và nàng tìm thấy
một cái thú chua chát.
Thế giới xa lạ những cảm giác mà người đàn ông buộc nàng phải bước vào, trí tưởng
tượng giúp nàng ý niệm rằng, không chừng cả với nàng, trong đó có thể có hạnh
phúc- nhưng hạnh phúc nào? Cũng như trước một phong cảnh
chìm dưới mưa ta có thể quan niệm được phong cảnh ấy như thế nào khi tạnh nắng,
Thérèse tìm thấy khoái lạc theo kiểu đó.
Bernard,
người có tia nhìn xa vắng đó
, lúc nào cũng
băn khoăn tại sao số ghi trên những bức tranh không phù hợp với số
ghi trong cuốn chỉ nam Bedeker, mãn nguyện vì đã mất rất ít thì giờ để xem đủ những
gì đáng xem, thật là một anh chàng ngây ngốc! Bernard lao đầu vào thú vui không khác nào
những con heo tơ rất dễ thương, mà ta thấy tức cười khi ngó chúng qua những
song sắt, khi chúng húc vào thùng cám
(Thérèse nghĩ: “Chính ta là thùng cám”). Bernard có một vẻ vội vã, tíu tít, nghiêm trọng; Bernard mẫu mực lắm.
Đôi khi Thérèse kinh ngạc đánh bạo hỏi: “Làm thế thật tình anh có thấy là phải không?” Chàng
cười, nói cho nàng yên lòng. Bernard học ở đâu cái lối xếp loại những gì liên
quan tới xác thịt -phân biệt những lối vuốt ve của người quân tử và của kẻ bạo dâm? Không hề bao giờ phải lưỡng lự.
Một đêm, tại Paris, khi trên đường về hai người ghé lại, Bernard nghênh ngang bỏ về không
coi nốt màn ca vũ vì thấy cảnh tượng gai mắt quá: “Thế mà để cho người ngoại quốc coi những cảnh đó! Thật là sĩ nhục!
Thiên hạ xét đoán
người mình qua những cảnh đó chứ đâu!” Thérèse thán
phục rằng con người trinh khiết đó lại cũng
là người mà không đầy một giờ sau nàng sẽ phải chịu đựng những sáng kiến công phu trong bóng
tối!
“Tội nghiệp cho Bernard - không đến nỗi tệ hơn.
một người khác! Nhưng ham muốn, đã
biến đổi con người lại gần ta thành một quái
vật khác hẳn. Không có gì ngăn cách người đồng lõa với ta bằng lúc y nổi cơn khùng: luôn luôn ta thấy Beranrd vùi đầu
vào thú vui - còn
ta, ta làm như đã chết, tưởng như người điên, người động kinh ấy, chỉ một cử chỉ
nhỏ cũng có thể bóp cổ ta chết.
Rất thường khi đạt tới bờ khoái lạc, chợt Bernard cảm thấy trơ trọi; cơn hì hục
nhạt nhẽo vụt đứt quãng. Bernard quay trở lại và tìm thấy ra như trôi
giạt vào bãi biển,
hàm răng cắn chặt, lạnh
lẽo.”
Có mỗi
một bức thư của Anne: cô bé vốn không thích viết - nhưng, nhờ phép lạ, không một hàng nào Thérèse
không thấy thú: một lá thư diễn
tả không phải những tình cảm thật của ta mà những gì ta cảm thấy viết ra để người đọc thư thấy
sung sướng. Anne phàn nàn
không thể sang chơi bên ấp Vilméja từ
ngày cậu con trai nhà Azévédo
trở
về; từ xa cô nàng
đã nhìn thấy chiếc ghế dài của cậu
ta ở giữa đám lá đuôi chồn;
cô nàng vốn ghê sợ những người lao.
Thérèse
thường đọc lại những trang thư đó và không mong thư khác, Bởi thế, giờ thư đến
(buổi sáng sau cái đêm xem ca vũ bỏ về) nàng ngạc nhiên thấy nét chữ của Anne de la Trave trên ba bao thư. Nhiêu “trạm đợi” đã gửi theo cho họ tới Paris cả một bó thư, vì hai người đã bỏ qua nhiều
chặng không ghé lại:
Bernard bảo: “Tại vội tìm lại tổ ấm”; - nhưng thật ra hai
người nhận thấy không thể nào cứ riêng
có hai người mãi:
Bernard còm cõi đi
vì xa những cây súng săn, xa đàn chó, xa cái quán quen thuộc nơi ly Picon grenadine có một hương vị không đâu thấy;
với lại người đàn bà này
lạnh
lùng quá, hay nhạo báng quá, chẳng bao giờ tỏ lộ sự sướng khoái của mình, lại không thích nói những chuyện thú vị!...
Về phần Thérèse,
nàng ao ước trở về Saint-Clair
khác nào một kẻ bị đầy chán ngán nơi tạm giam, háo hức muốn biết rõ chốn hoang đảo
mà mình sẽ kéo dài nốt cuộc đời. Thérèse đọc
kỹ ngày tháng in trên mỗi phong trong số ba phong thư: nàng vừa mở bao thư xa
ngày nhất chợt Bernard la lên
những lời mà nàng không hiểu nghĩa, vì cửa sổ mở và xe buýt đang sang số ở góc đường.
Bernard ngừng cạo râu để đọc một bức thư của mẹ. Thérèse còn
nhớ lại cái áo lót bằng vải thưa, hai cánh tay để trần chắc nịch;
làn da mai mái và bất chợt sắc đỏ máu của cái cổ và gương mặt. Buổi sáng tháng bảy đó, trời đã
nồng nực; mặt trời bị ám khói càng
làm bẩn thêm những mặt tiền
nhà trơ trẽn trước cửa. Bernard lại gần Thérèse; chàng
la lên: “Con bé ghê gớm quá! Này,
cô bạn Anne của mình
quá lắm. Ai có dè đâu cô em gái tôi …”
Thấy
Thérèse ngơ ngác không hiểu:
“Em có tin rằng nó mê thằng con nhà Azévédo
không? Thật vậy
đấy: cái thằng ho lao mà họ mới xây thêm phòng tại Vilméja cho ở... Đúng thế: coi bộ nhất định rồi... Nó bảo nó sẽ đợi cho
tới khi nó đến tuổi trưởng thành... Má viết
thư bảo má muốn
điên đầu. Mong rằng gia đình Deguilhem không hay biết chi hết! Thằng nhỏ Deguilhem cốcó thể không đi hỏi nữa. Mình
có nhận được thư của nó không? Thử xem nào... Kìa , xé thư của nó ra xem nào.
- Em muốn đọc có thứ tự. Với lại, em không thể cho
anh coi đâu.”
Bernard
hiểu như vậy lắm;
cái gì nàng cũng làm cho khó khăn. Điều cần thiết là nàng làm sao kéo được con bé lại:
“Ba má trông
cậy ở em : em có thể bảo nó được... đúng thế... đúng thế!... Ba má trông
cậy ở em đấy. ”
Trong
khi nàng mặc áo quần, Bernard đi gửi một bức điện tín và giữ hai chỗ trên chuyến
xe lửa tốc hành đi miền Nam. Nàng có thể bắt đầu xếp hòm rương:
“Em còn đợi gì mà chưa đọc thư của con bé?
- Đợi
anh đi khỏi đã.”
Lâu
sau khi Bernard đã khép cửa
lại ở sau lưng, Thérèse còn nằm đó hút thuốc, hai mắt nhìn những
chữ vàng lớn đã xạm đen gắn ở bao lơn nhà trước cửa; rồi nàng xé phong thư thứ nhất. Không, không; không phải con bé ngây
ngô đáng yêu đó, không phải cô bé học sinh trường nữ tu, đầu óc nông nổi đã tạo
ra những lời nóng hổi đó. Trong trái tim khô khan ấy - vì con bé có một
trái tim khô khan: họa chăng
họa chăng Thérèse mới
hiểu rõ!
- Không
thể nảy ra được bài nhã ca này, một tiếng
than dài thỏa mãn của
một người đàn bà say mê, một thể xác sung sướng muốn chết, ngay từ cuộc đụng chạm
đầu tiên:
...
Khi gặp chàng, em không thể tin rằng chàng như vậy; chàng chơi đuổi theo con chó miệng la lớn.
Làm sao em tưởng tượng ra được đó là một người đau nặng…chàng có đau ốm gì đâu: thì ra chàng phải đề phòng, vì những tai nạn đã xảy
ra trong gia đình. Chàng cũng không mảnh mai -thật ra có gầy gò, và ưa được nâng
niu, chiều chuộng… Chị không nhận ra em nữa; chính em, chạy đi lấy áo choàng cho chàng,
mỗi khi tắt nắng…
Nếu
ngay giây phút đó Bernard trở về phòng, chàng sẽ nhận ra người đàn bà ngồi trên
giường đó không phải là vợ chàng, mà là một con người xa lạ, một nhân vật từ đâu
tới, không tên. Nàng liệng mẩu thuốc lá, xé phong thư thứ hai:
... Em sẽ đợi lúc thuận tiện; không một sự cản
trở nào làm cho em sợ; tâm tình
của em không cảm thấy sợ cản trở nữa. Nhà giữ em ở Saint-Claire, nhưng
Argelouse đâu có xa xôi đến độ Jean với
em không thể gặp được nhau. Chắc chị còn nhớ cái chòi săn chim cu? Chính chị thân yêu của em đã chọn hộ cho em từ trước những nơi mà nay em được hưởng
những phút sung sướng như vậy…Ồ! chị đừng
nghĩ rằng chúng em làm
chuyện chi bậy bạ nhé. Chàng
là người thanh nhã lắm! Chị không
thể có một ý niệm nào về một chàng trai như vậy. Chàng đã học nhiều, đọc nhiều
như chị; nhưng nơi một người con trai em không thấy khó chịu, không bao giờ em
nghĩ tới chuyện trêu chọc chàng. Em
ao ước
có cách nào để em cũng thông thái như chị!
Chị thân
yêu của em, hạnh
phúc của chị đang
có như thế nào, em chưa
biết, nhưng chỉ mới lại gần mà em đã thấy sao thích thú đến thế? Khi ở trong chòi
săn chim cu, nơi mà chị vẫn muốn chúng mình đem đồ ăn chiều tới đó, em đã ở bên chàng, em cảm thấy hạnh phúc ở trong em, khác nào một
đồ vật mà em có thể
đưa tay ra mó thấy. Em tự nhủ
còn có một nỗi vui khác xa hơn nỗi vui đó; rồi khi Jean ra về, gương mặt tái
xanh, hồi tưởng lại những ve vuốt, hay mong chờ những gì sẽ tới ngày hôm sau, em trở nên cương quyết trước những
lời than van, những lời năn nỉ, những lời sỉ mắng của những người đáng thương
không biết chi hết…Chưa bao giờ được biết chi hết…
Chị thân
yêu của em, hãy
tha thứ cho em: em nói tới
hạnh phúc của em như là chính chị không được biết tới; thật ra so với chị em mới chỉ là kẻ vừa tập sự: bởi thế em tin chắc
rằng chị sẽ đứng về phía chúng em chống lại những người làm em đau khổ…
Thérèse xé bao thư thứ ba; vỏn vẹn có mấy chữ nguệch ngoạc:
Chị yêu,
hãy về đây; mọi người đang
chia rẽ chúng em, em bị canh
chừng . Họ cho rằng chị sẽ đứng về phía họ. Em có nói với họ rằng em sẽ để tùy chị xét
đoán. Em sẽ giải
thích với chị hết:
chàng đâu có bệnh… Em rất
sung sướng và em đang đau khổ vì chàng và em yêu sự đau khổ của chàng như một dấu hiệu của tình yêu của chàng đối với em …
Thérèse
không đọc thêm nữa. Khi nhét lá thư vào trong bao, nàng thấy có một tấm hình
mà ban đầu nàng không để ý. Tới bên cửa sổ, nàng ngắm gương mặt đó; một chàng
trai mà cái đầu, vì mái tóc rậm quá, tưởng
như to tướng. Nhìn tấm hình, Thérèse nhận ra nơi nào: cái mô đất mà Jean Azévédo đứng trên vươn mình lên như David ( phía
sau là cái truông có những con cừu đang gặm cỏ ) Anh chàng tay khoác áo; chiếc sơ-mi có vẻ trễ tràng đôi chút …“chàng bảo rằng chỉ nên vuốt ve đến đó….”
Thérèse ngẩng mặt lên và lấy làm ngạc nhiên vì nét mặt của mình trong gương. Nàng phải cố gắng mới hết mím môi, nuốt nước miếng. Nàng lấy cồn thơm xát mạnh
hai bên thái dương, trên trán. “Nó
được biết cái vui ấy.. thế còn ta? Còn ta? Tại
sao không có ta ?” Tấm hình còn để trên bàn; kề bên một cây kim lấp lánh…
“Ta đã làm thế. Chính ta đã làm thế...” Trên
xe lửa lắc lư, lao nhanh xuống dốc, Thérèse nhắc lại:
“Hai năm trước, trong căn phòng trọ, ta đã cầm cây kim, ta đã đâm thủng tấm hình anh chàng đúng
giữa tim - không phải ta hăm hở làm vậy, nhưng chậm rãi, khác nào một cử chỉ thường tình - trong
phòng tắm, ta đã liệng tấm hình bị chọc thủng và ta kéo nước cho trôi đi.”
Khi Bernard trở về, chàng lấy làm thán phục thấy nàng có vẻ nghiêm nghị,
như một người suy nghĩ lung, và đã
có sẵn một định kiến. Nhưng, nàng hút nhiều thuốc quá là lầm: nàng tự đầu độc mình! Cứ nghe Thérèse
thì không nên cho câu chuyện phù khí bất
thường của một cô gái nhỏ là quan trọng. Nàng sẽ cố gắng nói cho cô bé hiểu... Bernard ước ao rằng Thérèse sẽ
nói cho chàng yên bụng - Trong lòng chàng khoan khoái vì vé xe lượt về đã nằm trong túi; nhất là chàng lại
lấy làm hãnh diện vì gia đình đã thấy cần tới vợ chàng.
Chàng bảo Thérèse mặc dầu phải trả giá nào hai người cũng đi ăn bữa trưa cuối cùng
trong cuộc hành trình này tại một quán ăn
ở Rừng. Trên taxi chàng nói về những dự định khi mở mùa săn; chàng háo hức muốn thử tài con chó săn mà Balion mới luyện cho chàng. Bà mẹ
viết thư báo tin con ngựa hết bị thọt chân nhờ chữa bằng mũi đốt.... Quán ăn còn
vắng khách, bàn ăn bầy
la liệt
khiến hai người cảm
thấy ngỡ ngàng. Thérèse còn nhớ cái mùi đặc biệt: hương phong lữ thảo trộn lẫn với
mùi nước muối. Bernard chưa bao giờ uống rượu chát sản
xuất ở vùng thung
lũng sông Rhin: “Gớm
họ chẳng cho không đâu.” Nhưng không phải ngày nào cũng khao như vậy. Vóc ngang của Bernard che
khuất giang phòng trước mặt Thérèse. Phía sau những tấm kính lớn, những xe hơi
lặng lẽ lướt tới rồi ngừng lại. Nàng trông thấy ở gần bên tai Bernard những thớ
thịt - mà nàng biết là những thái dương cân nhục- đang mấp máy. Liền sau mấy hớp
rượu đầu, Bernard mặt đã đỏ nhừ: đúng là một gã nhà quê đẹp trai mà từ mấy tuần nay chỉ thiếu
nơi đồng rộng để tiêu
tan số
lượng thực phẩm và rượu uống hằng ngày. Nàng không ghét Bernard nhưng mong mỏi biết chừng nào được
có một mình để nghĩ tới nỗi đau của nàng,
để tìm coi nàng đau nơi đâu! Nàng chỉ ao ước không có Bernard ở đó; để
nàng có thể khỏi phải cố gắng
ăn, cố gắng cười; để nàng khỏi phải tạo cho mình một gương mặt, nén bớt ngọn lửa nơi khóe mắt, để tâm trí nàng được
tự do ôm ấp
mối thất vọng mơ hồ: một người trốn khỏi nơi hoang đảo mà mình tưởng rằng người
đó sẽ sống với mình trọn kiếp; người đó vượt qua cái hố sâu nó ngăn cách mình với
mọi người và đứng vào phía họ -tóm lại một người rời khỏi được tinh cầu này …Nhưng
không đâu: có bao giờ một người có thể
dời đổi được tinh cầu? Anne bao giờ cũng thuộc về thế giới những -con người bình
dị; đó chỉ là cái bóng ma mà xưa kia Thérèse ngồi nhìn khuôn mặt suy ngủ gối trên đùi nàng,
những ngày hè cô quạnh: con người đích thật của Anne de la Trave, nàng chưa hề biết: con người
nay đi gặp Jean Azévédo trong một cái chòi bắn chim cu bỏ hoang ở giữa Saint-Claire và Argelouse.
“Em làm sao vậy? Chẳng ăn
uống gì cả? Không nên bỏ lại cho họ: phải trả đắt như thế bỏ lại thật uổng.
Trời nóng quá ư? Em có thể bị ngất đi không? Hay là em
thấy khó chịu trong người...
mau mắn quá hả? ”
Nàng
mỉm cười; riêng có cái miệng nàng mỉm cười. Nàng đáp rằng đang nghĩ tới cái vụ phiêu lưu của Anne (nàng cần phải nhắc tới Anne). Khi Bernard
trả lời rằng rất yên tâm vì đã có nàng lo tới, nàng hỏi tại sao cha mẹ chàng lại
phản đối vụ hôn nhân đó. Chàng tưởng nàng có ý chế nhạo mình, van nàng đừng chớm có những ý tưởng ngang chướng.
“Trước hết, mình thừa biết rằng họ là người Do
thái: má biết
rõ ông nội của
anh chàng Azévédo, ông
ta từ chối không chịu nhận lễ rửa tội.”
Nhưng
Thérèse cho rằng lâu đời nhất ở Bordeaux là những dòng họ Do Thái gốc Bồ Đào
“Gia đình
Azévédo
đã
khá giả lắm trong khi ông
cha chúng mình còn là những người chăn cừu
khốn khổ bị bệnh sốt cơn hành hạ tại vùng
đồng lầy.
- Ồ,
Thérèse, em đừng lý sự chỉ vì thích lý sự, bọn Do thái
đều tồi hết... với lại, đó là một gia đình đang xuống - ho lao đến tận xương tủy, ai còn lạ gì.”
Nàng
châm một điếu thuốc, cử chỉ đó bao giờ cũng làm cho Bernard khó chịu:
‘‘Anh thử
nhắc lại cho em nghe ông nội , ông cố nội của
anh chết vì bệnh gì? Khi cưới em, có phải
anh cũng băn khoăn không hiểu má em
chết vì bệnh gì không? Anh có tin rằng tổ tiên chúng mình không có những người ho lao và giang mai đủ đầu độc cả bàn
dân thiên hạ hay sao?
- Thérèse,
em quá trớn đấy, nghe anh đi; dù muốn bông đùa hay muốn chọc tức anh , em cũng
không được nói động tới gia đình.”
Bernard vênh váo, ra vẻ giận - vì muốn kẻ cả và không
muốn làm trò cười
cho Thérèse. Nhưng nàng cứ nói:
“Gia đình
của chúng ta khiến cho em
phải tức cười vì sự thận trọng như chuột chù! một mặt
tỏ ra ghê tởm những tật bên ngoài nhìn thấy, mặt khác lại thản nhiên trước những
di truyền nhiều gấp bội nhưng được ẩn
che... Chính mình cũng nói tới chuyện bệnh kín, phải không? Truy
nguyên ra có phải những căn bệnh nguy hại ghê gớm cho giống nòi nhất chính là những
bệnh kín đó không?
Gia đình của chúng ta không hề nghĩ tới chuyện đó,
trong khi biết đồng tình che giấu, vùi dập
những rác rưới xấu xa: nếu không có bọn gia nhân lẻo mép thì ai mà biết đến. May là còn có bọn gia
nhân...
-
Anh không nói với em nữa: mỗi khi em cao hứng, tốt nhất là đợi cho em dẹp xuống
đã. Đối với anh, cái hại chỉ nửa chừng: tôi biết là em nói đùa. Nhưng em phải
biết về nhà đùa như vậy không được đâu. Nói đến gia đình thì không bao giờ đem
chuyện đùa vào được.”
Gia đình!... Thérèse bỏ
mặc cho điếu thuốc cháy rụi; nàng đăm chiêu nhìn cái lồng giam với những chấn
song sống không đếm xuể. Cái lồng giam chung quanh đầy những tai mắt, nàng ngồi
bó gối bên trong, đợi chết.
“Ồ kìa, Thérèse, em đừng làm bộ mặt như vậy: nếu em thấy...”
Nàng
mỉm cười, đổi lại bộ mặt:
“Em đùa đấy...
Anh ngờ quá, cưng
ơi.”
Nhưng
trong xe taxi, khi Bernard kề gần bên nàng, bàn tay nàng đẩy chàng ra, từ chối.
Đêm cuối cùng
trước khi trở về xứ, hai người đi nằm từ lúc chín giờ. Thérèse uống
một viên thuốc nhưng đợi mãi giấc
ngủ vẫn chưa tới. Lát sau, tâm trí nàng sắp hôn mê thì Bernard bỗng lẩm bẩm lời gì nàng không
hiểu rồi quay người lại: khi đó nàng cảm thấy kề bên mình cái thể xác to lớn nóng
hổi; nàng đẩy ra để khỏi chịu hơi
lửa đốt, rồi quay mình nằm mãi tận
mép giường; nhưng vài phút sau,
Bernard lại lăn tới bên nàng chừng như xác thịt chàng vẫn tỉnh trong khi tâm
linh đã ngủ quên.
Trong giấc ngủ thể xác vẫn
quờ
quạng đi
tìm con mồi
quen thuộc. Một lần nữa nàng tàn nhẫn đẩy mạnh chàng ra, nhưng chàng vẫn không
tỉnh... Hừ! Nếu có
thể chỉ cần đẩy chàng một lần vĩnh viễn! đẩy
chàng lao ra khỏi giường, rơi vào bóng tối.
Trong
đêm Paris những còi xe hơi đối đáp như ở Argelouse hết chó lại tới gà đua nhau
lên tiếng trong những đêm trăng. Từ đường phố không một chút hơi mát bốc lên.
Thérèse thắp một ngọn đèn rồi, một tay chống cằm,
nhìn người đàn ông nằm im bên cạnh
- người đàn ông hai mươi bảy tuổi: y đạp tung chăn; không nghe thấy nhịp thở của y, mái tóc rối che cả vừng trán còn thanh cao, hai bên thái
dương không một vết nhăn. Chàng Adam trần truồng, trơ trọi, ngủ ngon lành như trong một giấc thiên thu. Người
vợ kéo mền đắp lên mình chồng, rồi
trở dậy kiếm lá thư
đang đọc dở, đưa tới bên ngọn đèn:
... Nếu
chàng bảo em hãy đi
theo chàng, em sẽ rời
bỏ hết không luyến tiếc. Chúng em ngừng lại ở bên lề, cái lề gần kề sát sự mơn
trớn cuối cùng, ngừng lại vì ý chí, chớ không phải vì em kháng cự-
đúng hơn là chúng đã cản trở em, còn em thi ao ước đi tới những địa đầu xa xôi
mà chàng bảo rằng chỉ mời tới gần đã thấy vượt hẳn mọi thú vui khác; theo lời chàng, bao giờ cũng nên ngừng
lại ở phía bên này; chàng
thấy kiêu hãnh có
thể ngưng lại ở mọi trên cái dốc mà chàng bảo rằng đã lăn trên đó mọi người khác
đều xuống sâu mãi,
không sao cưỡng được...
Thérèse mở
cánh cửa sổ, xé vụn
những lá thư,
cúi mình trên cái vực thẳm tường đá mà trong lúc gần sáng chỉ vang lên tiếng một
chiếc xe bò độc nhất. Những mảnh giấy thả bay, đáp xuống bao lơn những gác dưới.
Cái mùi thảo mộc mà thiếu phụ ngửi
thấy, đồng quê nào đã gửi tới nơi sa mạc những mặt đường tráng nhựa này? Nàng tưởng
tượng thân thể nàng nát bấy nằm dưới mặt đường sẽ làm thành một cái vết như thế
nào - và chung quanh, những
viên cảnh sát, những người qua đường chạy lao xao... Thérèse ơi, có nhiều tưởng tượng quá, làm sao tự tử
được. Với lại thật tình nàng không muốn chết; một công việc cần kíp đang chờ đợi
nàng, không phải là rửa hờn, không, phải là chuốc hận: chính bởi con bé ngu
ngốc kia, ở Saint-Claire, nó tin
rằng có hạnh phúc, cần phải cho nó biết, cũng
như Thérèse, hạnh
phúc không thể có. Nếu hai người không có điều gì giống nhau, ít nhất họ cũng
giống nhau ở một điểm; buồn nản, không một công việc lớn lao, không một bổn phận
cao cả, chỉ biết có những thói quen tầm thường hằng ngày - một nỗi cô đơn vô vọng. Trời hừng đông trên những mái
nhà; nàng quay vào giường
với người đàn ông đang ngủ; nhưng nàng vừa đặt mình xuống bên người y, lập tức y đã sát lại đến gần.
Nàng
trở dậy tỉnh táo, sáng suốt. Tại sao nàng phải tìm đâu xa? Gia đình chàng cầu cứu
tới nàng, nàng sẽ hành động đúng như gia đình chàng đòi hỏi; làm vậy nàng tin
chắc rằng không sai đường. Thérèse đồng ý với Bernard mỗi khi chàng nhắc đi
nhắc lại nếu Anne bỏ lỡ
đám Deguilhem là cả
một tai nạn. Gia đình
Deguilhem không cùng một
hạng với họ: ông nội của cậu
trai làm nghề chăn cừu… Thật vậy, nhưng họ có rừng thông đẹp nhất vùng; với lại Anne không giàu có gì: gia tài của cha
chỉ
có ít vườn nho ở dưới thung lũng, gần
Langon- cứ cách một năm lại bị ngập nước một lần. Không vì lẽ gì mà
Anne bỏ lỡ đám con trai nhà Deguilhem.
Mùi sô cô la ở trong phòng làm
cho Thérèse muốn ớn; sự khó chịu thoáng qua đó còn xác
định những triệu chứng khác: nàng đã có mang rồi đó. Bernard nói –
‘‘Tốt
nhất là thấy khó chịu ngay từ đầu, sau đó sẽ quên đi.” Và chàng nhìn bằng cặp mắt tôn kính
người đàn bà có mang trong bụng chủ nhân ông duy nhất của những cánh rừng thông
cây nhiều không đếm xuể.
Chương
V.
Saint
- Clair sắp tới rồi! Saint-Clair... Thérèse lấy
mắt ước lượng con đường mà tư tưởng của nàng vừa đi qua. Liệu nàng có khiến Bernard đi theo cho tới đó chăng? Nàng
không dám hy vọng rằng Bernard chịu bước những bước chậm chạp như thế trên con đường khúc khuỷu đó; vậy mà những gì chính
yếu đã nói được đâu: “ Khi ta cùng với
Bernard đi tới đoạn đường hẻm mà ta đang đứng, ở trong ta tất cả đều còn phải
khám phá.” Nàng cúi xuống sự bí ẩn của chính
mình, dọ hỏi người thiếu phụ tiểu tư sản mà ai nấy đều ca tụng sư khôn ngoan
khi về ở Saint-Clair, làm sống lại những tuần lễ đầu tiên sống
trong căn nhà mát mẻ, u tối của
nhà chồng. về phía công viên những cánh cửa sổ bao giờ cũng đóng kín; nhưng, về
phía tả, một hàng rào sắt để lộ cho mọi người thấy thửa vườn rực rỡ những bông
hướng dương, phong-lữ-thảo, dã-yên-thảo. Hai ông bà De la Trave ẩn
sau một căn phòng khách nhỏ đầy bóng tối ở từng dưới đất, và Anne tha thẩn
trong vườn không được ra ngoài. Thérèse qua lại trong vai đồng lõa hay tâm phúc. Nàng nói với ông bà De la Trave: “Nên
nhường cho cô ta một bước, cho phép cô
đi chơi xa một chuyến trước
khi quyết định hẳn: con sẽ có
thể bắt cô ta phải nghe lời về điểm này; trong khi đi khỏi hết , con sẽ có cách.” Cách nào ? Ông
bà de la Trave dự tính
để nàng làm quen với
chàng Azévédo: “Má không
thể trông đợi gì ở một cuộc tấn công trực tiếp đâu.” Cứ như lời bà De la Trave,
nhờ trời hiện vụ này chưa tiết lộ ra ngoài. Riêng có cô Monod ở nhà bưu điện là
biết chuyện; cô ta có giữ
nhiều thư của Anne: “Nhưng cô ta kín như hũ nút. Với lại nhà mình
nắm giữ được cô ta... không sợ cô bép xép đâu”.
Ông Hector de la Trave thường nói: “Đừng làm
con bé đau khổ quá...”;
nhưng ông ta thường nuông chiều Anne
một
cách vô lý, bây giờ cũng chỉ biết nghe theo vợ và nói: “Làm sao tráng trứng mà không đập vỡ quả trứng…” hay: “Rồi
ra con bé sẽ phải cám ơn chúng ta.” Nhưng không biết từ nay tới đó
con bé có sinh
ốm đau hay không? Hai vợ chồng lặng im, suy nghĩ; có lẽ trong trí họ
đang theo dõi
theo ở ngoài nắng đứa
con mòn
mỏi hiện không thèm ăn
uống chi hết: cô bé giẫm
nát những bông hoa không ngó thấy, lần bước quanh bờ rào như con nai kiếm một lối
thoát ra …
Bà De la Trave lắc đầu: “Làm sao tôi thay nó uống bát nước thịt ép của nó được, phải không? Nó ở ngoài
vườn nhồi nhét những
trái cây để đến bữa ăn có thể
không đụng tới món nào hết.”Hector de la Trave tiếp: “ Sau này nó sẽ có thể oán
trách mình tại sao bây giờ lại thuận cho chúng nó lấy nhau. Thật ra chỉ vì những
đứa bé khốn khổ mà nó sẽ đẻ ra...”
Bà vợ bực mình vì ông chồng có vẻ cứ muốn tìm những lý do để tự bào chữa.“Cũng, may là gia đình Deguilhem chưa về. Mình
có cái may là bên ấy họ tha thiết với vụ nhân duyên này lắm lắm.” Hai người đợi cho Thérèse
ra khỏi phòng mới hỏi nhau: “Không
hiểu ở trường các bà nhét nhồi
những gì vào đâu óc nó? Ở nhà nó toàn nhìn thấy những gương tốt; chúng mình kiểm soát kỹ những sách vở nó đọc...
Thérèse bảo rằng làm hư các cô gái không gì tệ bằng
những tiểu thuyết tình trong Tủ sách hay... nhưng con bé cũng mâu thuẫn lắm... Vả lại, may phước là con Anne không có tật hay đọc sách; chưa hề bao giờ tôi phải mắng nó về chuyện
ấy. Về điểm này con bé thật là con nhà. Thật tình, nếu chúng mình tìm cách thay đổi không khí cho nó... Ông còn nhớ sau
vụ nó lên sởi rồi biến chứng ra sưng cuống phổi đi Saly một chuyến về là nó khá hẳn? Nếu nó muốn đi chơi đâu. chúng mình cũng đi với nó được,
tôi không mong gì hơn. Con bé quả tình
đáng thương quá.” Ông De la Trave thở dài khe khẽ: “Ồ, cho nó đi chơi với chúng mình...” Nhưng nghe thấy bà vợ vốn nặng
tai hỏi lại: “Ông nói sao?”. Ông ta vội đáp “Không! không!” Trong cái chĩnh gạo mà ông la đang nằm yên, bất chợt
ông già này chợt lại một cuộc đi chơi du dương nào đó hay những giờ hạnh phúc nào đó
thời niên thiếu mặn tình của ông.
Ngoài
vườn, Thérèse ra tìm cô gái với bộ áo năm ngoái nay hóa nên quá rộng: Anne vừa thấy bạn bước tới vội hỏi:
“Thế nào?”. Không
một chút gì Thérèse không thấy ghi dấu trong tâm, tro than trên
lối bước, cánh đồng cỏ khô, xào xạc mùi
những bông phong-lữ-thảo bị cháy sém, và
cô gái khô héo giữa buổi chiều tháng tám hơn bất kỳ cây cỏ nào. Đôi khi những cơn mưa bão khiến họ phải vào núp trong gian nhà kính ương
cây; những hột mưa đá đập vào
những tấm kính.
“Không được gặp hắn ta, cô nghĩ sao nếu được đi chơi xa?
- Em
không gặp Jean, nhưng em biết
chắc Jean đang
ở cách đây mười cây số.
Mỗi khi có gió đông em biết
chắc Jean cũng nghe
tiếng chuông như em. Bernard ở Paris hay ở Argelouse chị có thấy cũng
như nhau hay không? Em không gặp mặt Jean nhưng em biết chắc Jean không ở đâu xa. Chủ nhật đi
xem lễ em chẳng cần quay lưng lại, vì ngồi ở chỗ mình chúng ta chỉ nhìn thấy có
bàn thờ, cả một cái cột
ngăn cách chúng mình với mọi người khác. Nhưng đến lúc ra cửa...
- Chủ nhật chàng ta không có đấy sao?”
Thérèse
biết lắm, nàng biết rằng Anne khi bị mẹ lôi về đã hoài công kiếm mãi trong đám đông một khuôn mặt xa vắng.
- Có lẽ Jean đau... Thư của Jean đến đều
bị ngăn lại; em chẳng
biết gì hết.
- Kể
cũng lạ tại sao anh chàng không kiếm được cách nào gửi cho cô vài chữ.
- Thérèse,
nếu chị có thể... Nhưng, em hiểu địa
vị khó xử của chị...
- Cô cứ bằng lòng đi chơi xa một chuyến, rồi trong khi cô vắng mặt, có lẽ...
- Em
không thể nào xa Jean được.
- Cô mình ơi! Thế nào anh chàng cũng đi. Độ vài
tuần nữa anh chàng sẽ rời khỏi Argelouse.
- Thôi đi, không thể như thế được. Nhưng em chẳng được một lời nào của Jean để bám lấy mà sống. Hiện em như đang chết
rồi: luôn luôn em phải cố hồi tưởng lại những lời mà Jean đã khiến cho em thấy sung sướng nhất; nhưng
cứ nhắc lại mãi,
em thấy không tin chắc rằng có phải chính
Jean đã nói ra không: này, chị ạ, chẳng
hạn như câu này Jean nói lần cuối cùng em gặp, em còn tưởng như nghe thấy ở bên tai: “Trong đời anh không còn ai ngoài em ra...”. Jean nói vậy, hoặc: “Em là người
anh quý nhất đời...” Em chịu không nhớ được đúng hết.”
Cô gái
chau mày tìm âm vang của lời nói an ủi để thổi phồng ý nghĩa ra tới vô cùng.
“Thế tóm lại, anh chàng ra làm sao?
- Chị không thể tưởng tượng ra được đâu.
-
Anh chàng khác mọi người đến thế ư?
- Em muốn tả cho chị thấy... nhưng lời nói của em không thể hình dung nổi... Có thể chị xét Jean cùng tầm
thường như mọi người... Nhưng em tin chắc là không phải thế.”
Cô bé không còn phân biệt được chút gì riêng ở trên
con người chàng
trai đang rực rỡ sáng vì mối tình của cô ta đối với chàng. Thérèse
nghĩ: “Đối với ta sự ham mê khiến cho ta trở nên sáng suốt hơn; ở con người mà ta
say mê không có gì lọt khỏi mắt ta.”
“Thérèse ơi, nếu em chịu ra đi một chuyến như vậy, liệu chị có
tìm gặp Jean và kể
lại cho em nghe những lời Jean
nói? Chị có
chuyển giao giúp em thư em viết cho Jean không? Nếu em đi, nếu em có đủ can đảm để đi...”
Thérèse rời
khỏi xứ của ánh sáng và lửa nóng, lại như một con ong đen bước vào căn phòng sách, nơi mà cha mẹ chồng nàng đang đợi trời tắt
nắng và cô con gái sẽ
chịu thua. Cần phải nhiều chuyến chạy đi chạy lại như vậy mới khiến cho Anne quyết định
ra đi. Và chắc chắn Thérèse chưa
thành công như thế nếu gia đình Deguilhem
không trở về bất ngờ. Cô bé run sợ trước hiểm họa mới. Thérèse
nhắc cô nhiều lần rằng đối với một cậu
trai giàu như thế thì cậu Deguilhem cũng không tệ lắm.
“ Nhưng,
Thérèse, em chỉ mới nhìn thấy hắn, hắn mang kính,
hói đầu, một ông già.
“ Hắn
mới 29 tuổi.
“ Chính
là điều em nói, hắn già rồi, mà, già hay không già…”
Đến
bữa ăn tối, ông bà La Trave nói đến Biarritz, lo chọn một lữ quán. Thérèse
quan sát Anne, cái thân thể bất động, vô hồn đó. “ Con gắng lên một chút, ai cũng
phải cố gắng.” Bà de La Trave lặp lại. Bằng một cử chỉ máy móc, Anne đưa thìa lên
miệng. Trong mắt không một tia sáng. Không điều gì, không người nào hiện có đối
với nàng, ngoài kẻ vắng mặt kia. Thỉnh thoảng nàng mỉm cười, lúc nhớ lại một lời
đã nghe, một vuốt ve đã nhận, vào thời mà trong cái chòi ở bãi hoang, bàn tay
thô bạo của Jean Azévédo xé rách một chút áo nàng. Thérèse
nhìn nửa người Bernard cúi
xuống cái dĩa: vì chàng ngồi đối sáng nên nàng không thấy mặt, nhưng nàng nghe
tiếng nhai chậm rãi, tiếng tiêu hóa thực phẩm thiêng liêng. Nàng rời bàn ăn. Bà
mẹ chồng nói: “ Nó thích không ai để ý đến mình. Tôi muốn dỗ dành nó nhưng nó không
thích được chăm sóc. Trong tình trạng đó mà khó chịu như vậy là ít nhất rồi đó.
Nhưng nói gì thì nói, nó hút thuốc nhiều quá.” Và bà gợi lại những kỷ niệm hồi
có thai. “ Má nhớ hồi mang thai con, má phải thở một quả bóng cao su, chỉ có vậy
dạ dày mới yên được.”
“ Thérèse,
chị ở đâu? “
“ Đây
này, trên ghế băng.
“ À,
đúng rồi, em thấy đốm lửa điếu thuốc.”
Anne
ngồi xuống, tựa đầu lên chiếc vai bất động, nhìn trời, nói: “ Chàng đang nhìn
ngôi sao đó, chàng nghe hồi chuông.”
Cô bé
còn nói: “ Ôm em đi, chị Thérèse.” Nhưng Thérèse
không cúi xuống cái đầu tin tưởng đó. Nàng chỉ hỏi: “ Em khổ à ? “
“ Không,
đêm nay em không khổ: em đã biết là bằng cách này hay cách khác, em sẽ gặp lại
chàng. Bây giờ em yên tâm. Điều quan trọng là chàng phải biết, chị sẽ nói cho
chàng biết , em quyết định ra đi. Nhưng khi trở về, em sẽ vượt những tường thành,
sớm hay muộn, em sẽ nép vào lòng chàng, em tin chắc điều đó như tin ở đời sống
em. Đừng, Thérèse, đừng. Ít ra có chị, đừng giảng luân lý cho
em, đừng nói với em về gia đình.
“ Chị
không nghĩ đến gia đình đâu, em cưng, nhưng nghĩ đến hắn : không ai nhảy vào cuộc
đời một người đàn ông bằng cách này: hắn còn có gia đình, quyền lợi, công việc,
một cuộc gian díu nữa, biết đâu… “
- Em ạ, chị
không nghĩ đến gia đình đâu, nhưng chị đến anh chàng ấy: không ai lại nhào vào cuộc đời một người đàn ông như vậy: Anh chàng
cũng có gia đình, có những quyền lợi, có
công việc làm,, không chừng có cả một mối tình thầm lén…...
- Không, Jean có nói với em: “Anh
chỉ có em trong đời...” và một lần khác: “Mối tình của chúng ta là điều duy nhất mà anh quan tâm
tới trong lúc này...”
- “Trong lúc này?”
- Chị nghĩ sao? Chị nghĩ
rằng Jean chỉ nói tới phút giây hiện tại sao?”
Thérèse
không cần hỏi cô bé có đau khổ hay không nữa: nàng nghe thấy cô gái
đang đau khổ trong bóng tối; nhưng tuyệt nhiên nàng không thấy thương hại. Tại
sao nàng có thể thương hại? Sung
sướng
làm sao khi được nhắc tới cái tên
của một người nào đó mà ta cảm
thấy ràng buộc vì yêu! Cứ nghĩ
rằng người ấy đang sống, đang thở không khí, tối đến tay gối đầu nằm ngủ, tảng
sáng trở dậy, thân xác non trẻ làm
lay động màn sương...
“Thérèse, chị khóc đấy ư? Có phải
vì em mà chị khóc không? Chị thương em.”
Cô gái quỳ xuống, tựa đầu bên mình Thérèse,
rồi chợt đứng dậy:
“Em nghe thấy có cái gì đụng đậy bên trán em…
- Đúng,
từ mấy ngày nay nó đầu máy.
- Cái thai ư?
-
Ừ, đã bắt đầu sống.”
Hai
chị em trở về nhà, khoác tay nhau như mới
đây trên đường Nizan hay trên đường
Angelay. Thérèse nhớ lại nàng thấy sợ cái vật nặng đang run
rẩy: trong cõi sâu
thẳm của thân thể nàng, cục
thịt chưa thành hình này đang bị bị tiêm nhiễm bao nhiêu những ham muốn! Nàng
hồi tưởng lại buổi tối hôm đó, ngồi trong phòng, bên khung cửa sổ mở; (Bernard
từ ngoài vườn la lên: “Đừng
thấp đèn kẻo muỗi.”) Nàng tính xem còn bao nhiêu tháng sẽ sinh; nàng ao ước có một đấng thiêng liêng nào để cầu
xin sao cho cái sinh vật xa lạ này, hiện còn lẫn với phủ tạng nàng, đừng bao giờ
xuất hiện.
Chương
VI
Có điều
lạ lùng Thérèse
nhớ lại những ngày sau khi Anne và hai ông bà De la Trave ra đi như một thời hôn
mê. Đã ước định rằng ở lại Argelouse nàng sẽ tìm liên lạc để ảnh hưởng tới Azévédo
cho cậu ta thôi đi, nhưng tới khi đó nàng chỉ nghĩ đến nghỉ ngơi và ngủ.
Bernard bằng lòng không ở nhà mình mà sang ở bên nhà Thérèse, đủ
tiện nghi hơn và nhờ có bà cô Clara mà khỏi lo việc nội trợ . Những người khác đối
với Thérèse quan hệ gì? Thây kệ
họ thu xếp riêng
với nhau. Không còn gì thích thú cho bằng cứ ì ra đó chờ ngày sinh nở. Sáng nào Bernard cũng làm cho nàng bực mình
khi nhắc tới chuyện nàng hứa gặp Jean
Azévédo. Nhưng Thérèse gắt
lên với chồng: hồi này nàng bắt
đầu thấy khó chịu đựng Bernard. Bernard cho rằng có lẽ vì có thai nên nàng hay
gắt gỏng . Khi đó chính chàng đã phải chịu
nhận những ảnh hưởng đầu tiên của một sự ám ảnh rất thông thường trong đám những
người cùng xứ, tuy rằng ít
khi phát hiện trước ba mươi tuổi: đó là cảm tưởng sợ chết ta ngạc nhiên nhận thấy
nơi một chàng trai có vóc dáng vững vàng. Nhưng ta biết trả lời ra sao khi chàng
cãi lại: “Không
ai biết được tôi cảm
thấy như thế nào...?”
Những
thể xác phàm ăn, có một truyền thống lười biếng quen ăn ngon đó, chỉ sức lực bề ngoài. Một cây thông đem trồng
trên một cánh đồng đất đai màu mỡ mọc rất mau; nhưng chẳng bao lâu cái lõi cây bị
mục nát và cây đang lớn mạnh cũng phải hạ đi. Ai cũng bảo Bernard: “ Mạnh mẽ lắm”; nhưng chàng nhận thấy có cọng
rơm, có vết rạn ngay trong khối kim khí. Với lại, thật không thể tưởng tượng được: chàng không muốn ăn, không thấy đói: “Tại sao mình không đi hỏi thầy thuốc?” .
Chàng nhún vai, làm bộ không cần; thật ra chàng thấy cứ để hồ nghi như vậy còn đỡ
ghê gớm hơn là biết đâu không nghe nói chắc
mình sẽ chết. Ban đêm đôi khi Thérèse chợt thức giấc vì một tiếng rên: Bernard cầm tay nàng đặt lên ngực
phía trái để nàng nghe thấy tim chàng có khi ngừng đập. Nàng thắp ngọn nến, trở
dậy rót tinh chất cây nữ lang hoa vào ly nước. Nàng tự nghĩ vì sự tình cờ nào mà
chất thuốc đó lại làm cho chết! Tại
sao không làm cho chết? Chẳng có gì thật tình làm cho
an thần, cho an giấc, nếu không phải giấc ngủ ngàn thu. Con người đang rên rỉ kia
tại sao sợ đến thế, cái sự an nghỉ không đòi hỏi một sự trả lại nào? Chàng
thiếp đi trước nàng. Làm sao chờ giấc ngủ được ở bên cái thể xác to lớn mà tiếng
ngáy đôi khi biến thành tiếng hốt hoảng?
Nhờ trời
bây giờ chàng không sát lại gần nữa - bây giờ Bernard cho rằng yêu đương là hoạt
động nguy hại nhất cho tim. Tiếng gà gáy sáng gọi các tá điền trở dậy. Trong gió đông vang vang tiếng chuông mai của nhà
thờ Saint-Claire; mãi lúc đó Thérèse mới chợp mắt. Khi đó thân hình người đàn ông lại
hoạt động, Bernard mặc quần áo rất nhanh như kiểu nông dân ( chàng chỉ nhúng
qua cái mặt vào chậu nước
lạnh). Chàng lao xuống nhà bếp như một con chó, háo hức kiếm những thức ăn còn
lại trong chạn, cầm tay gặm một cái mình gà luộc, một khoanh giò nguội,, hoặc một chùm nho và một miếng bánh mì có sát tỏi: đó là bữa
ăn duy nhất ngon lành của chàng
trong ngày! Bernard liệng những mẩu vụn cho hai con chó Flambeau và Diane hàm răng đang lập cập.
Trong sương mù có mùi mùa
thu. Đó là giờ mà Bernard thấy hết đau khổ, chàng lại cảm thấy trong người sự trẻ trung hùng dũng của mình. Sắp tới mùa chim cu phải lo sửa soạn chim mồi, phải chọc mắt chúng sẵn. Tới mười một giờ chàng
quay về thì Thérèse vẫn còn ngủ.
“Thế nào? Còn vụ
cậu bé Azévédo? Mình
không quên rằng má ở Biarritz đang
đợi tin, thư lưu trữ ?
- Thế
tim anh ra sao?
- Đừng
nói chuyện tim của anh làm gì. Hễ em nhắc tới là anh lại cảm thấy khó chịu. Dĩ nhiên là rõ ràng có
bị kích động... Em có tin rằng anh bị kích động không?”
Không
bao giờ nàng đáp đúng với ý muốn của chồng:
“Làm sao biết được; chỉ có mình mới hiểu trong người mình thế nào. Vụ cha mất vì bệnh sưng phổi không
phải là một lý do... nhất là đang tuổi mình... Đã đành gia đình Desqueyroux có một nhược điểm là tim. Nhưng
Bernard ạ, anh sợ chết coi bộ tức
cười quá! Có bao giờ anh cũng cảm thấy như em, cảm thấy
sâu sắc rằng mình sống vô ích? Không hả? Anh
có nghĩ rằng cuộc đời của
những người như chúng mình hiện đã hết sức giống cái chết?” .
Bernard
nhún vai: những trò mâu
thuẫn của Thérèse khiến cho chàng bực quá. Có đầu óc đâu có hay
ho gì: bất cứ việc gì cũng làm ngược lại lẽ phải. Chàng thêm: Nhưng cô ta
thừa hơi cãi lý với mình: tốt hơn hết là để dành đến lúc
gặp mặt cậu Azévédo.
“Em không quên rằng giữa tháng mười cậu ta sẽ rời Vilméja chứ?”
Tới
ga Villandraut, trên Saint-Clair một
ga, Thérèse nghĩ: “Làm sao nói cho Bernard tin được rằng mình không
yêu anh chàng đó? Thế nào anh ta cũng tin chắc rằng mình có yêu anh chàng
kia. Giống như những người hoàn toàn không biết đến ái tình, anh ta cứ tưởng rằng
một tội ác như tội người ta gán cho mình chỉ có thể vì yêu mê.” Làm sao cho
Bernard hiểu được hồi đó Thérèse không hề thù ghét chàng,
tuy nhiên lúc Bernard rất
khó chịu; nhưng Thérèse tuyệt nhiên không nghĩ rằng tìm an ủi
được ở một người đàn ông khác. Cứ kể ra thì Bernard đâu đến nỗi. Thérèse
thậm ghét
trong tiểu thuyết hay tả những con người khác thường không sao gặp được ở ngoài
đời.
Con người cao cả duy nhất mà nàng tưởng được
gặp là cha nàng.
Nàng cố gán một chút cao cả cho con người cấp tiến ương ngạnh đó, nhưng đa nghi, bắt cá nhiều tay: kỹ nghệ gia (ngoài một xưởng cưa ở
B… ông ta lo biến chế chất nhựa thông của mình và của nhiều người thân thích tại
một xưởng riêng ở Saint-Clair ).
Chính trị gia nhiều khi bị thiệt vì tính nóng nảy, quả quyết, nhưng rất có thế lực
ở tòa quận
trưởng. Ông coi thường đàn bà lắm, kể cả Thérèse vào
thời mà ai nấy đều ngợi khen sự thông minh của nàng. Còn từ vụ bi thảm này thì
ông không ngớt nói với luật sư: “Bọn
chúng nó nếu không loạn thần kinh thì cũng ngu độn hết! ” Con người ghét đạo lại
hay xấu hổ. Tuy đôi khi cũng hát lên một điệp khúc của Bérenger, ông không thể chịu nổi khi nghe ai trước
mặt ông đề cập tới một vài vấn đề, lúc đó ông đỏ nhừ như một cậu bé con. Bernard được ông De la Trave cho biết, là khi cưới vợ ông Larroque còn tân: “Từ ngày ông ta góa vợ, các ông kia vẫn thường
nói là không hề thấy ông ta có nhân tình . Cha mình đúng là một người đặc biệt!” Thật thế, đúng là một người đặc biệt. Nhưng
nếu ở xa, nàng hình dung cha nàng một vẻ đẹp đẽ, mỗi khi về gần, cứ gặp mặt ông
ta là Thérèse đã đo lường
được sự hèn hạ
của cha. Ông ít
tới Saint-Clair, nhưng thưòng tới Argelouse, vì ông không muốn gặp ông bà De la Trave.
Có mặt
họ, tuy họ nhất định không bàn chính trị, ngay khi mới bắt đầu bữa ăn đã nảy ra
chuyện tranh luận vô lý đưa rất nhanh tới chỗ
gay cấn, Thérèse rất hổ thẹn không dám tham dự: nàng kiêu hãnh không thèm mở miệng, chỉ trừ khi nào đề cập tới vấn đề
tôn giáo. Khi đó nàng lao tới đỡ đòn cho ông Larroque. Ai nấy đều to tiếng, đến độ bà cô
Clara cũng nghe ra vài câu và
cũng nhào vào cuộc
tranh luận, với giọng nói khó chịu hết sức của một người điếc, bà mặc sức thả hết
nhiệt tình của một cấp tiến lâu
đời,“ những chuyện xảy ra trong các tu viện”; thật tình (Thérèse
nghĩ vậy) bà có đức tin hơn hết thảy mọi người trong gia đình De la Trave, nhưng
bà công khai chống đối đấng cao cả vì đã để cho bà vừa xấu vừa điếc, sẽ chết đi
mà không hề được yêu và được biết mùi đời.
Từ ngày mà bà De la Trave bỏ bàn ăn đứng lên, ai nấy đều đồng ý không đề cập tới
chuyện siêu hình nữa. Vả lại, chính
trị cũng đủ để cho những con người đó, dù thuộc
tả hay hữu phái, bốc Iên,
tuy họ đều đồng ý về một nguyên tắc căn bản: quyền tư hữu là quý báu nhứt đời này, không có ruộng đất
thì không đáng sống. Nhưng có cần phải hy sinh hay không? Nếu
chịu hy sinh thì phải làm sao? Thérèse, “có óc tư sản từ trong máu”, muốn vấn đề được đặt
ra một cách trắng trợn như vậy, nhưng nàng ghét cái bề ngoài giả dối mà gia đinh Larroque và
gia đình De la Trave thường đưa ra để che đậy
mối ham mê đồng
tình của họ. Khi cha nàng tuyên bố “phải hy sinh đến cùng cho nền dân chủ”, nàng ngắt lời: “vô ích, vì chúng ta không có ai xa lạ.” Thứ chính
trị cao siêu quá khiến
cho nàng lợm giọng; sự bi thảm của cuộc giai cấp đấu tranh nàng không nhận thấy
trong một xứ mà người nghèo nhất
cũng là chủ đất và chỉ mong có nhiều đất hơn. Tại đó lòng ham thích chung về đất
đai, săn bắn và ăn uống tạo giữa mọi
người, tiểu tư sản hay nông dân, một mối huynh đệ chặt chẽ. Bernard còn có học;
người ta cho rằng chàng đã ra khỏi hoàn cảnh của mình; chính Thérèse cũng
hân hoan thế, Bernard là một người có thể
nói chuyện được:”Tóm lại, một người cao hơn hẳn hoàn cảnh của mình...” Nàng nhận
xét về Bernard như vậy cho tới
ngày gặp Jean Azévédo.
Thời
gian đó không khí mát ban đêm kéo dài cả buổi
sáng; liền sau bữa trưa, dù trời
nóng, chút sương mù đã sớm báo hiệu buổi hoàng hôn. Những con chim cu đầu liên đã
bay qua, hôm nào cũng
mãi chiều tối Bernard mới trở về nhà. Riêng bữa
đó, sau một đêm khó ngủ, chàng đi
thẳng ra Bordeaux để khám
bệnh.
Thérèse tự
nhủ: “Chẳng
mong muốn điều gì , ta đi dạo chừng
một giờ trên đường lớn vì đàn bà có thai cần đi bộ một chút. Ta tránh không đi
về phía rừng vì ở đó có những chòi bắn chim cu mỗi lúc cứ phải đứng lại, huýt sáo, chờ người thợ săn cất tiếng cho phép đi lên; nhưng đôi khi có tiếng huýt sáo dài đáp lại: một đàn chim mới sà xuống những đám cây sồi; phải ẩn vào một chỗ ngay. Sau đó ta sẽ
trở về, ngồi thơ thẩn trước lò lửa ở
phòng khách hay ở dưới bếp, đã có cô Clara lo liệu mọi thứ. Giống như một vị
thần linh không thèm ngó
ngàng tới kẻ hầu gái, ta chẳng lưu ý tới cô
gái già này lúc nào cũng lè nhè nói những chuyện bếp nước hay chuyện tá điền;
bà ấy nói hoài để khỏi phải mất công lắng nghe người khác nói: bao giờ cũng những
chuyện thê thảm về bọn tá điền mà bà đã săn sóc, chăm nom rất chu đáo: những ông
già đến độ sắp chết đói, phải làm việc cho tới lúc gần chết, những kẻ tàn tật bị
bỏ rơi, những mụ đàn bà phải làm những công việc cực nhọc. Bà cô Clara coi bộ hân hoan nhắc lại bằng thổ
âm của họ những lời nói
ghê gớm nhất của các tá điền. Thật tình, bà chỉ thương có một mình ta trong khi
ta chẳng thèm ngó
ngàng tới bà những lúc bà quỳ gối
xuống để cởi giày, tháo tất cho ta, sưởi nóng bàn chân ta trong hai bàn tay già
cỗi của bà.
Balion
lại tới hỏi xem có dặn dò điều chi không, ngày
hôm sau, tại Saint-Clair. Cô Clara kê một bảng những việc phải làm, thu
thập những đơn thuốc của mọi người ờ Argelouse: “Trước hết anh tới tiệm bào chế; Darquey phải mất cả ngày mới pha chế xong các thứ thuốc...”
“ Cuộc gặp gỡ đầu tiên của ta với Jean... Ta cần phải nhớ lại hết mỗi trường
hợp: ta định tới cái chòi săn chim cu bỏ hoang nơi hồi nào ta ăn
bữa chiều với Anne và sau đó ta biết Anne thường tới để gặp
Azévédo. Không, trong óc ta, đó không phải là một
cuộc hành hương. Rừng thông ở đó mọc cao quá không ngại quấy rầy những người thợ săn. Chòi săn
chim cu không dùng được
nữa vì rừng thông ở chung quanh che kín mất chân trời; những ngọn cây cách nhau
không đủ có những khoảng trời rộng cho người đi săn ngó thấy đàn chim bay tới.
Ta nhớ chăng: mặt trời tháng mười còn nóng
bỏng; ta lặn lội
trên con đường cát; ruồi muỗi
vo vo quanh tai. Cái bụng ta sao mà nặng! Ta mong mỏi được tới ngồi trên cái ghế
mục nơi chòi săn chim cu. Khi
ta mở cánh cửa, một chàng thanh niên đầu trần bước ra; thoạt nhìn ta đã nhận ra
Jean Azévédo
và
nghĩ ngay rằng mình tới phá đám một cuộc hò hẹn của y, vì nét mặt y trông lúng túng quá. Nhưng ta
không thể bỏ đi nơi khác; thật lạ lùng,
y nhất định giữ ta lại: “Không, thưa bà, bà cứ vào; tôi thề với bà là không
làm phiền tôi chút nào.”
“ Ta
ngạc nhiên không thấy có ai bên trong chòi, khi nghe lời khẩn khoản của y, ta bước vào. Ý hẳn cô gái chăn chiên đã trốn ra một ngả khác? Nhưng
không hề có tiếng cành cây bị giẫm gẫy. Người thanh niên cũng nhận ra ta, và nói
ngay tới tên Anne de la Trave. Ta ngồi đó, còn y đứng, như trong một bức hình chụp. Ta nhìn
qua mảnh áo lụa chỗ mà ta đã cắm cây kim: nhìn vì tò mò chớ không
hề có sự ham muốn. Anh chàng có đẹp trai không? Vầng
trán vuông vắn - đôi mắt nhung của nòi giống y - hai má no đầy
- và cái điểm nó làm cho ta ghê tởm nơi những cậu trai lứa tuổi đó: những mụn,
những dấu hiệu của sự máu huyết sôi sục; những gì có mủ, nhất là hai lòng
bàn tay ướt y phải lấy
khăn lau trước
khi bắt tay ta. Nhưng khóe mắt đẹp của anh chàng như lửa đốt; ta yêu cái miệng
rộng lúc nào cũng
hé mở để lộ hàm răng nhọn:
cái mõm của một con chó đang tơ
gặp lúc thèm chó
cái. Còn ta lúc đó
ra sao? Ta nhớ rõ: rất
nặng tình thần gia tộc. Ta lên mặt, bằng một giọng rất nghiêm trang, trách y “đã đem xáo trộn, chia rẽ vào
trong một nơi gia thế”. Chà, ta thử nhớ lại sự kinh ngạc không giả tạo, tiếng cười
tươi trẻ của y: “ Thế
bà tin rằng tôi muốn cưới cô ta
hay sao? Bà cho rằng tôi mong mỏi cái
vinh dự đó sao?” Ta kinh ngạc đưa mắt lường cái hố sâu thẳm giữa mối si mê của Anne và sự thờ ơ của chàng trai trẻ. Y biện hộ rất hăng: đã đành, làm
sao không bị lôi cuốn vì
cái duyên của cô bé đáng yêu đó? Có ai cấm thử chơi một chút; và chính bởi
không thể đặt vấn đề hôn nhân giữa hai người nên y cho rằng thử chơi một chút cũng
vô hại. Có lẽ y đã giả dối khi tỏ ra đồng ý với Anne... và khi ta lên mặt kẻ cả ngắt
lời, y càng
hăng hái nói tiếp rằng Anne có thể
minh chứng cho y, y biết giữ gìn chưa hề đi quá trớn;
y tin chắc rằng cô De la Trave nhờ có y mới được hưởng những giờ phút thật tình
say mê mà có lẽ suốt cuộc đời tẻ nhạt cô ta không bao giờ được biết tới: “Bà bảo rằng cô ta đau khổ; nhưng bà tin rằng
cô ta có thể mong đợi nơi số
phận những gì hơn sự đau khổ đó hay sao? Tôi có biết tiếng
bà, ông tôi biết rằng có thể nói những chuyện đó với bà vì bà không giống những
người ở đây. Trước khi cô ta dấn
thân vào một cuộc hành trình u tối nhất trong một căn nhà cô ở Saint-Clair, tôi đã cho Anne một gia tài những cảm xúc, những
ước mơ- những gì có lẽ đủ để cứu cô ta khỏi sự thất vọng, hay ít nhất sự tù hãm u
mê.” Ta không nhớ rõ khi đó ta có bực
mình vì sự huênh hoang, kiểu cách quá độ này, hay ta cũng lấy làm vừa ý. Thật tình y nói mau quá, ban đầu ta nghe không kịp; nhưng, lát
sau ta đã quen với lối
nói liên hồi đó: “Bà tưởng
rằng tôi có thể
ao ước một cuộc hôn nhân như vậy; tôi mà bỏ neo trên vùng đồng cát này; hay đeo đẳng một cô gái như vậy
ở Paris?
Tôi
sẽ giữ về Anne một hình
ảnh đáng yêu, đã đành, lúc bà bắt gặp tôi ở đây, chính là lúc tôi đang nghĩ nhớ
tới cô ta... Nhưng làm sao
có thể cắm sào một chỗ, thưa bà. Mỗi phút giây phải mang lại một sự vui thích của
nó - một sự vui thích khác hẳn những giây trước.”
“ Sự háo hức của một con vật đang tơ, sự thông minh như vậy lại ở trong cũng sinh vật đó khiến cho ta
thấy kỳ lạ, phải chăm
chú nghe, không ngắt lời y. Quả vậy, ta bị choáng mắt: một cách dễ dàng quá. Trời ạ! Nhưng đúng như vậy .
Ta nhớ lại tiếng bước chân, tiếng la man dại của những chú chăn chiên báo hiệu từ xa một bầy cừu sắp đi ngang. Ta bảo với chàng trai rằng có lẽ hơi kỳ nếu họ thấy
hai người ở trong cái chòi này,
ta muốn y trả lời
rằng tốt hơn hết là im tiếng chờ đoàn cừu đi qua; ta sẽ thích thú sự im lặng
hai người bên nhau, sự đồng lõa (
thế là ta cũng đã
trở nên đòi hỏi, và ao ước mỗi phút trôi qua đem lại lẽ sống cho ta). Nhưng Jean
Azévédo không hề phản đối, mở ngay cánh cửa chòi, và trịnh trọng đứng tránh ra một bên.
Y theo la về tận Argelouse sau khi hỏi xem như vậy có trở ngại gì không. Chuyến
đi về này ta thấy mau quá,
tuy người bạn đường đã đề cập tới rất nhiều vấn đề! Y làm tươi mới lại một cách kỳ lạ
những vấn đề mà ta đã tưởng hiểu biết đôi chút; chẳng hạn về vấn đề tín ngưỡng, khi ta nhắc
lại những điều vẫn quen nói ở
nhà, y vội
ngắt lời: “Vâng,
có lẽ... nhưng còn rắc rối hơn thế nhiều...” Có thế, y rọi vào cuộc tranh luận những ánh sáng ta thấy tuyệt diệu... Thật tình những ánh sáng đó có tuyệt diệu đến thế không?... Ta tin rằng cái món
ninh đó nay ta thấy đáng nôn mửa:
y bảo
rằng từ lâu y tin không có gì quan trọng ngoài ngoài sự tìm tòi, theo đuổi Thượng
đế : “Xuống
thuyền, ra khơi, trốn chạy, như trước cái chết,
những người tự tin rằng đã tìm thấy, đứng lại, dựng những chỗ trú ẩn để ngủ yên
trong đó; đã từ lâu tôi coi khinh những người này...”
Y hỏi ta đã đọc cuốn Cuộc đời linh mục de Foucauld của René Bazin chưa;
khi ta làm bộ mỉm cười, y bảo rằng cuốn sách đó đã làm
y xao xuyến. Y nói
tiếp: “Sống
nguy hiểm, theo nghĩa sâu sắc nhất có lẽ không phải cứ đi tìm mà là tìm cho thấy Thượng đế, và khi
đã tìm thấy, tiến mãi
theo gót Thượng đế.” Y
tả
cho ta: “cuộc
phiêu lưu lớn của các nhà thần bí học”, phàn nàn rằng bản chất của y không cho
phép y thử làm, “lùi thật
xa về dĩ vãng y
không thể nhớ có trong trắng bao giờ không».
Bao nhiêu trắng trợn, sự dễ dàng cởi mở của
y khiến cho ta đổi hẳn bản tính giữ gìn của người tỉnh nhỏ, sự e dè của những người cùng xứ không chịu thổ lộ về đời sống bên
trong của mình. Những chuyện đồn đại ở Saint-Clair chỉ lướt qua mặt ngoài: những con tim bao giờ cũng
được giấu kín. Tóm lại, ta biết những gì về Bernard? Phải chăng bên trong Bernard còn biết bao nhiêu
những gì hơn bức hí họa mà ta đã lấy làm bằng lòng mỗi khi muốn hình dung ra anh ấy? Jean vẫn nói
và ta cứ ngồi im: ta không có
một lời nào khác ngoài những lời lẽ quen thuộc trong những vụ tranh luận giữa
gia đình. Cũng như ở vùng này
các xe ngưa đều “cùng một cỡ”, nghĩa là cỗ xe nào cũng khá rộng
bề ngang để bánh xe lăn đúng vào vết mòn của những xe bò, cho tới hôm đó những
tư tưởng của ta đều “cùng một cỡ” với tư tưởng của cha ta, của bố mẹ
chồng ta. Jean Azévédo
để
đầu trần; ta còn nhớ lại chiếc sơ mi để hở bộ ngực trẻ thơ, cái cổ quá to của y. Có phải ta đã bị mê hoặc vì bề ngoài của y? Không đâu. Trời ơi! Nhưng y là người đàn ông đầu tiên mà ta
gặp và người đó coi trọng đời
sống tinh thần hơn hết mọi sự. Những thầy, bạn ở Paris mà y luôn luôn nhắc tới những lời nói hay những sách vở không
cho phép ta coi y như một quái vật: y ở trong đám thượng lưu đông đảo,
“những
người hiện hữu” như y nói.
Y đưa
ra những tên, không nghĩ rằng ta có thể không biết; và ta làm bộ như không phải lần đầu nghe thấy
những tên đó.
Khi tới một khúc quanh, cánh đồng Argelouse
hiện ra, ta la lên: “ Đến nơi rồi à!” Khói
từ những đống cỏ cháy bay là là trên mặt đất cằn cỗi sau vụ gặt lúa mạch; từ một
cái khe giữa ngọn đồi, một bầy cừu chảy trôi như dòng sữa đục, coi bộ đang gặm cát khô. Jean phải đi ngang cánh đồng mới về
được Vilméja”.
Ta bảo y: “Tôi đưa cậu về; tôi thích những vấn đề đó lắm.
“Nhưng
hai người chẳng
có chuyện gì để nói thêm. Những cọng rạ ta giẫm dép lên
thấy đau cả chân. Ta có cảm tưởng y muốn có một mình, có lẽ để được
tự do theo đuổi một ý tưởng vừa hiện đến. Ta nhắc y rằng cả hai chưa hề nói chuyện
tới An, y đáp
chúng ta đâu có tự do
để
tùy ý chọn đề tài cho những cuộc
tranh luận, cũng như cho những dịp suy tưởng, y huynh hoang nói tiếp:“ hoặc giả
phải theo những phương pháp do các
nhà thần bí học bày ra… Những con người như chúng ta bao giờ cũng theo những trào lưu, lăn xuống những dường dốc…” chuyện gì y cũng
kéo tới như vậy, tới những sách
vở y đang học. Ta hẹn với
y sẽ
gặp lại để cùng định
một thái độ về vụ cô An.
Y trả
lời lơ đãng, đáp một câu ta hỏi,
y cúi
xuống: như một đứa trẻ nhỏ,
y đưa
cho ta coi một cây nấm, rồi đưa lên mũi ngửi và đặt lên môi hôn.
Chương
VII
Bernard đứng trên thềm chờ Thérèse về.
Vừa nhìn thấy tà áo nàng trong bóng tối, Bernard reo lên: “ Anh không bị gì hết, không bị gì hết! Em có thể tưởng tượng một người sức vóc như anh
thế này mà lại thiếu máu? Không thể tin được nhưng lại rất
đúng: không thể căn cứ vào bề ngoài được; anh phải theo một phương pháp trị liệu...
phương pháp Fowler: dùng
chất thạch tín; việc quan trọng là anh phải trở lại ăn thấy ngon miệng...”
Thérèse nhớ lại ban đầu nàng không lấy làm bực bội: những gì do nơi Bernard đều khiến cho nàng không thấy
khó chịu như trước (ảnh hưởng xem như tới từ xa hơn). Nàng không nghe Bernard nói, linh hồn
và thể xác nàng hướng về một vòm trời khác, nơi có những con người tha thiết chỉ ao ước được hiểu, được biết, và, như lời Jean đã nói một vẻ thoả mãn vô cùng, “tự thể hiện”. Khi ngồi vào bàn ăn, Thérèse mới
nói tới chuyện gặp gỡ ban
chiều, Bernard phát gắt: “Thế sao
khi nãy em không nói? em lạ
lùng quá nhỉ: Thế nào? Hai bên đã
quyết định ra sao?”
Nàng liền bịa ra một kế hoạch thật ra sau đó
cũng thi hành: Jean Azévédo bằng lòng viết cho Anne một bức thư trong
đó y sẽ nhẹ nhàng tỏ cho cô bé biết
không hy vọng gì. Bernard phì cười nhất định cho rằng anh chàng không phải không
tha thiết với đám cưới đó
đâu: một thằng Azévédo
mà
không mong cưới Anne de la Trave! “Ồ, em có thể điên đến mực ấy ư? Nói
trắng ra, tại nó biết rằng không ích gì; bọn
đó không bao giờ dám thử thách nếu
biết trước sẽ thất bại. Em còn ngây thơ quá, em ạ.”
Vì muỗi, Bernard không chịu cho thắp đèn,
cho nên chàng không nhìn thấy
con mắt
của Thérèse. Bernard “ đã thấy ngon miệng”, như lời chàng. Viên y sĩ ở Bordeaux đã giúp Bernard tìm lại nghĩa sống.
“Ta có
thường gặp lại Jean Azévédo không? Cuối
tháng mười y rời
Argelouse... Có lẽ ta đã cùng đi
dạo với y năm
hay sáu lần; ta chỉ tách riêng
ra những dịp mà hai người bàn về bức thư viết cho Anne. Chàng trai ngây thơ chọn
những lời lẽ mà y cho rằng thoa dịu, nhưng khiến ta cảm thấy trọn vẹn sự ghê tởm,
tuy không nói ra với y. Còn những cuộc dạo chơi
khác ta hòa lẫn trong một kỷ niệm duy nhất. Jean Azévédo kể
cho ta nghe về Paris, về những
sự giao du của y, ta tưởng
tượng ra một vương quốc mà phép tắc
là “tự thực hiện”. “Ở đây bà bị buộc phải dối trả cho đến lúc chết”. Y có ý gì khi nói ra những lời ấy?
Y nghi ngờ ta điều chi? Cứ nghe y nói, không thể nào ta chịu nổi cái khí hậu ngột ngạt này. Y nói: “Bà hãy
nhìn cái mặt phẳng mênh mông không thay đổi của lớp băng trong đó mọi tâm hồn của dân vùng này bị đóng chặt; đôi khi một kẽ hở để lộ một
dòng nước đen: có ai
đã quẫy lên và mất tích; cái vỏ liền khép lại... vì ở đây cũng như những nơi khác ai
nấy sinh ra đều phải chịu
những phép tắc
sẵn có, ở đây cũng như những nơi khác, mỗi kiếp người đều có những đặc điểm riêng rẽ; nhưng hết thảy vẫn phải chịu chung một định mệnh thảm đạm; có ít
người chống đối: do đó có những thảm kịch mà các gia đình vùi lấp đi. Như ở trong vùng mọi người thường nói: “Phải lấp liếm đi...”
Ta la lên: “Phải đấy! Đôi
khi tôi hỏi đến một tổ phụ hay một tổ mẫu mào đó mà trong tập hình gia tộc thấy biến mất mọi tấm hình, không
bao giờ tôi được trả lời, trừ ra có một
lần được một lời thú thật: “ Cụ ấy mất tích... phải làm cho mất tích.”
“ Jean Azévédo có ngại ta sẽ gặp một định mệnh như vậy
không? Y
nói
rằng chưa hề có ý định nói với Anne
về
những chuyện đó vì, mặc dầu sự đắm đuối của Anne, đó chỉ là một tâm hồn bình dị, có đôi chút chống đối, nhưng rồi ta sẽ bị áp chế ngay:
“Còn
bà, tôi cảm thấy trong những lời
lẽ của bà một sự thèm khát
chân tình...” Có cần nhắc lại đúng những lời đó với Bernard hay không? Đó chỉ
là một cơn điên hy vọng mà Bernard không làm sao hiểu nổi! Dù sao
cũng cần cho anh ấy hiểu rằng, không phải ta không chống trả trước khi thua. Ta
nhớ có chống lại Jean, bảo rằng
anh chàng dùng
những lời lẽ khéo léo để
che đậy một khuynh hướng trụy lạc thấp hèn.
Ta dung tất cả những gì còn nhớ về những bài luân lý ở trường trung học.
Ta nhắc mãi: “Tự thực hiện ư? Nhưng chúng ta chỉ thực hiện được
bằng những gì do chính
ta tạo nên.” (Chẳng cần phải giải thích dài;
nhưng có lẽ phải giải thích Bernard mới hiểu.) Azévédo
không chịu nhận có sự trụy
lạc
nào ghê gớm hơn sự phủ nhận bản chất của mình. Y cho rằng không có người anh hùng hay bậc thánh không hơn một lần đào sâu
trong tâm hồn mình, không tận dụng mọi khả năng của mình. Y nhắc đi nhắc lại: “Phải vượt hơn mình mới tìm thấy Thượng đế.” Hoặc
“Tự nhận,
công việc đó buộc những con người cao cả nhất trong chúng ta phải so đọ với chính họ, không che đậy, không mánh lới. Bởi
thế mới có những người đã giải
thoát được lại đi tin theo một tôn giáo chật
hẹp nhất. ”
“ Không tranh luận với Bernard về căn bản vững chắc của thứ luân
lý đó - bằng lòng nhận với Bernard rằng có lẽ đó chỉ là những lời ngụy biện nghèo nàn; nhưng Bernard cần phải hiểu, phải cố gắng mà hiểu rằng một người đàn bà như ta có thể bị tiêm nhiễm, và đó là điều mà ta
nhận thấy, buổi tối, trong phòng ăn ở Argelouse: Bernard, trong gian bếp kế bên,
đang tháo ủng, kể lại bằng thổ âm những kết quả của cuộc săn trong ngày. Những con chim cu bị bắt
giãy giụa, làm phồng cái túi bỏ trên bàn; Bernard ăn chậm rãi, khoan khoái vì đã tìm lại được sự ngon miệng - Bernard chăm chú đếm những giọt
thuốc “ Fowler ”. Chàng nói mãi: “Sức khỏe đây.” Lửa đỏ ở trong lò sưởi, đến lúc ăn tráng miệng Bernard chỉ cần
quay lưng ghế lại để đưa hai chân mang giầy dạ hơ gần ngọn lửa. Hai mắt chàng
nhíp lại, tay vẫn cầm tờ nhật báo La Petite Gironde. Đôi khi chàng ngáy to, nhưng
nhiều lúc ta không nghe tiếng chàng thở. Trong bếp tiếng dép của Balionte kéo lệt xệt; sau đó chị ta mang những cây đèn nến
vào. Và tất cả đều im lặng:
sự im lặng của Argelouse! Những ai chưa biết vùng truông hẻo lánh này không thể hiểu nổi sự im lặng đó: nó trùm
lấy căn nhà, như đóng cứng trong cái khối đầy những rừng cây trong đó không có sinh
vật gì, ngoại trừ đôi khi một con cú lên
tiếng hú ( trong đêm tối ta tưởng như nghe tiếng khóc mà ta đang cố nén xuống ).
“ Ta biết tới sự im lặng đó nhất là từ sau
khi Azévédo ra đi. Ý thức đó nặng nề đến độ ta cho rằng
ngày nào mà ta gặp lại Jean, sự có
mặt của y khiến cho bóng tối ở chung quanh trở nên vô hại; giấc ngủ gần gũi của y tràn đầy trong đêm tối. Liền sau khi rời
Argelouse, sau lần gặp gỡ cuối cùng mà y hẹn sẽ trở lại sau một năm, y nói với ta rằng y tràn ngập hy vọng tới hồi đó ta
đã tự giải thoát được rồi (mãi tới
nay ta vẫn không hiểu
y nói chơi như vậy hay có hậu ý gì? Ta ngờ rằng
con người Paris đó không
chịu nổi sự im lặng của Argelouse và y tôn quý nơi ta người duy nhất biết nghe y nói),
liền sau khi ta từ biệt
y, ta tưởng
như chui vô một đường hầm vô tận, dấn mình vào một bóng tối ngày càng dầy đặc
thỉnh thoảng ta tự hỏi liệu có ra tới chỗ đủ
không khí trước khi bị nghẹt thở. Cho tới ngày ta sinh nở, vào tháng giêng, không
có chuyện gì xảy ra...
Tới đây Thérèse
ngập ngừng, cố gắng không bắt nghĩ tới những gì đã xảy ra tại Argelouse, cách một
ngày sau khi Jean ra đi. Nàng nghĩ: “Không,
không, không liên quan chi hết tới những gì lát nữa ta sẽ phải giải thích với
Bernard; ta không có thì giờ bỏ phí vào những đường mòn không đưa tới đâu.” Nhưng
tư tưởng thường ương ngạnh; không sao ngăn cấm không cho chạy tới đâu nó muốn:
Thérèse không thể nhận chìm trong ký ức buổi tối
tháng mười đó. Trên lầu một , Bernard đang thay quần áo, Thérèse chờ cho
khúc củi thật cháy hết mới lên theo chồng - sung sướng được có một lúc cô đơn:
vào giờ này Jean Azévédo
đang
làm gì? có lẽ y đang uống rượu tại cái quán
nhỏ y có nói tới; có lẽ ( ban đêm êm ả làm sao ) y đang đi xe hơi cùng một người bạn trong rừng Boulogne
hoang vắng. Có lẽ y đang làm việc ở bàn, và xa xa Paris nhộn nhịp: sự im
lặng chính y đã gây ra, y đã chiếm
đoạt được trong sự xào xạc của cuộc đời;
đối với y, im lặng
không do bên ngoài bắt ép như
cái im lặng đang làm cho Thérèse
ngột ngạt; sự im lặng đó là do
y tạo
thành và không tỏa lan ra xa quá ánh đèn, quá những
ngăn chất đầy sách của
y…Thérèse đang
nghĩ như vậy; bỗng con chó sủa vang,
rồi
gầm gừ, và ngoài hành lang một giọng nói quen thuộc, mệt lả, phủ dụ con chó: Anne de la Trave mở cửa vào; cô bé đi bộ trong
đêm tối từ Saint-Claire về
đây- đôi giầy lem những bùn.
Trên khuôn mặt chợt già đi, hai con mắt cô gái long lanh sáng. Anne bỏ mũ trên ghế và hỏi: “Jean đâu?”
Thérèse và Jean, sau khi gửi bức thư đã tưởng thế là
xong - không thể tưởng tượng Anne
sẽ
cương quyết không rời – tưởng rằng con người biết nghe theo lẽ phải, theo sự biện
luận, mỗi khi có chuyện liên quan tới cuộc đời
mình! Anne đã
đánh lừa được mẹ và nhảy
lên
một chuyến xe lửa. Trên con đường
tối tăm về Argelouse, cô gái cứ theo
khoảng, trời sáng giữa hai hàng ngọn cây mà đi. “Cần nhất là gặp lại chàng; nếu gặp được chàng, chàng sẽ nghe
theo ngay, cần nhất là gặp lại chàng.”
Cô gái vấp, trẹo cả chân
trong những ổ gà, vì hăng hái muốn đi mau tới
Argelouse. Thế là Thérèse lại bảo Jean đã đi rồi, Jean hiện ở Paris. An lắc đầu, không tin; cô bé cần phải không tin để khỏi ngã gục vì mệt, vì
thất vọng:
“Chị quen nói dối quá!”
Thấy
Thérèse cãi, Anne tiếp:
“Hừ, chị nặng
tinh thần gia tộc lắm nhỉ! Chị làm
bộ muốn được giải phóng... Nhưng từ ngày lấy chồng lập tức chị trở thành một thứ
đàn bà trong nhà... Phải rồi, tôi hiểu lắm: chị tưởng làm như vậy là tốt lắm hả; chị phản bội tôi để cứu tôi chứ gì? Thôi chị khỏi cần giải thích nửa.”
Khi
cô gái mở cửa, Thérèse
hỏi cô ta tính đi đâu. “Sang Vilméja, tới nhà anh ấy.”
- Tôi
nhắc lại với cô rằng
cậu ta ra đi từ hai hôm nay rồi.
-
Tôi không tin lời chị đâu.”
Anne đi
ra. Thérèse liền châm ngọn đèn bão vẫn treo ở hành lang rồi đi theo
Anne:
“Cô Anne ơi, cô
sẽ lạc mất: đường đó đi Biourge, Vilméja
đi ngả này cơ.”
Hai
người đi trong màn sương từ cánh đồng tràn ngập lên. Chó lên tiếng sủa. Đây là những hàng sồi ở Vilméja, căn nhà không phải đang yên ngủ mà như đã
chết. Anne đi quanh nơi mộ địa trống không, lấy cả hai bàn tay đập cửa. Thérèse đặt
cây đèn xuống cỏ, đứng yên lặng. Nàng nhìn cái bóng ma của cô bạn dán vào từng khung cửa kính tầng
dưới. Có lẽ Anne gọi mãi một cái tên, nhưng không la to, biết rằng vô
ích. Trong giây lát cô
gái đi khuất sau căn nhà; rồi cô ta
quay lại, lê tới
trước cửa, ngồi bệt xuống thềm, hai cánh tay bó gối, vùi mặt vào đầu gối. Thérèse nâng
cô bé dậy, kéo đi. Anne chập choạng, nói mãi:
“Mai em sẽ đi Paris. Paris đâu có lớn lắm; em sẽ tìm thấy chàng ở Paris...” giọng nói của một đứa trẻ hết sức chống cự và đã chịu
thua.
Bernard thức giấc vì nghe tiếng hai người nói,
khoác áo ngồi đợi họ ngoài phòng khách. Thérèse vô
lý muốn xóa bỏ trong trí nhớ cái cảnh đã
xảy ra giữa người anh và cô em gái. Người đàn ông dám nắm chặt cổ tay cô gái nhỏ
mệt lả, kéo lê cô ta lên
tận căn phòng trên tầng lầu hai, khóa chặt cửa,
người đó là chồng của ta, Thérèse ạ, người mà trong hai giờ đồng hồ nữa sẽ đứng
ra phán xét
ta. Tinh thần gia tộc xui khiến hắn, đỡ cho hắn khỏi phải do dự. Trong bất kỳ trường hợp nào, bao giờ hắn
cũng biết phải làm thế nào để bảo vệ quyền lợi gia tộc. Ta đang lo lắng sửa soạn
một bài biện hộ dài; nhưng chỉ riêng những đàn ông không có định kiến mới nghe
theo những lý lẽ do bên
ngoài đưa tới. Bernard đâu có quan tâm tới những lý lẽ của ta: “Tôi biết tôi phải làm những gì.” Bao giờ Bernard
cũng biết sẽ phải làm những gì. Nếu đôi khi có do dự, tất hẳn sẽ nói: “Chúng tôi đã bàn kỹ trong gia đình, chúng tôi
xét rằng...”; tại sao ta có thể
nghĩ rằng…Bernard chưa có
sẵn một quyết định? Số pbận của ta đã định: tốt hơn hết là ngủ đi.
Chương VIII
Sau
khi ông bà De la Trave đưa Anne hoàn toàn chịu thua về Saint-Clair, Thérèse, cho tới gần ngày sinh, không hề rời
Argelouse. Nàng thật hiểu rõ sự im lặng ở đó, nhất là trong những đêm dài vô tận
hồi tháng mười một. Một bức thư gửi cho Jean Azévédo
không có hồi âm. Có lẽ Jean cho rằng người đàn bà tỉnh nhỏ đó không đáng một cuộc
trao đổi thư từ buồn chán. Trước hết, một người đàn bà có thai không thể lưu một
kỷ niệm đẹp. Không chừng xa rồi Jean
mới
thấy Thérèse tẻ nhạt quá, nếu giả bộ gây rắc rối, tỏ thái độ có
lẽ đã giữ lại được! Nhưng
y hiểu
sao nổi được vẻ bình dị giả dối, con
mắt
nhìn thẳng, những cử chỉ bao giờ cũng lửng lơ đó? Thật tình,
y cho rằng nàng có thể, như cô bé Anne,
tin lời y, bỏ hết
để theo y. Jean Azévédo
hoài
nghi những đàn bà sớm quy hàng không để cho kẻ địch tự ý rút lui. Y không ngán điều
gì bằng chiến thắng, bằng kết quả của chiến thắng. Thérèse,
trái lại, cố gắng
sống trong khung trời của chàng trai trẻ ấy; nhưng trong những sách
mà Jean hâm mộ, Thérèse có
gửi mua ở Bordeaux về, nàng
thấy không hiểu hết. Thật là vô cùng
nhàn cư! Không thể bảo nàng lo may tã lót: “Không phải việc của cô ấy”, bà De la Trave bả
thế. Ở thôn quê rất
nhiều phụ nữ chết khi sinh nở. Thérèse làm cho bà cô Clara khóc ròng khi nàng nhất
định sẽ chết giống như mẹ nàng, chắc chắn không, có cách nào tránh khỏi. Nàng không quên nói thêm “có chết cũng chẳng sao”. Kỳ thật nàng nói dối! Chưa bao giờ nàng ham sống như hồi đó; cũng chưa bao giờ Bernard
tỏ ra săn sóc tới nàng đến thế: “Không
phải hắn lo cho ta mà lo cho cái vật ta mang trong bụng. Với cái giọng khó chịu, hắn lải nhải mãi vô ích: “Em ăn thêm khoai tán đi... Em đừng ăn cá... Hôm
nay em đi bộ nhiều rồi...” Ta chẳng
lấy làm cảm động, khác nào một chị vú ở xa tới được người ta làm giá vì sữa tốt. Gia đình De la Trave tôn quý nơi ta một cái lọ quý; cái vật đựng dòng giống của họ; chắc chắn nếu cần họ có thể hy sinh ta để
đi cứu lấy cái thai. Ta cảm
thấy không còn có đời sống riêng tư nữa. Ta chỉ là một thứ dây nho, đối với gia đình này riêng có trái nho dính với phủ tạng của ta là đáng kể.
“ Cho tới cuối
tháng chạp ta cứ phải sống trong bóng tối như vậy. Những gốc thông vô số chưa đủ,
mưa rả rích không ngớt còn dan thêm khắp chung quanh ngôi nhà u tối, cả triệu những chân song di động. Khi con đường độc nhất
về Saint-Claire có vẻ
sắp bị nghẽn, ta được đưa về thị trấn đó ở trong một căn nhà đỡ u tối hơn ở Argelouse
được tý chút. Những gốc dương cổ thụ nơi công
viên còn rán giữ được ít lá trước
những cơn mưa bão.
Không thể sống được ở đâu khác ngoài Argelouse, bà cô Clara không đi theo săn sóc
ta; nhưng bà tới thăm ta luôn
luôn, bất kể mưa nắng, trên chiếc xe ngựa “cùng một
cỡ”; bà đem tới cho ta những món
quà
vặt mà hồi còn bé ta ưa thích và bà tưởng bây giờ ta cũng còn thích, những viên kẹo màu xám bằng
lúa mạch trộn với mật ong gọi là
miques; thứ bánh ngọt có tên là fougasse hay roumadjade.Ta chỉ gặp
mặt Anne vào
những bữa ăn, cô bé không
hề hỏi tới ta; coi bộ cô
gái an phận, chịu thua, và mất hẳn vẻ xinh tươi của tuổi trẻ. Mái tóc kéo ra phía sau nhiều quá để lộ đôi tai khó coi, xám ngắt. Không
ai nói tới tên cậu con trai nhà Deguilhem, nhưng bà De la Trave cả quyết rằng Anne chưa hẳn đã ưng thuận. Hừ, Jean đã xét đoán rất đúng về cô bé: không mất bao nhiêu lâu để có thể xỏ dây lỗ mũi và dẫn cô bé đi. Bernard không khá lắm vì anh ta lại bắt đầu uống rượu mạnh. Những
con người ở quanh ta nói với nhau những chuyện gì? Ta còn
nhớ họ bàn tán nhiều về cha xứ (nhà của gia đình De la Trave ở ngay trước cửa
nhà chung). Chẳng
hạn họ tự hỏi “tại
sao trong ngày cha xứ đi qua công viên đến bốn lần, mỗi lần trở về lại đi một đường
khác...”
Do một vài câu chuyện của Jean Azévédo, Thérèse lưu ý tới vị linh mục còn trẻ tuổi, ít liên
lạc với giáo dân
trong xứ, họ cho rằng ông ta kiêu ngạo: “Không
phải thứ hợp với xứ
này.” Nhân những dịp rất thưa cha xứ tới thăm gia đình De la Trave, Thérèse
ngắm hai bên thái dương đã bạc, vầng trán cao của ông ta. Không có một người bạn
thân nào. Ban tối ông
ta làm những việc gì? Tại sao ông lại chọn cuộc đời đó? Bà De la Trave nói: “Người giữ đúng giờ giấc lắm; tối nào cũng chầu minh thánh, nhưng người thiếu sự uyển
chuyển thấm thía, tôi không thấy ở người cái
mà người ta gọi là sự kinh tín. Bao nhiêu công việc từ thiện người đều bỏ bê cả.”
Bà phàn nàn cha xứ đã bãi bỏ
phường kèn của
hội từ thiện; cha mẹ học sinh phàn nàn cha xứ không đưa học sinh ra sân đá banh
nữa: “Lúc
nào cũng chúi mũi vào sách
vở thì tốt thật, nhưng làm vậy công việc trong xứ sẽ bê trễ ngay.” Muốn nghe ông
ta giảng, Thérèse hay tới nhà thờ. “Con chịu khó đi lễ vào đúng lúc mà sức khỏe của
con không buộc con làm vậy.” Những lời giảng của cha xứ, về giáo lý hay đạo đức, không có đặc tính. Nhưng Thérèse
thích một giọng nói, một cử chỉ: có những chữ đôi khi mang một nghĩa nặng... Hừ! có lẽ ông ta có thể giúp nàng chỉnh đốn lại cái thế giới rối ren ở nội tâm nàng; không giống
những người khác, ông ta có khuynh hướng bi thảm; cộng thêm vào nỗi cô đơn nội tâm, ông ta lại gây một sa mạc do bộ
áo tu sĩ tạo nên chung quanh con người mang nó. Trong những nghi lễ thường nhật
ông ta tìm thấy hứng khởi thế nào? Thérèse muốn đi xem lễ vào ngày thường trong tuần,
khi không có ai khác chứng kiến ngoài chú bé phụ lễ, ông ta cúi xuống mẩu bánh, nói lẩm bẩm.
Nhưng cử chỉ đó sẽ hóa thành kỳ lạ đối với gia đình nàng và dân trong vùng, mọi người có thể la hoảng cho rằng nàng mới cải tâm.
Vào thời kỳ đó Thérèse đã
đau khổ tới chừng
nào đi nữa, sau khi nằm cữ nàng
mới bắt đầu thấy thật tình khó sống. Bên ngoài không có vẻ gì khác lạ; không có
chuyện cãi cọ giữa nàng và Bernard; và nàng tỏ ra tôn kính
cha mẹ chồng còn hơn chồng nàng nữa. Sự bi thảm là do đó, không hề có một lý do gì để cắt đức được; không thể tiên liệu một
biến cố nào để ngăn mọi chuyện không cứ cái đà bình thường diễn tiến cho tới
khi hai tay buông xuôi.
Muốn
xích mích cần phải có dịp
so đọ đưa tới sự đụng độ; nhưng Thérèse không hề bao giờ có dịp so đọ với Bernard,
càng không có với cha mẹ chồng; những lời nói của họ không lọt tai nàng; không bao giờ nàng
thấy cần phải đáp lại. Giữa nàng và họ không có lấy cả một dụng ngữ chung. Họ cho những dụng ngữ thường dùng một nghĩa khác hẳn. Một dịp nào đó thiếu
phụ thành thật thốt ra một tiếng,
thế là cả gia đình nhất định tin rằng Thérèse thích thú những câu bông đùa. Bà De la Trave nói: “Tôi giả tảng không nghe thấy, nếu nó nhấn mạnh,
tôi tỏ vẻ không lưu tâm mấy tới chuyện đó; nó tất phải hiểu rằng cái điệu như vậy
không ăn thua gì với nhà mình.”
Tuy nhiên, bà De la Trave rất khó chịu thấy Thérèse làm
bộ bực bội khi nghe mọi người la lớn rằng con bé Mary giống mẹ quá. Những lời thốt ra thường lệ: (“Không thể chối bỏ được...”) thường gọi nơi người
mẹ những tình cảm quá độ
mà nàng khó che dấu.
Nàng nhắc đi nhắc lại mãi: “Con bé này chẳng giống tôi một chút nào. Các bà thử nhìn nước da hung hung, đôi mắt đen láy. Các bà lại nhìn
những bức ảnh của tôi: hồi nhỏ tôi xanh xao lắm.”
Nàng không muốn Marie giống mẹ. Nàng không muốn có chút
gì chung chạ với cục
thịt đã rời khỏi nàng. Mọi người đồn tình mẫu tử không bóp nghẹt những tình cảm
khác ở nàng. Bà De la Trave đoán
chắc Thérèse yêu con theo cách riêng: “Lẽ dĩ nhiên không thể đòi hỏi nó tắm hay thay
tã cho con: đó không phải là việc của nó; nhưng tôi thấy nó ngồi cả buổi tối bên cái nôi, nhịn hút thuốc để ngắm
con bé ngủ... Vả lại nhà tôi có chị ở tốt lắm, lại còn cô Anne nữa. Ồ, con bé này thì tôi dám nói chắc là sẽ thành một người mẹ rất tốt…”
Từ ngày có thêm một đứa nhỏ trong nhà, thật
tình Anne đã sống lại. Cái nôi bao giờ cũng lôi cuốn các phụ nữ; nhưng Anne, hơn ai hết, chăm sóc con bé với một sự vui thích sâu xa. Cô ta làm lành với Thérèse để
được tự do vào
phòng con bé cháu,
tuy nhiên sự mật thiết xưa kia không còn nữa, ngoại trừ những cử chỉ, những lời
xưng hô thân mật. Cô gái ngại nhất nếu người mẹ tỏ ra ghen với mình: “Cháu mến tôi hơn mẹ cháu. Mới trông thấy tôi
là nó đã cười ngay. Hôm nọ tôi đang bế, cháu,
nó la khóc khi chị Thérèse đưa tay muốn bế nó. Con bé mến
tôi lắm lúc tôi phá ngượng.”
Anne thấy ngượng thật vô lý. Trong đời nàng,
hồi đó Thérèse cảm thấy thờ ơ với đứa con gái cũng
như với hết thẩy mọi thứ khác. Thérèse nhìn những người và vật, và thể xác nàng,
tâm hồn nàng nữa, không khác gì một ảo ảnh, một áng sương lơ lửng, tách biệt hẳn
với nàng. Riêng có Bernard là một thực tại ghê tởm trong quãng không đó: thân hình thô kệch, tiếng nói giọng
mũi, cái vẻ hách dịch, thỏa mãn. Tách khỏi thế giới này... Nhưng bằng cách nào? và đi
đâu? Nắng đầu mùa làm
cho Thérèse ngột ngạt. Không chút gì báo trước, tội nàng
sẽ phạm. Năm đó những chuyện gì đã xảy ra? Nàng không nhớ có một biến cố,
một cuộc cãi cọ nào; nàng nhớ thấy ghét chồng hơn ngày thường vào bữa lễ Thánh thể,
khi nàng ngồi sau cánh cửa sổ hé mở chờ
xem đám rước. Bernard hầu như là người đàn ông duy nhất đi sau chiếc kiệu.
Trong khoảnh khắc, cả thị trấn bỗng vắng tanh, tưởng như không phải có một con chiên mù một con sư tử
vừa được thả ra đường... Ai nấy đều ẩn núp trong nhà để khỏi phải ngả mũ hay quỳ gối. Nguy cơ qua đi, những
cánh cửa lần lượt mở ra. Thérèse nhìn cha xứ đang tiến bước, hai mắt gần nhắm
kín, hai tay nâng một vật kỳ lạ. Môi ông ta mấp mày: ông ta nói với ai bằng vẻ mặt đau khổ đó? Theo sau cha xứ là
Bernard “đang làm bổn phận”.
Nhiều tuần trôi qua không hề có một giọt mưa..
Bernard sống trong cảnh kinh sợ hỏa hoạn, và bắt đầu thấy đau tim trở lại. Tại Louchats
có năm trăm hectare bị cháy: “Nếu có gió Bắc, rừng thông của mình ở Balisac đã tiêu rồi.” Thérèse
không biết mong đợi gì nơi khung trời trong vắt. Chắc không bao giờ trời còn mưa nữa... Một ngày nào những khu rừng ở chung
quanh sẽ bốc cháy và thị trấn này cũng không tránh khỏi. Tại sao những làng mạc
ở vùng Landes không bao giờ bị cháy? Thérèse
thấy bất công khi lửa chỉ đốt
những rừng thông chớ không đốt cháy người. Trong nhà mọi người bàn cãi liên miên về nguyên nhân của tai nạn đó:
một điếu thuốc cháy dở? hay có người đang tâm phá hoại? Thérèse tưởng tượng một đêm kia nàng trở dậy, ra
khỏi nhà, tới một khu rừng có nhiều củi ngo nhất, liệng mẫu thuốc lá, chờ tới khi một luồng khói vĩ đại làm mờ nền
trời rạng đông…
Nhưng
nàng vội xua đuổi ý nghĩ đó, vì từ trong máu Thérèse vẫn
trìu mến rừng thông; nàng đâu có thù hận
những cây cối.
Nay tới lúc nàng nhìn thẳng vào hành vi đã làm.
Giải thích thế nào đây với Bernard? Không cách nào khác là nhắc lại từng điểm một những
gì đã xảy ra. Đó là bữa cháy rừng
Mano. Mọi người chạy vào
phòng ăn khi gia đình đang vội vã ăn bữa trưa. Người thì nói chắc lửa còn xa Saint-Clair lắm, người khác
lại đòi bằng được phải kéo
chuông báo nguy. Mùi nhựa
thông chảy khét dưới
bầu trời nồng nực, mặt trời tưởng như lem bẩn. Thérèse còn
nhớ Bernard, quay mặt lại
nghe Balion báo cáo,
trong khi bàn tay to lông lá lơ là
trên miệng cốc và những giọt thuốc Fowler nhỏ xuống nước. Bernard uống một hơi
hết ly thuốc, còn Thérèse dã dượi vì nóng không nghĩ tới nhắc chồng đã
uống gấp hai lượng thuốc thường nhật. Mọi người rời bàn ăn – riêng nàng ngồi bóc
những trái hạnh nhân còn tươi, thản nhiên, xa lạ với sự nhộn nhịp, lững lờ trước
tấn bi kịch đó, cũng như mọi bi kịch khác không phải của nàng. Chuông cấp báo không được kéo. Sau đó Bernard trở về: “Lần này thì mình có lý, không náo động: cháy mãi bên rừng Mano...” Chàng hỏi: “Tôi đã uống thuốc chưa nhỉ?” và
không đợi trả lời, Bernard lại nhỏ thuốc vào cốc. Thérèse nín lặng vì lười, có lẽ vì mệt. Giây phút đó nàng mong ước
gì? “Không thể nào có chuyện ta nín lặng vì cố ý.”
Nhưng đêm hôm đó, ở bên giường Bernard, khi
chàng vừa nôn mửa vừa khóc, bác sĩ Pédemay
hỏi nàng về những chuyện xảy ra trong ngày, nàng không hề nói tới những gì trông
thấy khi ở bàn ăn. Khi đó thật dễ dàng lưu ý viên y sĩ về số lượng thạch tín mà Bernard
đã uống mà không bị liên lụy gì. Thérèse có thể nói một câu chẳng hạn như: “Lúc đó tôi không dè... Chúng tôi ai nấy đều kinh hoảng vì vụ cháy... nhưng bây
giờ tôi tin chắc rằng nhà tôi đã uống tới hai liều...” Thérèse nín
lặng; không biết nàng có ý định nói hay không. Hành vi mà trong bữa ăn nàng không
lưu ý tới bây giờ bắt đầu trổi dậy trong tiềm thức - tuy chưa rõ rệt, nhưng đã
ý thức được nửa chừng.
Sau khi bác sĩ ra về, Thérèse
nhìn Bernard đã thiếp
ngủ được, nàng nghĩ: “Không
có gì chứng tỏ rằng vì đó; có thể là đau ruột thừa, tuy không có triệu chứng gì... hay một trường hợp
cảm nặng. ” Cách một ngày sau Bernard đã khỏe lại. “Rất có thể là vì đó.” Thérèse
không tin chắc hẳn; nàng mong được biết chắc như vậy. “Ừ, ta đâu có bị lôi cuốn vì một ý định ghê gớm; đó chỉ là một
sự tò mò nếu chiều theo thì nguy hại. Ngày đầu tiên,
khi ta nhỏ những giọt thuốc Fowler vào trong ly của Bernard trước khi chàng bước
vào phòng ăn, ta còn nhớ có tự nhủ: “Chỉ một
lần thôi nhé,
cho biết chắc... biết chắc rằng anh ấy bị đau vì thế. Chỉ một lần, rồi thôi.”
Con tàu chậm
lại, thả một hồi còi,
rồi chạy. Có hai, ba chấm lửa
trong bóng tối: ga Saint-Clair. Nhưng Thérèse không còn chi để dò xét nữa;
nàng đã nhào vô tội ác lôi cuốn, chính tội ác đã thu hút nàng, những gì xảy ra
sau đó, Bernard cũng biết hết như nàng: Bernard bỗng thấy đau lại, và Thérèse săn
sóc chồng đêm ngày, tuy nàng coi bộ mệt lả và không sao nuốt được một miếng (đến
độ chính Bernard khuyên nàng nên thử phương thuốc Fowler và nói với bác sĩ Pédemay cho đơn). Tội nghiệp cho bác sĩ! ông ta ngạc nhiên thấy Bernard thổ ra thứ nước
màu lục nhạt; ông ta chưa hề nhận thấy có sự không ăn nhập lạ lùng giữa mạch và nhiệt độ của bệnh nhân; có nhiều
lần gặp trường hợp phó thương hàn ông nhận thấy mạch bình thường tuy nhiệt độ cao-
nhưng mạch nhảy mạnh và nhiệt độ dưới mức trung bình như thế này là nghĩa làm sao? Không chừng cảm cúm truyền nhiễm: cảm cúm thì lắm chuyện đấy.
Bà De la Trave tính mời một danh y. nhưng lại không muốn làm
mất lòng ông bác sĩ quen
từ
lâu đời; còn Thérèse cũng sợ làm Bernard phải kinh động. Nhưng,
tới giữa tháng tám, sau một cơn đáng ngại hơn nữa, chính ông Pédemay mong có một đồng nghiệp để hỏi ý kiến; may
thay ngay bữa sau tình trạng sức khỏe của Bernard đã khá nhiều; ba tuần sau có thể nói là gần khỏi hẳn.
Pédemay nói: “Thật may quá! Nếu vị danh y có thi giờ tới đã được tiếng là chữa
khỏi.”
Bernard đòi chở về Argelouse, hy vọng sẽ khỏe kịp mùa săn chim cu. Dịp đó Thérèse mệt
nhọc hết sức: bà cô Clara sau một cơn tê thấp nặng phải nằm liệt giường; bao
nhiêu công việc thiếu phụ đều phải ngó tới: hai người đau nằm đó và một đứa bé; không kể những công việc mà bà cô Clara còn
bỏ bê. Thérèse rất cố gắng thay cô săn sóc những người
nghèo khổ ở Argelouse. Nàng đi
thăm một vòng các nhà tá điền, cũng như bà cô Clara, nàng lo đưa những đơn thuốc
tới nhà bào chế, bỏ
tiền túi ra trả tiền thuốc. Thérèse không có thì giờ buồn về chuyện căn nhà ở Vilméja cửa đóng kín mít. Nàng không nghĩ đến Jean Azévédo nữa, chẳng nghĩ tới một ai khác trên đời này. Một
mình Thérèse đi qua một đường hầm nguy hiểm; nàng đang ở
khúc tối tăm nhất; cần phải như một kẻ đần độn, không suy tính, ra khỏi miền tăm
tối đó, ra khỏi đám khói mù, tìm
thấy không khí khoáng đãng, ngay lập tức!
Đầu tháng chạp, Bernard bỗng nằm liệt vì căn
bệnh cũ: một buổi sáng trở dậy chàng run rẩy, hai chân cứng đơ, không cảm giác.
Rồi những chuyện xảy ra sau đó! Một
buổi tối ông De la Trave đưa
vị danh y từ Bordeaux về;
sau khi khám bệnh, bác sĩ nín lặng trong một lúc lâu (Thérèse
tay cầm cây đèn, Balionte còn nhớ da mặt nàng trắng hơn
tấm khăn trải giường): ở đầu cầu thang không đủ ánh sáng, Pédemay hạ thấp giọng vì Thérèse đang
đứng nghe, nói cho người đồng nghiệp biết dược sĩ Darquey có cho xem hai đơn thuốc của ông
ta bị làm mạo: đơn
thứ nhất một bàn tay sát nhân biên thêm Liqueur de Fowler; trên đơn thứ hai có ghi những liều rất nặng
các thứ độc dược chloroforme,
digitaline, aconitine. Balion đưa những đơn đó tới cân cùng,
với nhiều đơn thuốc khác. Darquey, thắc mắc vì đã bán những độc dược đó, ngày hôm
sau liền chạy tới nhà ông Pédemay....
Ừ, Bernard biết rõ hết những chuyện đó cũng như Thérèse.
Một chiếc xe y tế chở Bernard về ngay
một bệnh viện ở Bordeaux; và từ
bữa đó Bernard bắt đầu khỏe lại. Thérèse một mình ở lại Argelouse; nhưng mặc dù cô quạnh, nàng nghe thấy ở chung quanh một sự
xôn xao rộng lớn; con vật ẩn
trốn nghe thấy tiếng đàn chó săn lại gầu; mệt lả như sau một cuộc trốn chạy thục
mạng - khác nào khi gần tới đích, bàn tay đã đưa ra, nàng chợt bị đẩy té nhào xuống đất, hai chân gãy gục.
Cuối mùa Đông, một buổi tối cha nàng có tới nài nỉ nàng
phải minh oan. Mọi sự còn có thể cứu vãn
được. Pédemay
đã bằng lòng rút đơn khiếu nại, khai rằng không nhớ kỹ có đơn thuốc nào của ông không hoàn toàn do chính tay ông ta biên. Về những chất
aconitine, chlorofonne và digitaline, tất ông ta không thể cho đơn với những liều
mạnh như vậy; nhưng trong máu bệnh nhân không hề tìm thấy một chút nào những độc
dược đó, vậy thì..-
Thérèse còn nhớ kỹ cuộc gặp gỡ ông bố ở bên giường bà cô Clara. Một lò sưởi bằng củi đốt chiếu sáng gian phòng không
ai đòi thấp đèn. Nàng giải thích bằng một giọng đều đều của đứa trẻ đọc bài ( bài
mà nàng học đi học lại mãi
trong những đêm không ngủ ): “Tôi
gặp ở trên đường một người không phải dân vùng Argelouse, người đó nói nhân tiện tôi cho
người đi lấy thuốc ở nhà Darquey
nên
nhờ tôi làm ơn cho cân giùm một
đơn thuốc của y; y nợ tiền
của Darquey nên
không muốn đưa mặt tới tiệm bào chế... Y hẹn sẽ tới nhà nhận thuốc, nhưng
không nói tên, cũng không để lại địa chỉ...
- Tìm cách khác đi, Thérèse, đừng
để taí tiếng cho gia đình. Khốn nạn, tìm cách
khác đi! ”
Ông
già Larroque cứ trách
mắng Thérèse mãi
không thôi; bù nghễnh
ngãng nhỏm người dậy, thấy Thérèse có
vẻ bị hăm dọa ghê gớm, rên lên:
“Ông
ấy nói gì với con thế? Họ kiếm chuyện gì với con? Tại
sao mọi người cứ muốn
Iàm khổ con?”
Thérèse còn
đủ can đảm để mỉm cười
với bà cô, cầm tay bà, và như một cô gái nhỏ trong giờ giáo lý, nàng đọc bài: “Một người đàn ông ở trên đường cái; trời tối quá tôi
nhìn không rõ mặt; y cũng
không nói ở trại tá điền nào.” Một
tối sau, y lại tới
để lấy thuốc. Không may chẳng một ai trong nhà trông thấy y hết.
Chương IX
Thế là tới Saint-Clair. Khi xuống xe, không ai nhận
ra Thérèse. Trong khi Balion đi trả vé xe, nàng vòng ra phía sau ga, trèo qua những tấm ván chất ngổn ngang để ra đường
cái nơi đậu xe.
Bấy giờ chiếc xe ngưa là một nơi trú ẩn cho
Thérèse, trên con đường gồ ghề, nàng không còn sợ phải chạm trán với ai nữa. Cả một câu chuyện nhọc công xây dựng
lại, chợt sụp đổ: không còn
lại một chút gì của bài thú tội đã được sửa soạn sẵn. Không: không có gì để bào chữa; không có lấy một lý do nào để đưa ra; giản dị nhất là im lặng,
hay chỉ trả lời vào những câu hỏi. Nàng e ngại gì? Đêm
nay sẽ qua đi, như những đêm khác; sáng mai mặt trời lại mọc: nàng tin chắc sẽ thoát
khỏi, cho dù có chuyện
gì xảy ra. Không có gì ghê gớm hơn sự thản nhiên, sự thờ ơ nó ngăn cách nàng với thế giới bên ngoài và với cả con người nàng nữa. Thật vậy, chết trong
khi đang sống: nàng thưởng thức được sự chết đến cùng độ mà một người sống có thể thưởng thức được.
Mắt nàng đã quen với bóng tối, nhận ra ở một
khúc quanh xóm tá điền với mấy nếp nhà thấp giống như những con vật đang nằm ngủ.
Hồi xưa, tại chỗ này, Anne vẫn sợ một con chó hay nhảy bổ vào bánh
xe đạp. Xa nữa, những ngọn cây trăn để lộ một vực sâu; những ngày hè oi ả nhất, ở đây một làn hơi mát thoảng qua áp
trên đôi má nóng
hổi của hai cô gái. Một thằng
bé cỡi xe đạp, hàm răng
lóe sáng bên dưới chiếc mũ
rộng vành che nắng, tiếng chuông, tiếng la: “ Coi này, tôi bỏ cả hai tay!” hình
ảnh lờ mờ đó, những gì Thérèse tìm lại được trong những ngày đã thật sự qua
đi, nàng muốn giữ lại để làm nơi cho tim nàng nghỉ ngơi sau khi đã tàn lực. Như
máy, Thérèse nhắc mãi những lời theo nhịp bước chân ngựa: “Đời ta
vô ích – đời ta là quãng
không - cô đơn mênh mông - định mệnh vô vọng.” Chao ôi! Có một cử chỉ đáng nhất thì Bernard sẽ không
làm. Nếu chàng mở rộng tay chờ đón, không đòi hỏi chi hết! Nếu
nàng được ngả đầu trên ngực của một người, nếu nàng được khóc kề bên một thân
thể sống?
Thérèse nhận ra cái gò trên cánh đồng, nơi mà một ngày thật nóng, Jean Azévédo
đã
tới ngồi. Thế mà Thérèse
hằng
tin có một chỗ nào trên thế giới này để nàng có thể hớn hở giữa những người hiểu
nàng, không chừng yêu và quí mến
nàng nữa! Nhưng cô đơn dính liền với nàng hơn là những mụn lở đối với một người
hủi: “ Không ai có cách gì giúp
ta; không ai có cách gì hại
ta.”
“Kìa ông với bà cô Clara.”
Balion kìm cương ngựa. Hai cái bóng tiến lại gần.
Bernard, tuy hãy còn
yếu lắm, cũng đi đón nàng - vội muốn biết, tin chắc chắn. Thérèse nhóm
lên, báo tin từ xa: “Miễn
tố!” Chỉ có một lời đáp lại: “Ai cũng đã nói thế!” Bernard đỡ bà cô Clara leo lên xe, rồi cầm dây cương. Balion đi bộ trở về. Bà cô Clara
ngồi giữa hai vợ chồng. Phải la to vào tai bà ta rằng mọi sự thu xếp xong cả rồi
( bà Clara chỉ có
một ý niệm mơ hồ về tấn bi kịch ). Theo thói quen, cái bà nghễnh ngãng bắt đầu nói đến hết hơi; bà ta bảo rằng bọn
chúng nó bao giờ cũng có một chiến thuật và đây là một vụ Dreyfus được tái diễn: “Cứ nói xấu nữa đi, nói xấu mãi, rồi vẫn còn lại cái gì. Bọn chúng nó ghê gớm lắm, còn những người cộng hòa đã sơ xuất không chịu đề phòng. Hễ cứ
để cho chúng nó yên là những con vật thối tha đó nhảy lên cổ mình ngay...” Những lời nói tíu tít
đó đỡ cho hai vợ chồng khỏi phải nói với nhau một lời nào.
Bà cô
Clara, thở hào hển, bước lên thang, tay cầm một cây nến:
“Hai người chưa đi ngủ sao? Chắc
Thérèse mệt lắm. Con có sẵn trên phòng một bát súp với thịt gà luộc đấy.”
Nhưng hai vợ chồng vẫn đứng ở ngoài hành
lang. Bà cụ thấy Bernard mở cánh cửa phòng khách, lùi lại nhường Thérèse bước
vào, rồi biến mất sau lưng cô ta. Nếu bà cụ không nghễnh ngãng tất đã ghé tai vào cánh
cửa... nhưng không ai lo đề phòng bà cụ đã như bị chôn sống sau bốn bức tường.
Bà cụ tắt ngọn nến, nhưng lần mò bước
xuống, ghé một
mắt vào lỗ khóa: Bernard đang
rời cây đèn; gương mặt của
hắn được chiếu sáng rõ coi bộ vừa trịnh trọng vừa e dè. Bà cô thấy Thérèse
ngồi quay lưng lại, nàng bỏ áo khoác và cái mũ ngồi trên một chiếc ghế hành; lửa
nóng làm đôi giày ướt của nàng bốc hơi. Lát sau, cô ta quay mặt lại phía chồng, bà cụ lấy làm sung sướng thấy Thérèse mỉm cười.
Thérèse mỉm cười.
Trong quãng
không gian và thời gian ngắn, giữa tàu ngựa và nhà trên, đi bên Bernard bỗng nàng nhận ra, tưởng đã nhận
ra việc nàng cần phải làm. Mới lại gần người đàn ông đó đã khiến cho nàng thấy tan biến hy vọng có thể giải thích,
thổ lộ. Những con người mà ta
quen biết
nhất, ta đã làm họ biến dạng biết chừng nào mỗi khi vắng mặt họ! Suốt cuộc hành trình nàng đã vô tình cố gắng
tạo nên một Bernard có thể hiểu nàng, tìm cách
hiểu nàng - nhưng, ngay cái nhìn đầu tiên, Bernard hiện ra đúng như Bernard thật,
con người không hề bao giờ, dù chỉ một
lần trong đời, đặt mình vào địa vị kẻ khác; Bernard không hề biết sự cố gắng ra
khỏi bản thân để nhìn bằng con mắt đối phương. Thật tình, Bernard có lắng tai
nghe nàng hay không? Chàng đi bách bộ trong gian phòng lớn, thấp và ẩm, sàn gỗ mục đôi chỗ cót két dưới bước chân. Hắn không nhìn mặt vợ - đang
háo hức sắp nói những lời nghiền ngẫm từ lâu. Còn Thérèse cũng
vậy đã thuộc làu những điều sắp nói. Giải pháp giản dị nhất bao giờ cũng là giải
pháp mà ta không hề nghĩ tới. Nàng tính nói: “Bernard ạ, em sẽ biến mất. Anh đừng quan tâm chi tới em. Nếu anh muốn, ngay tức thời em sẽ biến vào đêm tối. Rừng không làm cho
em sợ, cũng như bóng đêm. Đã quen thuộc với em quá rồi. Em sinh ra đã phù hợp với cái xứ khô cằn, không có sinh vật nào sống nổi
ngoài những đàn chim quạ, những chú heo rừng đi ngang. Em bằng lòng bị xua đuổi;
anh hãy đốt hết những hình của em đi; con gái em cũng
sẽ không cần biết tới tên em, gia đình hãy
coi em như không có.
Thérèse vừa
hé miệng nói:
“Bernard, để cho em biến mất đi.”
Nghe
tiếng nói, Bernard quay lại. Từ cuối phòng, hắn chạy vội tới, những mạch máu trên
mặt căng phồng; hắn ú ớ:
“Sao? Cô dám có ý kiến
ư? dám tỏ
một nguyện vọng? Thôi đi. Không được nói thêm một lời nào. Cô chỉ có việc nghe, nghe lệnh của tôi - và làm theo những quyết định không thể thay
đổi của tôi.”
Hắn không nói lắp nữa, tìm lại được những lời
đã sắp đặt cẩn thận. Tựa mình bên lò sưởi
hắn nói giọng trầm, rút trong túi ra một mảnh giấy để xem. Thérèse
không còn sợ hãi nữa;
nàng muốn bật cười! hắn lố
bịch quá; đúng là một anh lố bịch. Đáng kể chi những lời hắn nói với cái giọng ti tiện nó làm cho mọi người bất cứ ở
đâu ngoài Saint-Clair cũng
phải bật cười, Thérèse quyết sẽ ra đi. Làm gì phải đóng kịch như vậy? Có gì
là quan trọng nếu kẻ ngu ngốc này biến mất trong đám những người đang sống. Nàng
nhận thấy, trên mảnh giấy run rẩy, những móng tay cáu bẩn của hắn; áo của hắn không có ống tay, hắn thuộc loại những
anh nhà quê cứ
ra khỏi làng là thấy đáng tức cười, và cuộc đời không mảy may quan hệ tới bất cứ
một công cuộc, một tư tưởng, một con người nào. Chỉ vì thói quen mà người ta cho đời sống của
một người đàn ông một tầm quan trọng vô cùng. Robespierre có lý;
và Napoléon, và Lênin... Hắn ngó thấy nàng mỉm cười; hắn
nổi doá lên, to tiếng, nàng bắt buộc phải nghe:
“Tôi nắm được thóp của cô, cô hiểu chưa? Cô sẽ
phải tuân theo những quyết định trong gia đình, nếu không…
- Nếu không... thì sao?
Thérèse
không thèm làm
bộ thờ ơ nữa; nàng ra vẻ bất cần, cười cợt;
nàng la lên:
“Chậm mất rồi! Anh đã ra tòa làm chứng minh
oan cho tôi; anh không thể tự phán quyết được nữa. Anh sẽ bị buộc vào tội chứng gian...
- Vẫn có thể tìm ra một yếu tố mới chứ. Hiện tôi cất trong ngăn kéo một tang chứng đặc biệt. Nhờ trời đã mãn thời hiện đâu!
Thérèse giựt mình,
hỏi:
“Anh muốn gì tôi?”
Bernard
xem mảnh giấy ghi sẵn, trong vài giây Thérèse chăm chú nghe thấm vào sự im lặng lạ lùng của vùng Argelouse. Còn lâu gà mới gáy sáng; không
một mạch sống chảy trên sa mạc này, không một chút gió làm xúc động những ngọn
cây vô số.
“Tôi không kể đến những quan điểm cá nhân. Tôi lui đi, chỉ kể tới gia đình mà thôi. Bao giờ những
quyết định của tôi cũng
do quyền lợi gia đình định đoạt. Muốn giữ danh giá cho gia đình, tôi đã thuận làm sai lạc công lý
của nước tôi. Thượng-Đế sẽ phán xét tôi.”
Giọng nói long trọng làm cho Thérèse khó chịu. Nàng chỉ muốn nài nỉ Bernard nói
một cách đơn sơ hơn.
“Vì gia đình nên cần thiết phải lo cho mọi người
thấy chúng ta vẫn hòa thuận và không nghĩ rằng tôi nghi ngờ sự ngay tình của cô.
Mặt khác, tôi cũng
muốn giữ gìn cho tôi hết sức...
- Tôi
làm cho anh sợ hay sao, Anh Bernard?”
Hắn
nói nhỏ: “Sợ ư? Không
phải: Ghê tởm.”
Rồi
hắn tiếp:
“Chúng ta nên lo gấp, có những gì đáng nói chỉ nói một lần cho xong: từ mai chúng ta sẽ rời ngôi nhà này trở về sống bên
nhà Đesqueyroux; tôi
không muốn thấy mặt bà cô của cô trong nhà tôi. Balionte sẽ dọn cho cô ăn ngay trong
phòng. Cô không được phép bước
vào những phòng khác; nhưng tôi không cấm cô
dạo chơi trong rừng. Chủ nhật
chúng ta cùng đi
xem lễ tại nhà thờ Saint-Claire. Cần
cho mọi người thấy tôi đi cùng với cô; và cứ mỗi thứ năm đầu tháng phiên chợ B. chúng ta sẽ đi xe ngựa mui trần về thăm cha cô, như xưa nay vẫn thế.
- Còn Marie?
- Sáng mai chị ở sẽ đưa nó về Saint Clair, rồi má tôi sẽ đưa nó xuống miền Nam. Sẽ tìm một lý do sức khỏe chi đó. ít nhất cô cũng không hy vọng được gần
nó, phải không? Cả nó cũng cần được bảo vệ. Tôi chết đi, sẽ tới phiên nó, khi thành nhân, được
hưởng gia sản này. Sau cha, sẽ tới con,
biết
đâu đấy.?”
Thérèse đứng lên; nàng cố giữ không thốt ra: “Thế ra anh tưởng rằng vì những gốc thông mà tôi
đã... ”
Trong số cả ngàn nguyên nhân đưa tới hành vi
nàng, tên ngốc này không thể tìm ra được manh mối nào; nên hắn tạo ra một nguyên
nhân thấp hèn nhất:
“Lẽ dĩ
nhiên: vì những gốc thông... Tại sao vậy? Chỉ cần loại dần từng nguyên nhân một. Tôi đố cô chỉ
cho tôi được một nguyên nhân khác đó... Tóm lại, cũng không quan trọng gì, tôi cũng chẳng để ý tới nữa; tôi không thắc mắc một
điều gì nữa; cô không còn là gì hết; khốn nạn, chỉ còn lại cái tên cô mang! Trong mấy tháng nữa, khi mọi
người đã tin chắc rằng chúng ta vẫn hòa thuận, khi Anne đã lấy cậu Deguilhem... Cô cũng biết gia đình
Deguilhem đòi một thời hạn, họ đòi được suy nghĩ đã... tới khi đó, tôi sẽ có thể
về sống tại Saint-Clair: còn cô,
cô sẽ sống tại đây. Cô sẽ mắc bệnh loạn thần kinh, hay chi chi đó...
- Chẳng hạn như bệnh điên?
-
Không, nói vậy hại cho Marie. Nhưng những, lý
do nghe được không thiếu. Thế là xong.”
Thérèse nói
nhỏ: “Ở Argelouse...
cho tới lúc chết...” Nàng tới gần cửa sổ, mở cánh cửa. Khi đó Bernard cảm thấy sung
sướng thật sự; người đàn bà này
luôn
luôn dọa nạt, làm
nhục hắn, tối nay thật tình hắn đã đè bẹp được! thật tình nàng phải thấy bị sỉ nhục
quá! Hắn lấy làm kiêu hãnh vì đã ôn hòa. Bà De la Trave cứ nói mãi rằng hắn là một bực thánh; cả nhà đều ca tụng
sự cao cả của hắn: lần đầu
tiên hắn cảm thấy sự cao cả đó. Khi ở nhà thương, với rất nhiều dè dặt, cuộc mưu hại của Thérèse được tiết lộ với hắn, hắn không phải cố gắng chút nào để giữ được can đảm, khiến
cho mọi người trầm trồ khen ngợi. Đối với những con người không biết yêu, không
có chuyện gì là thật tình trầm trọng; bởi hắn không biết yêu, Bernard cảm thấy
một nỗi vui run rẩy khi qua khỏi tai nạn: cảm giác của một người vừa phát giác,
sau bao nhiêu năm sống gần gũi một người điên mà không biết. Nhưng tối nay
Bernard ý thức được uy lực của hắn; hắn chế ngự được cuộc sống. Hắn, lấy làm thán phục rằng một tâm hồn ngay thẳng;
và biết lý luận đúng tất khắc phục được hết những khó khăn; ngay sau thảm kịch đó,
hắn vẫn sẵn sàng chủ trương rằng người ta không bao giờ khổ sở trừ ra là tự mình.
Một thảm kịch ghê gớm bậc nhất, thế mà hắn đã thu xếp xong như bất kỳ một công
việc nào khác. Chuyện này gần như không ai biết; hắn sẽ giữ được thể diện; không
ai sẽ phàn nàn cho hắn nữa; hắn không muốn cho ai phải phàn nàn cho hắn. Có gì là
nhục nhã khi cưới phải một con
quỷ
nhưng mình chế ngự được nó? Vả lại cuộc đời độc thân cũng có những khía cạnh đáng
thích, và tới lúc luống tuổi hắn thấy tăng bội lạ lùng cái thích sẵn có được là điền chủ, được đi
săn, lái xe hơi, được ăn ngon, uống say: tóm lại những lạc thú ở đời!
Thérèse đứng mãi trước khung cửa sổ; nàng nhìn thấy một vùng sỏi trắng, ngửi thấy mùi hương những khóm cúc ngăn cách sau một hàng rào lưới sắt để gia súc khỏi gặm. Xa xa, khối đen
những ngọn đồi che lấp rừng
thông; nhưng mùi nhựa
thông tràn đầy trong đêm; khác nào một toán địch quân, tuy không nhìn thấy nhưng
gần đâu đây. Thérèse biết rừng thông bao vây ngôi nhà. Những gốc
thông phòng vệ cho nàng đó, Thérèse nghe thấy tiếng than van rì rào, sẽ chứng kiến cảnh nàng âu sầu qua những
mùa đông dài dặc, hổn hển qua
những mùa hè oi bức; rừng thông sẽ chứng kiến cho sự nghẹt
thở lần lần. Nàng khép cánh
cửa sổ rồi tiến lại phía Bernard:
“Anh có tin dùng
uy lực giữ nổi tôi không?
- Tùy ý cô... nhưng cô chớ quên rằng cô chỉ có thể ra khỏi nhà này với
hai tay bị trói.
- Quá lắm! Tôi
biết anh lắm : anh đừng cố gắng làm ra ác. Anh không đời nào để gia đình phải
mang tiếng. Tôi yên chí lắm.”
Bernard,
vốn người hay đắn đo, suy tính kỹ, bèn giải
thích cho nàng biết rằng bỏ đi tức là nhìn nhận có tội. Trong trường hợp này
gia đình chỉ có một cách tránh sự ô nhục là chặt đứt cánh tay bị ung thối, dứt
bỏ đi, giữa công chúng loại trừ phần tử đó.
“Cô biết không, ban đầu má tôi đã tính theo giải pháp đó. Gia đình đã toan để mặc pháp luật tiến hành cuộc điều tra; nếu không có chuyện
Anne và Marie… Nhưng bây giờ vẫn còn kịp. Cô đừng vội trả lời. Tôi để cho cô tới
sáng mai.”
Thérèse nói
nhỏ:
“Tôi còn
có cha tôi.”
- Cha cô? nhưng chúng tôi đã hoàn toàn đồng ý. Cha cô còn sự nghiệp, còn chính đảng và những
tư tưởng mà ông bênh vực:
cha cô
chỉ muốn bóp nghẹt vụ này bằng bất kỳ cách nào. Ít nhất cô cũng phải biết ơn những gì cha cô đã làm cho cô. Ở dự thẩm công việc làm lấy lệ là nhờ ông... Với lại, chắc cha cô đã nói rõ cho cô biết ý nhất định
của ông rồi... Chưa nói sao?”
Bernard không to tiếng nữa, trở lại gần như
nhã nhặn. Không phải hắn có chút thương hại gì đâu. Nhưng người đàn bà gần như rũ
liệt, hắn không nghe thấy nhịp thở nữa; người đàn bà đã tìm được đúng chỗ của mình.
Đâu rồi sẽ vào đấy cả. Hạnh phúc của một người đàn ông khác không sao chịu nổi
một cú như vậy: Bernard hân hoan đã thành công trong việc cải hoán; ai nấy đều
có thể lầm; với lại, về Thérèse, ai nấy đều đã lầm hết - Ngay đến cả bà De la Trave xưa nay vẫn xét đoán người một cách rất nhanh chóng. Chung
quy tại bây giờ người ta không quan tâm lắm tới những nguyên tắc; họ không tin
rằng thứ giáo dục
như của Thérèse tai hại thế nào; có lẽ đó là một con quỷ; dù sao nói lắm cũng vô ích: nếu Thérèse
biết tin nơi Chúa... biết kinh sợ và bắt đầu khôn ngoan. Bernard nghĩ vậy. Hắn
còn tự nhủ cả Saint-Claire, đang
háo hức chờ xem sự hổ nhục của gia đình hắn, sẽ thất vọng biết chừng nào mỗi chủ nhật phải chứng kiến cảnh một gia đình hòa thuận như
vậy! Hắn nóng ruột muốn chóng
tới chủ nhật để nhìn mặt mọi
người!... Vả lại,
pháp luật có thiệt hại gì đâu. Bernard cầm cây
đèn, cánh tay giơ cao chiếu sáng cái gáy của Thérèse:
“Cô chưa lên đi ngủ sao?”
Thérèse không tỏ ra nghe thấy Bernard hỏi. Hắn đi
ra, bỏ mặc nàng trong bóng tối. Ở chân thang, bà cô Clara ngồi xổm trên bực cầu
thang thứ nhất. Thấy bà cụ nhìn mình, Berrnard cố gắng mỉm cười, đưa tay cho bà cụ níu để đứng lên. Nhưng
bà cụ không chịu như con chó già bám lấy cái giường trên đó người chủ nằm hấp hối. Bernard đặt cây đèn xuống nền gạch, hét vào tai bà cụ rằng Thérèse đã
khá lắm, nhưng nàng muốn
ngồi một mình trong chốc lát, trước khi đi ngủ:
“Bà cũng biết đó là một cái tật của cô ấy! ”
Phải
rồi, bà cô cũng biết thế: không may nhất cho bà những khi bước vào phòng Thérèse
trong lúc cô cháu gái muốn có một mình. Nhiều lần bà cụ mới hé cánh cửa đã cảm thấy mình vào phá rối.
Bà cụ cố gắng đứng lên, rồi vịn tay Bernard đi tới căn phòng của bà ở bên trên phòng khách rộng.
Bernard cũng bước theo vào, cẩn
thận châm ngọn nến trên bàn, rồi đi
ra, sau khi đã hôn bà cụ lên trán. Bà cô không rời mắt hắn. Những gì bà cụ không
khám phá ra được
trên gương mặt những người mà bà không nghe tiếng nói? Bà cụ
chờ Bernard đủ thì giờ trở về phòng, rồi nhẹ nhàng mở cánh cửa... nhưng Bernard
vẫn đứng ở đầu cầu thang, tựa lưng trên tay thang: hắn đang vấn một điếu thuốc;
bà cụ vội vã quay vào, hai chân run run, thở hào hển đến độ không còn sức để cởi
áo. Bà cụ nằm dài trên giường,
hai mắt thao láo.
Chương X
Dưới phòng khách, Thérèse
ngồi trong bóng tối. Những đầu củi còn
cháy âm ỉ. Nàng không nhúc nhích. Từ đáy sâu trí nhớ của nàng trồi lên, bây giờ
đã muộn quá rồi, những đoạn vụn của bài thú tội sắp đặt
trong lúc đi đường; nhưng tại sao lại tự trách đã không đưa ra? Thật tình,
câu chuyện sắp đặt gãy gọn quá vẫn
không chút liên lạc với thực tế. Sự quan trọng mà nàng thích gán cho những lời biện thuyết của anh chàng Azévédo thật là cả một sự ngu ngốc! Làm như chuyện đó chẳng đáng kể một chút
nào! Không, không; nàng đã tuân theo một luật lệ sâu kín, một luật lệ khắc nghiệt;
nàng không tàn hại gia đình này, vậy chính nàng sẽ bị tàn hại; họ có lý khi coi
nàng như một con quỷ,
nhưng nàng cũng thấy họ là lũ quỷ. Không
để lộ một chút gì ra bên ngoài, họ sẽ dùng
một phương pháp từ tốn để tàn phá nàng.
“Từ nay,
guồng máy gia đình dũng mãnh sẽ
được dựng lên để hại ta – chỉ vì ta không cho nó tắc, hay không kịp thời rút ra
khỏi. Chẳng cần phải tìm lý do nào
khác ngoài lý do “họ là họ mà ta là ta…” Mang mặt nạ, tìm cách giữ lấy bề ngoài, giả dối, sự cố gắng mà ta
đeo đẳng được gần hai năm, ta cho rằng nhiều người khác ( những đồng loại của ta ) có
thể kiên gan kéo tới chết, họ được cứu thoát có lẽ nhờ đã quen, bị thói quen làm cho mê đi, trở nên ngu độn,
say ngủ trong lòng gia đình bao dung và quyền uy. Nhưng ta, nhưng ta, nhưng
ta...”
Nàng đứng lên mở cánh cửa sổ, cảm thấy nỗi lạnh
lúc hừng đông. Tại sao không trốn đi? Chỉ cần bước qua khung cửa sổ này.
Họ sẽ đuổi theo nàng hay không? Họ có đưa nàng nộp cho tòa án
một lần nữa không? Dù sao đó
cũng là một hy vọng nên nắm lấy. Ráng chịu
hết, còn hơn là chết lần chết
mòn ở đây. Thérèse đã kéo lại bắc gần cửa sổ một
chiếc ghế dựa. Nhưng nàng không có tiền; bao nhiêu ngàn gốc thông của nàng cũng
vô ích: không có sự trung gian của Bernard, nàng không thể lấy được một xu. Cũng
đành đi sâu vào trong truông, như hồi xưa Daguerre, tên sát nhân bị rượt bắt mà Thérèse còn
nhỏ thấy thương hại quá ( nàng còn nhớ những hiến binh được Balionte rót rượu chát cho uống ở dưới
bếp căn nhà Argelouse ) - chính
chó nhà Desqueyroux đã tìm
ra chỗ người khốn nạn đó trốn. Người ta lượm được y gần chết đói trong bãi hoang. Thérèse
trông thấy y bị trói
vào một xe rơm. Người ta kể lại y chết trên tàu trước khi được đưa
tới Cayenne. Một chuyến tàu... tù đày... Liệu bọn họ có dám tố cáo nàng như họ nói? Bằng
chứng mà Bernard bảo rằng hiện nắm giữ... có lẽ hắn nói láo; trừ khi hắn đã khám
phá thấy, trong túi cái áo mưa cũ, gói độc dược…
Thérèse sẽ biết rõ. Nàng lần mò bước lên thang. Lên cao nàng càng thấy rõ hơn
vì hừng đông từ trên cao đã chiếu sáng những ô kính. Đây là đầu cầu thang từng gác xép, cái tủ trong đó treo những quần áo cũ- những quần áo không bao giờ đem cho vì còn
dùng mặc đi săn. Cái áo mưa đã
bạc màu có một cái túi rất sâu: bà cô Clara, hồi bà cũng tới một cái chòi trơ trọi rình bắn chim cu, vẫn bỏ trong
đó chiếc áo lạnh.
Thérèse thò tay
trong túi, lôi
ra một gói nhỏ có gắn xi.
Chloroforme: 30 gram.
Aconitine:
20 viên.
Digitaline
nước: 20 gram.
Nàng đọc lại những chữ, những con số đó. Chết.
Bao giờ nàng cũng kinh sợ cái chết.
Cần nhất là đừng nhìn ngay cái chết - chỉ trù liệu những cử chỉ cần thiết, rót nước, hòa bột,
uống một hơi, nằm trên giường, nhắm mắt lại. Đừng tìm cách nhìn xa hơn một chút nào. Tại sao lại e sợ giấc ngủ đó hơn mọi giấc ngủ khác?
Nếu nàng rét run, đó là bởi lúc tảng sáng trời lạnh. Nàng
đi xuống, ngừng lại trước phòng nơi Marie ngủ. Chị ở ngáy như một con vật gầm gừ. Thérèse đẩy
cánh cửa. Cửa sổ lọt qua chút ánh sàng buổi sớm mai. Chiếc giường sắt nhỏ trắng
trong bóng tối. Hai nắm tay nhỏ xíu đặt trên tấm mền. Chiếc gối vùi một bán diện còn chưa rõ nét. Thérèse nhận ra cái tai quá to: tai của nàng. Mọi người có lý: đó là một đối ảnh của nàng, đang hôn mê,
say ngủ. “Ta
ra đi - nhưng cái phần kia của ta vẫn còn và cả một định mệnh phải theo cho trọn,
không xao lãng một
chút gì.” Khuynh hướng, thị dục, máu huyết, những luật lệ tất nhiên. Thérèse có
đọc thấy chuyện những người thất vọng kéo
theo cả con vào cõi chết: những người Iương thiện bỏ rơi tờ báo
xuống: “Làm
sao có thể có những chuyện như thế nhỉ?” Bởi vì nàng là một con quỷ cho nên Thérèse cảm
thấy sâu sắc rằng có thể có, dễ dàng lắm... Nàng quỳ gối, hôn nhẹ một bàn tay bé nhỏ bỏ thõng; nàng ngạc nhiên thấy từ trong cõi sâu thẳm của con người nàng có cái gì trỗi dậy, bốc lên
mắt, làm nóng bỏng hai má:
vài giọi lệ thảm hại, nàng có khóc bao giờ đâu!
Thérèse đứng
lên, nhìn thêm đứa nhỏ, rồi về phòng mình, rót đầy một ly nước, bóc lớp xi gắn,
lưỡng lự giữa ba hộp thuốc độc.
Khung cửa sổ bỏ ngỏ, tiếng gà gáy như xé màn sương mà rừng thông níu lại những mảnh sáng
đục. Đồng quê tràn đầy nắng sớm. Làm sao từ bỏ đuợc bấy nhiêu ánh sáng? Chết là
cái gì? Có ai biết thế nào là
chết đâu. Thérèse rất e ngại nơi hư vô. Thérèse
không nhất quyết tin rằng nơi đó vắng bóng người: Thérèse giận mình
tại sao hãi sợ
đến thế. Nàng không ngần ngại khi đẩy người khác vào cõi hư
vô, nay chính nàng lại chùn chân.
Sự hèn nhát đã hạ giá nàng xuống. Nếu quả có cái Đấng ấy ( nàng nhớ lại, trong
khoảnh khắc, bữa Thánh Lễ trời oi nồng, người đàn ông trơ trọi như bị đè nặng dưới
tấm áo lễ vàng ối, và cái vật
mà hắn nâng hai tay, và cặp môi mấp máy, và cái vẻ mặt đau khổ ); nếu Đấng ấy có,
xin hãy đẩy bàn tay tội lỗi ra trước
khi quá muộn - và nếu Đấng ấy
muốn rằng một linh hồn u tối, khốn khổ phải qua cái cầu đó, ít nhất xin Đấng ấy hãy đón nhận với chút tình con quỷ mà Đấng ấy đã tạo ra. Thérèse đổ
vào ly chất chloroforme, mà tên gọi quen thuộc không làm cho nàng sợ hãi vì nó chỉ gợi những hình ảnh của giấc ngủ. Hãy mau lên! Cả nhà đã trở dậy: Balionte vừa mở những cánh cửa sổ bên
phòng bà cô Clara. Cái bà nghễnh ngãng
la gì vậy? Theo lệ, chị ở chỉ
cần mấp máy môi là bà cụ đã hiểu. Tiếng người rảo bước, Thérèse chỉ kịp
lấy tấm khăn che vội
trên bàn giấu mấy món độc dược.
Balionte
vào không gõ cửa:
“ Mam'selle chết rồi! Cháu thấy Mam'selle chết trên giường, còn bận nguyên quần áo. Người đã lạnh rồi.”
Dù sao
người ta cũng đặt trong tay con người vô đạo một chuỗi hạt, và cây thánh giá trên ngực. Bọn tá điền tới, quỳ gối, rồi đi ra, không quên
nhìn mặt Thérèse đứng ở đầu giường: (“Biết đâu không chính nó làm cú này nữa?”)
Bernard đi Saint-Clair báo
tin cho gia đình và lo toan mọi việc. Ý hẳn hắn đã nghĩ biến cố đến đúng lúc, để
đánh lạc dư luận. Thérèse nhìn cái xác, cái xác già nua trung thành
nằm xuống dưới chân nàng
vừa lúc nàng sắp vào cõi chết. Vô tình hay cố ý. Nếu ai cho rằng có
một ý lực đặc biệt, nàng sẽ nhún vai. Mọi người nói với nhau: “Thấy chưa? Nó không
thèm giả vờ khóc nữa!” Thérèse nói thầm trong bụng với người đã chết: sống,
nhưng khác nào một xác chết trong tay những người thù ghét mình.
Đừng tìm cách
nhìn xa hơn nữa.
Thérèse đi đưa ma đúng theo địa vị cháu ruột. Chủ nhật sau
đó, nàng bước vào nhà thờ bên cạnh Bernard, đáng lẽ theo thói quen đi vào lối bên, hắn cố ý đi thẳng từ cửa vào. Thérèse chỉ lật tấm màn tang lên khi đã ngồi yên
giữa bà De la Trave và chồng
nàng. Một cây cột che lấp nàng
với đám đông, trước mặt nàng là nơi hát lễ. Bị bủa vây khắp phía: bên sau là đám
đông, Bernard ở bên phải, bà De la
Trave ở
bên trái, chỉ còn
phía trái đó là ngả thoát, khác nào cánh
cửa nơi đấu trường cho con bò ra
khỏi đêm tối: khoảng trống đó, nơi mà, giữa hai chú bé, một người đàn ông hóa trang đang đứng, miệng
lằm bằm, hai cánh tay hơi dang ra.
Chương XI
Buổi tối Bernard và Thérèse
trở về, trong căn nhà Argelouse của gia đình Desqueyroux gần như bỏ không từ mấy năm.
Lò sưởi khói um, cửa sổ
đóng không khít, và gió lọt qua bên dưới những cánh cửa ra vào bị chuột gặm. Nhưng
năm đó mùa
thu đẹp quá khiến ban đầu Thérèse
không thấy khổ vì những sự bất tiện,
Bernard mê mải săn cho tới tối. Vừa về tới nhà, hắn đã ngồi vào bàn dưới bếp ăn
với vợ chồng Balion: Thérèse nghe tiếng nĩa, những giọng nói đều đều.
Tháng mười trời mau tối.
Mấy cuốn sách đưa từ nhà bên sang nàng đọc đã chán. Bernard không trả lời điều
nàng yêu cầu gửi mua một số sách ở thư quán quen ở Bordeaux; hắn chỉ cho phép Thérèse mua số thuốc lá dự trữ. Cời than ư... khói đặc và bị nghẽn làm cay mắt, khản cả cổ họng đã
bị thuốc lá làm đau. Balionte vừa đem những đồ thừa của bữa
ăn vội ra là Thérèse đã tắt đèn, đi nằm. Nàng cứ nằm đó trong
bao nhiêu giờ mà không được giấc ngủ giải thoát cho! Sự phẳng lặng ở Argelouse
không cho nàng ngủ: nàng thích những đêm có
gió - tiếng than vô tận của những ngọn cây chứa đựng chút êm dịu của tình người.
Thérèse thả mình theo lời ru đó. Những đêm xao động
vào mùa ru nàng dễ ngủ hơn những đêm
phẳng lặng. Những buổi tối dù dài
dặc, bao giờ nàng cũng trở về trước hoàng hôn - có bà mẹ trông thấy nàng vội kéo tay đứa bé giật mạnh vào bên trong một nhà tá điền - hoặc một người chăn dê, mà nàng biết tên, không đáp lại lời chào của
nàng. Chà! sung sướng làm sao nếu được chìm lẫn, chết ngộp, trong lòng sâu của
một thành phố đông đúc! Ở Argelouse
không một chú chăn chiên nào không biết chuyện nàng (cái chết của bà cô Clara cũng bị gán cho nàng).
Nàng không dám bước qua ngưỡng cửa nào; ra ngoài, nàng đi bằng cửa ngách, tránh
đi ngang nhà mọi người, chỉ một tiếng xe bò cũng đủ cho nàng rẽ ngoắt vào một con đường ngang. Nàng bước vội, tim xao xuyến
như con mồi sợ
bị săn bắt, nằm chúi dưới bãi chờ cho chiếc xe máy vượt qua.
Chủ nhật đi xem lễ ở Saint-Clair, nàng không thấy hoảng hốt như
vậy và hưởng được một lúc nghỉ ngơi. Dư luận ở Saint-Clair có hảo ý với nàng hơn. Nàng đâu
có biết cha nàng, gia đình De la Trave đã mô tả nàng như một nạn nhân vô tội, bị
một cú muốn chết: “Chúng
tôi sợ con bé đáng
thương ấy không sao hồi phục được; cháu
không muốn gặp một ai, bác sĩ khuyên không nên làm trái ý cháu. Bernard săn sóc
cháu lắm, nhưng tinh thần đã bị kinh động mạnh...! ”
Đêm tháng mười cuối cùng,
một trận gió hung dữ từ
Đại Tây Dương thổi vào, làm náo
động những ngọn cây, Thérèse, nửa thức nửa ngủ, lắng nghe tiếng vọng của
Đại Dương. Nhưng sáng ra, không phải vẫn tiếng than van đó đánh thức nàng. Thérèse đẩy
cánh cửa sổ: căn phòng vẫn tối om; mưa
nho nhỏ, dầy hạt, chảy trên mái ngói dẫy nhà dưới, trên những chùm lá còn
xum xuê của những ngọn sồi. Bữa đó Bernard không ra ngoài. Thérèse châm
thuốc, rồi liệng điếu thuốc, đi ra ngoài hành lang, nàng nghe tiếng chồng đi hết
phòng nọ đến phòng kia ở tầng dưới; mùi
ống điếu len lỏi lên tới phòng nàng; át hẳn mùi thuốc thơm của nàng, Thérèse
nhận ra cái mùi cuộc đời
xưa kia của nàng. Ngày đầu tiên trời xấu. Nàng còn phải sống bao nhiêu ngày như
vậy nữa, bên lò sưởi
tàn? Trong góc, khí ẩm làm bong lớp giấy dán. Trên tường, vẫn còn vết những bức
chân dung xưa mà Bernard đã gỡ xuống đem treo nơi phòng khách ở Saint-Clair – những cây đinh rỉ không còn
được treo một vật gì hết. Trên mặt lò sưởi,
trong cái khung ba mảnh bằng đồi-mồi giả những bức hình mờ nhạt, tưởng như những
người chết trong ảnh đã chết
thêm một lần nữa: cha
của
Bernard, bà nội hắn, và hắn mái tóc hớt theo kiểu “con của Edouard” Còn cả một ngày hôm nay phải sống
trong gian phòng này, rồi còn
những tuần, những tháng nữa...
Tối đến, Thérèse
không sao chịu nỗi, nhè nhẹ mở
cửa, đi xuống, vào trong bếp. Nàng thấy Bernard ngồi trên chiếc ghế thấp, trước
lò lửa, chợt hắn đứng lên. Balion ngừng tay lau súng;
Balion đánh rơi chiếc áo
đang đan. Cả ba người cùng
nhìn nàng với một vẻ khiến nàng phải hỏi:
“Tôi làm các người sợ hay sao?”
“ Cô
bị cấm không được vào bếp. Cô không biết ư?”
Nàng
không đáp, lùi ra
cửa. Bernard gọi nàng
lại: “Nhân
gặp cô... tôi nói để cô biết sự có mặt của tôi ở đây không cần thiết nữa. Chúng
tôi đã gây được ở Saint-Clair một dư
luận rất cảm tình; mọi người tin rằng, hay làm bộ tin rằng cô bị loạn thần
kinh. Ai nấy đều nghĩ cô thích sống một mình ở đây và tôi thường về thăm cô. Từ nay tôi tha cho cô khỏi phải đi xem lễ nữa...”
Nàng lắp bắp rằng “cứ đi xem lễ nàng không lấy làm phiền”. Hắn đáp không phải nàng phiền
hay vui là chuyện quan trọng . Kết quả mong
muốn đã đạt:
“Với
lại, đối với cô đi
xem lễ có nghĩa gì...” Nàng hé miệng,
tưởng sắp nói, nhưng lại im. Hắn nhấn mạnh rằng nàng không được có một lời, một
cử chỉ nào làm hỏng
một kết quả tốt may mắn, bất ngờ
như vậy. Nàng hỏi thăm Marie có khỏe không? Hắn đáp
rằng khỏe, và tới mai con bé sẽ cùng
với Anne và bà
De la Trave đi Beaulieu. Hắn cũng sẽ tới ở đó ít tuần:
nhiều nhất là hai tháng. Hắn mở cửa, lùi
lại nhường lối cho Thérèse.
Tảng sáng hôm sau, Thérèse
nghe tiếng Balion thắng xe ngựa. Lại tiếng Bernard, tiếng ngựa hí, tiếng xe lọc
cọc xa dần. Sau đó trời lại mưa trên mái ngói, trên những khung kính mờ, trên cánh
đồng hoang vắng, trên một trăm cây số
những truông và vũng lầy, trên những đồi cát
gần bờ biển, trên Đại dương.
Thérèse châm điếu thuốc mới vào điếu đã hút hết.
Khoảng bốn giờ, nàng khoác một chiếc áo tơi, đi ra ngoài mưa. Nàng sợ đêm tối,
trở về phòng. Lò sưởi
đã tắt, nàng thấy lạnh
run nên đi nằm. Bây giờ, Balion đưa lên cho nàng một dĩa trứng tráng với jambon
(thịt nguội), nàng từ chối không ăn; cái vị mỡ béo ăn mãi
nàng thấy. ớn! Bao giờ cũng chỉ có thịt ướp hay jambon. Baliont bảo rằng không có món
chi khác hơn để dọn: ông chủ Bernard cấm không cho làm gà. Chị ở phàn nàn Thérèse bắt
chị ấy lên
xuống vô ích (chị ở đau tim, chân bị thũng). Hầu như thế này đã nặng nhọc quá; chị ấy chịu làm là vì ông chủ Bernard.
Đêm đó Thérèse sốt
nóng; đầu óc sáng suốt lạ lùng của
nàng tạo nên cả một đời sống ở Paris:
nàng
nhớ lại tiệm ăn ở Rừng nơi mà nàng đã tới, không phải với Bernard, với Jean Azévédo
và
những thiếu phụ trẻ tuổi. Nàng để hộp đựng thuốc lá bằng đồi mồi lên bàn, châm một điếu Ápđula. Nàng
nói chuyện, giải thích tâm sự của nàng, giàn nhạc chơi nhè nhẹ. Nàng làm vui cả một đám người chăm chú, nhưng không chút nào ngạc nhiên.
Một thiếu phụ nói: “Cũng
như tôi... chính
tôi cũng cảm thấy như thế.”
Một nhà văn nói riêng
với nàng: “Chị phải
viết ra tất cả những gì ở trong tâm hồn chị. Chúng tôi sẽ in tập nhật ký của một
người đàn bà hôm nay đó trong nguyệt san của chúng tôi.” Một chàng trai đau khổ vì nàng
đưa nàng về bằng xe hơi của hắn.
Hai người đi ngược lại trên đại lộ đưa tới Rừng; nàng không thấy bối rối mà thích
thú cái thân thể xao xuyến ngồi bên tay trái nàng. “Không, đêm nay, không. Nàng nói vậy. Tối nay
tôi đi ăn với một cô bạn.”
- Thế
tối mai?
- Cũng
không. – Không tối nào bà rảnh hay sao? – Gần như không... có thể nói là gần như
không tối nào...»
Một
người đã bước vào cuộc đời
nàng, nhờ đó tất cả những gì đối với nàng đều thấy vô nghĩa; một người mà không
ai trong chỗ bạn hữu có quen
biết;
một nhân vật rất tầm thường, rất ít ai biết;
nhưng toàn thể cuộc đời của
Thérèse chạy quanh vầng mặt trời chỉ riêng mắt nàng nhìn thấy, và riêng xác
thịt nàng biết vị ấm nóng. Paris xào xạc như gió hú trong ngọn thông.
Nàng trở dậy, đi chân không; mở cánh cửa sổ; bóng tối không
lạnh; nhưng làm sao tưởng tượng được rằng có ngày sẽ không mưa nữa? Sẽ mưa
cho tới ngày tận thế. Nếu nàng có tiền, nàng sẽ trốn đi Paris, tới thẳng nhà Jean Azévédo,
thổ lộ cho y biết hết; y sẽ có thể kiếm việc làm cho nàng.
Là một người đàn bà độc thân ở Paris,
tự
kiếm sống, không lệ thuộc vào một ai... Không có gia đình! Giao phó riêng cho
trái tim việc lựa chọn
những người thân - không phải do huyết thống, mà do tinh thần, và cũng do xác
thịt nữa; khám phá những
người thật sự bà con, dù hiếm, dù tản
mác đến đâu. Rồi nàng thiếp ngủ, cửa sổ bỏ ngỏ. Rạng đông lạnh và ẩm đánh thức
nàng dậy: răng nàng đánh lập cập, nàng không đủ can đảm trở dậy đóng cửa - không
thể đưa tay ra kéo mền.
Hôm đó nàng không trở dậy, cũng không
rửa mặt. Nàng ăn mấy miếng thịt ướp và uống
cà phê để có thể hút thuốc ( bụng đói, dạ dày của nàng không thể chịu nổi thuốc
lá nữa ). Nàng cố gắng tìm
lại những hình ảnh trong đêm; thật ra không có tiếng động nào hơn ở khắp vùng
Argelouse, buổi chiều cũng
không kém tối
tăm như ban đêm. Vào những ngày ngắn nhất năm đó, mưa dày dặc làm cho thời gian
trở nên đồng nhất, trộn lẫn giờ giấc; hoàng hôn này tiếp nối với hoàng hôn kia
trong một niềm phẳng lặng không thay đổi, Còn Thérèse
không buồn ngủ và những giấc mơ của nàng trở nên rõ rệt hơn; nàng tìm tôi có phương pháp trong dĩ vãng những khuôn mặt đã quên, những cái miệng mà nàng yêu từ xa,
những thân thể không phân biệt mà những gặp gỡ bất ngờ, những tình cờ đêm hôm đã ráp lại gần
thân thể ngây thơ của nàng. Nàng cấu thành một hạnh phúc, bày ra một nỗi
vui, tạo nên bằng từng mảnh, một mối tình không thể có.
“Nó không ra khỏi giường nữa, bỏ cả thịt ướp với bánh mì. Nhưng tôi đoán với mình là rượu,
nó uống cạn cả chai. Con đó cho bao nhiêu uống hết bấy nhiêu. Thế rồi nó còn làm
cháy cả khăn trải giường vì thuốc lá. Nó đến đốt cháy cả nhà này. Hút thuốc nhiều
đến nỗi vàng cả ngón tay, móng tay như đem nhúng vào cúc khoa vậy: thế có khổ hay không! nhưng tấm drap dệt tại nhà này... Đợi đấy tôi năng thay
drap cho nó!”
Chị ở còn nói không phải chị từ chối không quét dọn hay không làm giường. Nhưng chỉ tại con “chảy
thây” đó không chịu ra khỏi giường.
Baliont chẳng cần phải nhọc công xách những thùng nước nóng lên mãi: tối đến chị ta vẫn thấy ngoài cửa phòng y nguyên như chị đã để đó ban sáng.
Tư tưởng của Thérèse tách
rời khỏi tấm thân xa lạ mà nàng làm sống dậy vì thích thú, nàng thấy chán mối hạnh
phúc đó; chán có
sự sướng khoái tưởng tượng - nàng tạo một sự đào thoát khác. Mọi người quỳ gối chung quanh giường bệnh của nàng.
Một đứa trẻ ở Argelouse (một trong đám những đứa thấy nàng thì bỏ chạy) gần hấp hối được đem tới phòng nàng; nàng đặt lên người
nó bàn tay vàng những tinh nhựa thuốc lá, thế là thằng bé đứng dậy khỏi hẳn. Nàng
tạo ra nhiều giấc mơ khác tầm thường hơn: nàng sửa soạn một căn nhà trên bãi biển, tưởng tượng ra trong trí thửa vườn, nơi
ngoài hiên, sắp đặt các phòng, chọn từng món đồ gỗ, tìm chỗ kê những đồ mà nàng
sẵn có ở Saint-Clair, cãi lộn với chính mình về việc chọn kiểu vải. Rồi cả khung cảnh tan rã, trở thành Iu mờ, chỉ còn lại một giàn hoa, một chiếc ghế trước
bãi biển. Thérèse
ngồi đó, ngả đầu trên một bờ vai, đứng
dậy khi nghe tiếng chuông gọi về ăn, bước vào dưới giàn hoa tối, người đi bên nàng bỗng hai
tay ôm lấy nàng, kéo nàng
lại gần. Nàng nghĩ: một cái hôn có thể làm thời gian ngừng lại; nàng tưởng tượng
trong khi yêu có những giây phút vô cùng.
Nàng còn trông thấy ngôi nhà sơn trắng, cái giếng nước; một cái bơm nước kêu cót
két; những bông hướng dương được
tưới nước làm thơm phức cả sân; bữa tối sẽ là một dịp nghỉ ngơi trước hạnh phúc
của ban tối, ban đêm, thứ hạnh phúc không thể nào ngó thẳng vào được, vì nó vượt
cao quá mãnh lực của tim ta: thành ra tình yêu mà Thérèse hằng thiếu thốn hơn bất kỳ ai, nay nàng cảm
thấy được bao trùm,
thâm nhập. Nàng không nghe tiếng Balionte càu nhàu. Mụ già đó la hét cái gì vậy? La rằng ông chủ Bernard không biết ngày nào
từ miền Nam về, không báo trước:
“Ông
chủ sẽ báo sao khi trông thấy cái phòng như thế này? đúng
là một cái chuồng lợn! Bà chủ
phải trở dậy, tự ý hay phải ép buộc.”
Ngồi trên giường, Thérèse hoảng hốt nhìn hai chân còn trơ
xương, hai bàn chân trông thật vĩ đại.
Balionte trùm lên người cho nàng một cái áo khoác, đẩy nàng xuống một
chiếc ghế bành.. Nàng quơ điếu thuốc ở gần bên nhưng bàn tay rơi vào khoảng trống.
Ánh nắng lạnh lẽo tràn vào cánh
cửa sổ bỏ ngỏ. Balionte lăng
xăng. Tay cầm cái chổi, thở hổn hển, lằm bằm chửi rủa - thế mà
mọi người vẫn bảo Balionte tốt bụng
lắm, trong nhà thường kể chuyện cứ mỗi dịp lễ Giáng Sinh mụ lại khóc khi người ta làm thịt con lợn mụ vừa nuôi béo xông. Balionte giận Thérèse vì không thèm trả lời mụ: đối với mụ lặng thinh tức là chửi, là tỏ vẻ khinh bỉ.
Nhưng nói hay không đâu do nơi Thérèse.
Khi nàng cảm thấy trên da thịt sự mát dịu của tấm drap mới thay, nàng tưởng là
đã nói cám ơn; thật ra không
một tiếng lọt khỏi môi nàng.
Trước khi đi ra Balionte nói vào mặt nàng: “Lần này thì bà đừng làm cháy nửa nhé!“ Thérèse sợ
chị ở dọn mất mớ thuốc lá của
nàng, đưa tay ra phía bàn; không thấy còn thuốc hút nữa. Làm sao sống được nếu
không có thuốc hút? Ngón tay nàng cần phải luôn luôn đụng vào cái món nho nhỏ, khô và nóng đó. Rồi nàng lại cần phải được ngửi thấy nó hoài và được thấy
gian phòng đầy áng sương mà miệng nàng đã hít vào và thở ra đó. Mãi tới tối Balionte mới trở lên: cả một buổi chiều không có thuốc hút! Nàng nhắm mắt, những ngón tay vàng khè của nàng vẫn phác cử chỉ cầm điếu thuốc.
Bảy giờ Balionte vào với một ngọn nến, đặt trên
bàn một cái khay: có sữa, cà phê, một mẩu bánh mì. “Thế bà có cần gì nữa không?” Chị
ở hóm hỉnh chờ Thérèse đòi thuốc lá của nàng; nhưng Thérèse
không quay mặt lại, khuôn mặt dán vào vách tường.
Có lẽ
Balionte đã sơ ý không đóng chặt cửa sổ:một cơn
gió đẩy toang cửa, khí lạnh ban đêm tràn đầy căn phòng. Thérèse
thấy không đủ can đảm hất tấm mềm ra để đứng dậy, đi chân không ra tới khung cửa sổ. Nàng thu mình
cuộn tròn, mền kéo lên kín mắt, nàng nằm im lặng, chỉ nhận thấy trên mí mắt, trên trán
luồng hơi lạnh buốt. Tiếng rì rào mênh mông cũa rừng thông tràn ngập Argelouse
như sóng Đại Dương đó, vẫn còn sự phẳng lặng của Argelouse. Thérèse
nghĩ nếu thích đau khổ nàng đã chẳng trùm
khăn kín mít. Nàng thử kéo bớt
mền, nhưng chỉ chịu được có vài giây cái lạnh bên ngoài. Rồi nàng rán chịu lạnh
thêm được lâu hơn, như là một trò chơi.Không
hẳn cho một ý chí rõ rệt, nỗi đau của nàng
trở thành sự quan tâm và – biết đâu? – lẽ sống của nàng ở đời.
Chương XII
“ Có thư của ông chủ”
Vì Thérèse không cầm phong thư chị ta đưa, Balionte nài: chắc chắn là ông chủ báo ngày về: chị ở cần phải biết để sửa soạn sẵn.
“Hay bà để cháu đọc...”
Thérèse đáp:
“Đọc đi! Đọc đi!” Như mọi lần khác khi có mặt Balionte, nàng quay mặt vô tường. Nhưng,
những lời thư Balionte do
khó nhọc đọc lên đã lôi nàng ra khỏi cơn hôn
mê:
“Tôi sung sướng thấy Balion báo cáo rằng mọi sự đều tốt đẹp ở Argelouse...”
Bernard báo tin sẽ về bằng đường bộ, nhưng còn
tính ghé lại
nhiều tỉnh nên không thể nói rõ ngày về nhất định.
“Chắc
chắn là không quá ngày
20 tháng chạp. Cô đừng lấy làm lạ thấy tôi trở về với Anne và cậu Deguihhem. Họ đã đính hôn ở Beaulieu; nhưng
chưa chính
thức; cậu Deguihhem rất cần
thiết phải gặp cô đã. Vấn đề lễ nghi, cậu ta bảo thế: riêng tôi có cảm tưởng rằng cậu ta muốn
có một ý kiến về chuyện mà cô đã biết. Cô đủ thông minh để qua khỏi cuộc thử thách này. Cô chớ quên rằng hiện cô đang đau,
tinh thần bị tổn thương. Tóm lại, tôi trông cậy nơi cô. Tôi sẽ biết ơn sự cố gắng
của cô để không di hại tới
hạnh phúc của Anne, không làm hỏng sự kết thúc tốt đẹp của dự tính rất mãn nguyện đối với gia đình, về mọi phương
diện - cũng
như tôi sẽ không ngần ngại, nếu cần; bắt cô trả một giá đắt bất kỳ mưu toan phá hoại nào; nhưng tôi tin chắc là không đáng
ngại chuyện đó.”
Đó là một ngày đẹp trời, trong sáng và lạnh.
Thérèse ngoan ngoãn nghe lời Balionte trở dậy và để cho chị ở dắt đi
vài bước trong vườn, nhưng nàng khó nhọc mãi mới ăn hết miếng thịt gà. Còn mười ngày nữa
thì tới bữa 20 tháng chạp. Nếu bà chịu khó vận động một chút là dư sức để thấy
khỏe khoắn ngay.
Chị Balionte nói với chồng:
“Không
thể bảo rằng nó không chịu cố gắng. Nó đã làm hết sức mình. Ông chủ Brenard khéo biết dạy những con chó dữ lắm. Mình biết không,
một khi ông chủ đã “tròng vào cổ”? Con đó chẳng
mấy chốc đã phải chịu ép một bề ngay. Nhưng cũng vẫn phải coi chừng...”
Thật vậy, Thérèse đem
hết cố gắng vào việc dứt bỏ cơn mê, dứt bỏ cơn say ngủ và tình trạng trì trệ. Nàng
ép mình phải bước đi, phải ăn uống, và nhất là
trở lại sáng suốt, nhìn bằng con mắt thật những người và vật chung quanh - khác
nào nàng quay về một khu rừng do chính nàng đã gây hỏa hoạn, chính nàng bước chân
lên những tro tàn, chính nàng đi dạo trong đám những gốc thông cháy đen, nàng
thử nói chuyện, mỉm cười
giữa gia đình này - gia đình của nàng.
Ngày 18, lúc ba giờ chiều, trời u ám nhưng
không mưa, Thérèse ngồi trước lò sưởi trong phòng nàng, đầu ngả trên lưng ghế,
nhắm mắt. Tiếng động cơ nổ làm nàng tỉnh giấc. Nàng nhận ra tiếng Bernard ngoài
hành lang; nàng nghe cả tiếng bà De la
Trave nữa.
Khi Balionte, thở hổn hển, đẩy cửa vào không gõ trước, Thérèse đã
đứng lên, ở trước gương. Nàng thoa son lên môi, lên má. Nàng nói; “Ta không nên làm cho cậu bé đó hoảng sợ.”
Nhưng Bernard đã lầm không lên ngay phòng vợ.
Cậu Deguihhem, có hứa
với nhà “không để mắt ở trong túi”, tự nhủ rằng “ít nhất đó cũng là một sự không
sốt sắng nó khiến ta phải suy nghĩ”. Y rời xa Anne một chút, bẻ cổ áo lông lên, nhận xét “không
nên tìm cách sưởi nóng những
phòng khách ở nhà quê như
thế này”. Y hỏi
Bernard: “Bên
dưới không có hầm rượu phải không? Như vậy sàn gỗ dễ mục lắm, nếu không trát một
lớp xi- măng …”
Anne De la Trave mặc một cái áo lạnh bằng lông chuột, đội một chiếc mũ dạ không
có băng lụa hay kết hoa (nhưng bà De la Trave bảo rằng không tô điểm thêm như vậy
mà còn đắt tiền hơn
những mũ ngày xưa có lông chim. Nhưng thật tình dạ đẹp quá! Mua ở tiệm Lailhaca, nhưng kiểu của nhà Reboux). Bà De la Trave hơ giày trước ngọn lửa, gương
mặt vừa cương quyết vừa chảy dài
quay về phía cửa vào. Bà đã
hứa với Bernard sẽ giữ hết sức bình tĩnh. Chẳng hạn bà có dặn cậu con: “Đừng có
bảo má ôm hôn nó nhé. Cậu
không nên đòi hỏi má điều đó. Phải cầm
tay nó mà cũng thấy ghê quá rồi. Cậu thấy không: chỉ có Chúa biết điều nó đã làm là khủng
khiếp như thế nào; ấy thế mà má lại
không lấy đó làm đáng phẫn nộ. Ai cũng biết có những người dám giết người... nhưng
tệ hại là cái lối đạo đức giả của nó! Cái đó
mới ghê gớm! Cậu có
nhớ không: “Mời
má ngồi cái ghế này, mà thấy dễ chịu hơn...”Cậu lại còn nhớ nó ghê sợ thế nào không dám làm cho cậu
kinh động? “Tội
nghiệp anh ấy hãi cái chết quá, đi khám y sĩ là anh ấy bị nguy ngay...”
Trời ạ, khi đó má nào có ngờ; tuy những lời “tội nghiệp anh ấy” từ miệng nó nói ra làm má phải ngạc nhiên...»
Bây
giờ, trong phòng khách ở Argelouse, bà De la Trave chỉ cảm thấy sự ngượng nghịu của mọi người; bà nhìn
đôi mắt sắc của cậu con trai nhà Deguihhem
chú
mục vào Bernard.
“Bernard, cậu thử lên xem Thérèse làm
gì lâu vậy... Không chừng chị ấy mệt quá chăng.»
Anne (thản nhiên, gần như không quan tâm tới những
gì sẽ xảy ra) nhận ra trước tiên bước chân quen thuộc, nói: “Con nghe tiếng chị ấy đi xuống.» Bernard, một tay áp vào tim, đang khó chịu vì tim đập mạnh. Thật
ngu quá sao không về từ hôm
qua để thu xếp trước mọi sự với Thérèse. Thérèse sẽ nói gì đây? Nó đủ can đảm phá hỏng hết mà không làm một việc gì để có thể bị
phiền trách. Sao nó bước xuống thang chậm thế! Mọi người đều đứng dậy, quay mặt về phía cửa mãi sau Thérèse mới
mở ra.
Nhiều năm sau Bernard còn nhớ lại, khi thân
hình bị tàn phá đó, gương mặt trắng bệch có giồi phấn đỏ tiến tới gần, thoạt tiên hắn nghĩ: Tòa Đại Hình. Nhưng không
phải vì tội ác của Thérèse. Trong một giây hắn nhớ lại bức hình có tô
màu của báo Le Petit Parisien, cũng
như nhiều bức khác dùng tô
điểm cho những cầu tiêu vách ván trong vườn ở Argelouse - trong khi ruồi bay vo
vo, bên ngoài ve kêu inh tai giữa một ngày nóng dữ, đôi mắt trẻ thơ của hắn chăm
chú ngắm những nét màu
đỏ và màu lục vẽ hình Người đàn bà bị biệt giam ở Poitiers.
Bây giờ hắn cũng ngắm Thérèse
như vậy, một Thérèse mất máu, da bọc xương, và hắn lường được hết
sự điên rồ của hắn không ngăn hẳn người đàn bà ghê gớm đó ra - khác nào sắp sửa
liệng xuống nước một quả pháo
không biết lúc nào sẽ nổ. Dù muốn
dù không, Thérèse đã
gây nên tấn thảm kịch - còn tệ
hơn thảm kịch: một chuyện vặt hàng ngày; nàng cần phải là phạm nhân hay nạn nhân...
Trong gia đình hồi đó có một luồng dư luận nửa ngạc nhiên, nửa thương hại rất tự
nhiên, khiến cho cậu Deguilhem ngần ngại không dám quyết đoán, không biết tính
sao nữa. Thérèse nói:
“Giản dị quá, trời xấu không cho phép tôi ra ngoài, thành ra tôi ăn mất ngon. Tòi
gần như không ăn uống gì. Gầy bớt vẫn hơn là béo ra... Nhưng quên chưa hỏi chuyện Anne, chị rất sung sướng...”
Nàng
cầm tay Anne (nàng đứng, Anne ngồi). Nàng ngắm Anne. Trên gương mặt tưởng bị tàn phá Anne vẫn
nhận ra khóe nhìn xoi mói xưa kia nàng thấy khó chịu. Nàng còn nhớ Anne hay nói: “Bao giờ thì chị hết nhìn em như vậy! ”
“Cô Anne ạ, chị rất
mừng thấy em có hạnh
phúc.”
Nàng thoáng mỉm cười với “hạnh phúc của Anne”, với cậu Deguilhem- cái trán, bộ râu lính tẩy;
hai vai xuôi, cái áo
đuôi tôm, cặp đùi nây nả bên dưới cái quần có sọc đen và xám (ô kìa! một người đàn ông như mọi người đàn ông khác -
một người chồng).
Rồi nàng lại ngó Anne, nói: “Cô bỏ mũ ra... Chà, thế chị mới nhận ra em đấy.”
Lúc đó Anne thấy gần cái miệng hơi nhăn, đôi
mắt luôn luôn ráo hoảnh, đôi mắt không bao giờ khóc! nhưng Anne không biết Thérèse đang
nghĩ gì. Cậu Deguilhem bảo mùa đông ở thôn quê không ghê gớm cho lắm đối với một người
đàn bà yêu cộng việc nội trợ: “Bao
giờ cũng có bao nhiêu là việc phải làm ở trong nhà.”
“Chị chẳng hỏi thăm gì đến cháu Marie cả?
- Ờ nhỉ...
Cô nói chuyện cháu Marie cho chị nghe...”
Anne trở lại ngờ vực, thù nghịch; bao tháng nay cô ta vẫn nhắc mãi, cùng một
giọng như bà mẹ: “Tôi có thể tha thứ hết, vì dù sao đó cũng là một người bệnh; nhưng cái vẻ thờ
ơ của nó đối với Marie, tôi
không sao chịu nổi. Một người mẹ không nhìn đến con, cho dù ai có đưa ra đủ mọi lý lẽ, tôi vẫn thấy đáng
kinh tởm.”
Thérèse đọc trong óc cô gái: “Nó khinh bỉ ta vì ta không hỏi thăm Marie
ngay. Giải thích làm sao được? Làm sao nó hiểu được rằng cá tính ta tràn ngập trong ta, chiếm lĩnh toàn
thể trong ta. Anne nó chỉ mong có con để vùi mình vào đó, như mẹ nó, như hết thảy mọi bà
mẹ trong đại gia đình. Còn ta bao giờ ta cũng
cần tìm thấy ta; ta cố gắng đuổi theo ta... Hồi nhỏ ở gần ta, Anne đã quên mất tuổi trẻ, Anne sẽ quên những mơn trớn của Jean Azévédo,
liền
sau tiếng la đầu tiên của đứa bé mà con quỷ lùn kia sắp tạo cho nó, không kịp cởi cái áo đuôi tôm. Đàn bà trong đại gia đình ao ước
bỏ mất đời sống riêng tư. Hy sinh toàn vẹn cho dòng giống như vậy đẹp lắm; ta
nhận thấy cái đẹp của sự nén mình,
tự hủy... Nhưng ta… nhưng ta...”
Nàng thử không nghe mọi người nói, thử nghĩ tới Marie, bây giờ con bé chắc
đã biết nói: “Nghe
con bé nói có lẽ cũng thấy vui vui vài giây, nhưng lập tức
sau đó ta sẽ chán ngay, ta sẽ sốt ruột mong chỉ có một mình ta...” Nàng hỏi Anne:
“Marie chắc đã
nói sõi?
- Ai
nói gì nó cũng nói theo ngay. Tức cười lắm. Động nghe tiếng gà gáy hay tiếng còi
xe hơi là nó giơ ngón tay út lên hỏi: “Nghe hông, nghe hông? Con bé ngoan quá! dễ thương quá.”
Thérèse
nghĩ: “Ta
phải nghe xem mọi người nói gì. Trong đầu ta rỗng không; cậu Deguilhem nói gì nhỉ?” Nàng
cố gắng hết sức, để tai nghe.
“Tại ấp của tôi ở Balisac, dân hứng nhựa thông không siêng
năng như dân ở đây: hứng có bốn lần trong khi dân ở Argelouse hứng được tới bảy
hay tám lần.
- Giá nhựa như vậy, sao họ lười thế?
- Thưa,
hồi này một người hứng nhựa thông có thể kiếm một ngày được một trăm quan... Nhưng
xem chừng chúng ta làm mệt bà Desqueyroux
quá...”
Thérèse ngả đầu trên lưng ghế. Mọi người cùng đứng lên. Bernard quyết định không về
Saint-Clair. Cậu Deguilhem nhận cầm lái xe, hôm sau tài xế sẽ đưa xe trở về Argelouse
cùng với hành lý của Bernard.
Thérèse ráng đứng dậy, nhưng bà mẹ chồng ngăn nàng
lại.
Nàng
nhắm mắt, nghe Bernard nói với bà De la
Trave: “Gớm! vợ chồng nhà Balion này, tôi phải vò đầu cho chúng nó một trận... Cho chúng nó biết tay. - Coi chừng
đó, cậu đừng làm gắt quá, đừng
để cho chúng thôi: trước hết chúng biết nhiều chuyện quá! với
lại còn chuyện đất đai, chỉ có Balion là biết rõ hết ranh giới đất
đai nhà ta. ”
Bà De la Trave đáp lại một ý kiến của Bernard mà Thérèse
nghe không ra: “Dù sao cậu cũng nên thận trọng, đừng có tin nó quá, phải coi chừng mọi cử chỉ của nó, đừng để nó một mình vào phòng ăn
hay xuống bếp... thôi, thôi: nó không ngất đi đâu; nó ngủ hay giả vờ ngủ đấy.”
Thérèse mở mắt ra: Bernard đứng trước mặt nàng,
tay hắn cầm một cái ly: “Cô uống đi, rượu chát Tây-ban-nha đấy; tỉnh người lắm.” Và,
bao giờ định làm việc gì là làm ngay; hắn vào bếp, nổi nóng lên. Thérèse
nghe tiếng Balionte nói lắp
bắp bằng thổ ngữ và nghĩ: “Bernard
hắn sợ, rõ rệt quá; sợ
cái gì chứ?”
Hắn trở vào:
“Tôi cho rằng ăn ở phòng ăn cô sẽ thấy ngon miệng
hơn ở trên phòng cô. Tôi đã bảo từ nay sẽ đặt bàn ăn như ngày xưa. ”
Thérèse tìm
lại được Bernard của thời dự thẩm: đó là kẻ đồng minh muốn giúp nàng thoát khỏi
với bất cứ giá nào. Hắn muốn bằng cách nào nàng khỏe lại. Đúng thế, rõ ràng là hắn
sợ. Thérèse ngắm hắn, ngồi trước mặt nàng, đang cời
than, nhưng không đoán ra hình ảnh mà đôi mắt to của hắn đang nhìn theo trên ngọn
lửa; cái hình màu đỏ và màu lục của tờ nhật báo Le Petit Parisien: Người đàn bà
bị biệt giam ở Poitiers.
Mưa như vậy nhưng cát ở Argelouse không làm đọng
một vũng nước. Giữa mùa đông,
chỉ cần nắng độ một giờ là có thể đi giầy vải giẫm lên những đường mòn có nệm
những cọng lá thông,
êm và khô, không hề hấn gì. Bernard suốt ngày đi săn, nhưng tới bữa có về ăn, lo lắng tới Thérèse,
săn sóc nàng như không có chuyện gì xảy ra. Trong mọi tiếp xúc giữa hai người
không có mấy ngượng nghịu. Cứ ba ngày hắn lại bắt nàng phải cân, sau mỗi bữa ăn chỉ được hút hai điếu thuốc
lá. Theo lời khuyên của Bernard, Thérèse đi bộ rất nhiều: “Vận động là món khai vị tốt nhất.”
Nàng không còn sợ Argelouse nữa; nàng tưởng
chừng như những gốc thông rẽ ra, mở một lối, ra dấu cho nàng đi. Một buổi tối
Bernard bảo nàng: “Tôi
yêu cầu cô đợi cho tới xong đám cưới Anne; cần phải cho dân trong vùng nhìn thấy chúng ta một lần nữa, ở bên
nhau; sau đó cô sẽ được tự do.” Trong
đêm đó nàng không sao ngủ được. Một nỗi vui e dè khiến cho nàng không nhắm được mắt. Tảng sáng
nàng nghe thấy bao nhiêu những tiếng gà gáy không phải chúng đối đáp nhau, chúng cùng hát lên một lượt, làm tràn ngập cả trời đất một tiếng ca vang. Bernard sẽ thả nàng ra, như
hồi xưa hắn thả trong truông con heo rừng mà hắn không sao giữ nuôi được. Sau
khi Anne lấy chồng, thây kệ ai muốn nói gì thì nói: Bernard sẽ nhận chìm Thérèse ở
một xó xỉnh nào ở Paris rồi
trốn mất. Hai bên đã thỏa thuận như vậy. Chẳng phải ly hôn hay chính thức ly thân
đối với mọi người sẽ bày ra một lý do sức khỏe chi đó (“cô ta cứ
được đi chơi xa mới thấy khỏe”).Cứ
mỗi dịp lễ Chư Thánh; Bernard sẽ nghiêm
chỉnh giao phần tiền nhựa thông cho nàng.
Bernard không hỏi Thérèse có
dự định gì: thây kệ cô nàng sống chết đâu tùy ý. Hắn nói với mẹ: “ Con chỉ yên tâm khi nào
nó cút đi. -Con những muốn nó lấy lại tên hồi con gái...
Nhưng nếu nó làm bậy thiên hạ cũng vẫn lôi mình ra.” Hắn cả quyết Thérèse chỉ đốc
chứng khi bị gò ép.
Thả tự do không chừng nó sẽ biết điều hơn. Dù sao đó cũng là một dịp thử thách, ông Larroque cũng đồng ý. Tóm lại, tốt hơn
hết là cho Thérèse biết đi; mọi người sẽ mau quên hơn, không ai còn nói đến nó nữa. Điều
quan trọng là bịt miệng hết. Ý định đó một khi mọi người đã có thì không làm
sao cho họ bỏ được; Thérèse cần được thả ra. Họ còn mong mỏi thế nữa!
Thérèse rất thích cái vẻ trơ trọi mà lúc tàn đông
bao trùm lên cảnh vật đã trơ trọi rồi;
tuy nhiên những lá khô trên
các ngọn sồi vẫn cố níu lấy những cành cây như một tấm vải thô. Nàng khám phá ra rằng sự phẳng lặng của Argelouse không còn
nữa. Vào những lúc bình lặng nhất rừng thông than van như người ta thầm khóc, tự
ru ngủ, rồi say yên giấc, những đêm dài chỉ
còn toàn những tiếng thì thầm không ngớt. Trong cuộc đời tương lai của nàng, cuộc
đời không thể tưởng tượng, sẽ có những sớm mai trống trải đến độ không chừng nàng
sẽ nhớ tiếc giờ tỉnh giấc ở Argelouse,
nhớ tiếc tiếng ca vang duy nhất của những con gà vô số. Nàng sẽ hồi tưởng lại,
trong những ngày hè sắp
tới, tiếng ve ban ngày và tiếng dế ban đêm, Paris: không còn những ngọn thông xơ
xác, mà là những con người ghê gớm: đám đông những người sau đám đông những cây.
Hai vợ chồng cùng lấy làm lạ tại sao giữa hai người rất ít ngượng
nghịu như vậy. Thérèse nghĩ mọi người sẽ trở nên dễ chịu ngay khi
ta biết chắc sắp có thể từ biệt họ. Bernard săn sóc tới sức nặng của Thérèse -
và. cả tới những lời nàng nói: nàng nói chuyện trước mặt hắn tự do hơn bao giờ hết: “Ở Paris... khi nào tôi ở Paris...” Nàng sẽ kiếm một phòng trọ, có lẽ sẽ có
nhà riêng. Nàng tính đi học, nghe diễn thuyết, nghe hòa nhạc, “gây lấy trở lại một nền học vấn từ căn bản”. Bernard không thấy
cần phải kiểm soát nàng; và, không chút hậu ý, ăn súp, cạn ly rượu. Bác sĩ Pédemay, đôi khi gặp hai người trên đường đi
Argelouse, nói với vợ: “ Thật
lạ lùng, coi bộ hai người không có
vẻ gì là đóng kịch cả.”
Chương XIII
Một buổi sáng tháng ba trời nóng, khoảng mười
giờ, dòng người đã cuồn cuộn,
nện gót nơi ngoài hiên nhà hàng Café de la
Paix, Bernard và Thérèse đang ngồi. Nàng liệng mẩu thuốc lá rồi,
như những người vùng Lande, lấy chân dí kỹ lưỡng.
“Cô sợ
đốt cháy vỉa hè hay
sao?”
Bernard
cố làm vui. Hắn tự trách sao lại đưa Thérèse tới tận Paris. Có lẽ sau ngày cưới Anne, hắn phải làm như vậy sợ dư luận đàm tiếu
- nhưng thật ra hắn đã chiều ý thiếu phụ. Hắn tự nhủ cô ta có tài gây những hoàn cảnh giả tạo: chừng nào nàng còn ở trong đời hắn, hắn e rằng cần phải hạ mình làm những cử chỉ vô
lý như vậy; ngay với một tâm hồn vững vàng, mực thước như hắn mà con mẹ điên đó còn có vẻ ảnh hưởng
được. Khi sắp chia tay với nàng, hắn không khỏi cảm thấy một nỗi buồn mà không đời nào hắn tin
rằng có: không có gì xa lạ đối
với hắn cho bằng thứ tình cảm loại đó, do kẻ khác gây nên (nhất là do Thérèse... làm sao có thể tưởng tượng như vậy được
). Thành ra hắn sốt ruột muốn mau mau thoát khỏi sự bối rối đó! Hắn chỉ thấy thoải mái khi ngồi trên toa xe lửa
đi về miền Nam. Chiều nay xe hơi sẽ đón hắn ở Langon. Liền sau khi ra khỏi ga, trên đường
đi Villandraut, đã bắt
đầu có thông. Hắn ngắm mặt nghiêng của Thérèse, cặp mắt nàng đôi khi lưu ý tới một khuôn
mặt trong đám đông, nhìn theo cho tới khi biến mất; bất chợt:
“Thérèse... tòi muốn hỏi cô...”
Hắn
nhìn ra chỗ khác, không chịu nổi khóe nhìn của người đàn bà, nói rất nhanh:
“Tôi muốn biết... Có phải vì cô ghét tôi? Hay tại tôi làm cho cô ghê sợ?”
Hắn
nghe những lời của mình,
ngạc nhiên, khó chịu. Thérèse mỉm cười,
rồi nhìn hắn bằng con mắt nghiêm trọng: Mãi
bây giờ Bernard mới hỏi nàng chính cái điều mà nàng cũng nghĩ đến nếu ở địa vị hắn.
Bài thú tội sửa soạn mãi trên
xe ngựa, trên con đường
đi Nizan, rồi
trên toa xe lửa về Saint-Claire, cái đêm
tìm tòi, vụ tìm kiếm công
phu, cố gắng đi ngược tới nguyên nhân của hành vi nàng - mãi tới nay sự theo dõi, khó nhọc ngược lại trong tâm tư có lẽ đã tới
lúc có kết quả. Nàng
không dè đã làm cho Bernard phải xao xuyến. Nàng đã làm cho câu chuyện trở nên
phức tạp; và giờ
đây hắn hỏi nàng như một người không thấy đường, đang lưỡng lự. Vậy ra hắn đã bình
thường hơn, không riết róng nữa. Thérèse gửi trên con người mới ấy một cái nhìn ân
cần, gần như từ ái. Nhưng nàng đáp, giọng đùa cợt:
“Thế anh không biết rằng vì những gốc thông của
anh hay sao? Đúng thế, tôi muốn chiếm một mình những gốc thông của anh.”
Hắn
nhún vai:
“Nếu trước kia có bao giờ tôi tin thế, bây giờ
tôi hết tin rồi. Tại sao cô đã làm chuyện đó? Bây
giờ cô có thể nói cho tôi biết được.”
Nàng
nhìn vào quãng không: trên vỉa hè, bên một dòng bùn và người người tới tấp, lúc sắp nhào vô đó,
vùng vẫy trong đó, hay vui lòng
chịu bị chôn vùi, nàng
nhận thấy một luồng sáng, một ánh bình minh: nàng tưởng tượng một cuộc trở về xứ
bí mật và buồn - cả một
đời đăm chiêu, hướng thiện trong cái phẳng lặng của Argelouse: cuộc phiêu lưu
trong nội tâm, dõi
theo Thượng-Đế... Một người Maroc bán dạo những tấm thảm và những chuỗi hột bằng
thủy tinh tưởng nàng mỉm cười
với y, tiến lại
gần hai người. Nàng nói vẫn cái giọng muốn trêu chọc:
“Tói đã toan trả lời anh: “Tôi không hiểu tại sao tôi làm thế”; nhưng bây
giờ, không chừng tôi đã hiểu, anh có nghĩ như vậy không? Có thể
vì tôi thoáng nhìn thấy trong mắt anh một lối lo ngại, một vẻ tò mò – tóm
lại, một sự bối rối, đó là điều mà tôi vừa khám phá ra trong mắt anh. ”
Hắn
gầm lên, giọng nói nhắc lại với Thérèse thời trăng mật:
“Cho đến phút chót cô vẫn tinh quái như vậy
sao... Cô hãy trả
lời thật đúng đắn: tại sao?”
Nàng
không cười nữa; nàng hỏi lại:
“Bernard ạ, một người đàn ông như anh bao giờ cũng
biết lý do những hành vi của mình, phải không?
- Chắc chắn... có lẽ... ít nhất tôi cũng thấy…
- Tôi
rất muốn không có điều gì phải giấu giếm anh. Nếu anh biết tôi đã hành xác tôi
khổ sở như thế nào để mong hiểu cho rõ...
Nhưng bao nhiêu lý do
mà
tôi có thể đưa ra với anh,
anh hiểu không, hễ tôi vừa nói ra là tôi đã thấy giả dối rồi...”
Bernard
sốt ruột:
“Dù sao
cũng có một ngày cô quyết định…cô đã làm một cử chỉ?
- Có, ngày cháy rừng Mano.”
Hai
người ghé lại
gần, nói nhỏ. Ở góc phố Paris này,
dưới ánh nắng dịu, trong cơn gió quá mát,
nực mùi thuốc lá ngoại quốc
và làm lay động những tấm rèm vàng
và đỏ, Thérèse thấy kỳ lạ khi gợi lại những buổi trưa oi ả,
nền trời đặc những khói, vòm trời đen như bồ hóng, cái mùi thắm thía của những cây đuốc mà những gốc
thông bốc cháy đưa ra - và con tim buồn ngủ của nàng trong đó tội ác đang thành
hình.
“Đầu
đuôi sự tình như thế này: trong phòng ăn, tối như ngày nào cũng vậy lúc giữa trưa; anh nói, cái đầu hơi quay về phía Balion, quên không đem những giọt thuốc
rơi trong ly của anh.”
Thérèse
không nhìn Bernard, chăm
chú không để thiếu một hoàn cảnh nhỏ nào; nhưng nàng nghe hắn cười, thế là nàng
đưa mắt nhìn hắn: Phải, hắn cười cái cười vô duyên của hắn; hắn nói: “Không! cô tưởng tôi là người thế nào!” Hắn không tin lời nàng (thật tình những lời
nàng có đáng tin không?) Hắn cười gằn và nàng nhận ra thứ Bernard tự tin, không để cho ai lừa gạt. Hắn đã vững trở lại rồi; nàng lại
thấy bơ vơ; hắn nhạo:
“Thế là cô nảy ra ý định, bất chợt như vậy, như
có thần linh run rủi?”
Hắn giận mình biết mấy vì đã hỏi chuyện Thérèse!
Thành ra mất hết cái lợi của sự
khinh bỉ mà hắn vẫn trút lên đầu
con mẹ
điên đó: hừ, nó dám ngẩng mặt lên đấy! Tại
sao hắn lại yếu đến độ bỗng chiều theo ý muốn tìm hiểu? Làm
như có cái gì đáng tìm hiểu nơi những con mẹ điên đó! Nhưng hắn đâu nghĩ ra; hắn quên không suy tính trước...
“Bernard ạ, tôi nói với anh như vậy không phải
để cho anh tin rằng tôi oan, trái lại thế!”
Nàng thấy một sự ham thích kỳ lạ muốn buộc
tội mình: cứ lời nàng thì hành động mê ngủ như vậy cần phải trong vòng
bao nhiêu tháng ấp ủ trong tim, nghiền ngẫm những tư tưởng phạm tội. Vả lại,
sau cử chỉ đầu tiên, nàng còn hết sức tỉnh táo, hăng hái tiếp tục ý định! Hết sức
kiên quyết!
“Chỉ những
lúc bàn tay tôi lưỡng lự là tôi mới cảm
thấy tàn ác. Tôi bực mình sao kéo dài mãi
sự đau đớn của anh. Phải đạt
được kết quả mau
chóng! Tôi đã chùn bớt trước một bổn phận xấu xa. Phải, giống
như một bổn phận vậy.
Bernard
ngắt lời nàng:
- Gớm,
nhiều lời quá! Cô hãy
thử nói cho tôi nghe một lần hồi đó cô muốn gì. Tôi thách cô nói được đấy.
- Hồi
đó tôi muốn gì? Nói ra những gì tôi không muốn có lẽ dễ hơn; tôi không muốn
đóng một vai trò, làm
những cử chỉ, nói ra những lời công
thức, tóm lại mỗi lúc phải chối bỏ
một Thérèse mà... Không đâu, Bernard; anh thấy không,
tôi chỉ muốn thành thật; nhưng
không hiểu tại sao những gì tôi nói ra với anh có vẻ giả dối đến thế?
-
Nói nhỏ chứ; ông ngồi trước mặt kia vừa quay
lại.”
Bernard không mong ước chi hơn là mau cho
xong chuyện. Nhưng hắn biết rõ con người điệu hạnh này lắm: y khoái chẻ sợi tóc ra làm tư. Thérèse cũng
hiểu rằng người đàn ông này, vừa gần lại nàng trong phút giây, nay đã lùi xa tít. Nhưng nàng vẫn nài nỉ, cố vận dụng
miệng cười tươi, nặn giọng nói cho ồ ồ, trầm trầm như xưa kia hắn vẫn thích.
“Bernard ạ, nhưng bây giờ tôi cảm thấy rõ rệt rằng thứ Thérèse
theo linh tính dí đầu thuốc lá vì chút
lửa có thể làm bốc cháy một bãi thông
– thứ Thérèse thích tự tay đếm những gốc thông của mình,
thanh toán số nhựa thông của mình; thứ Thérèse lấy làm hân hoan được lấy một Desqueyroux, được giữ một địa vị trong một
gia đình bề thế ở vùng
truông, tóm lại lấy làm
sung sướng được yên vị, như người ta thường nói, thứ Thérèse đó
cũng có thật như thứ Thérèse kia, cũng sống như vậy; không, không, không
có lý do nào để hy sinh Thérèse này
cho Thérèse kia.
-
Kia nào?”
Nàng
không biết trả lời sao, còn hắn nhìn đồng hồ. Nàng nói: “Cũng cần đôi khi tôi trở về, vì công việc...
vì Marie.
-
Công việc gì? Tôi là
người quản
thủ mọi tài sản của hai vợ chồng. Chúng ta không bàn lại những gì đã thỏa thuận
rồi đấy nhé? Chỗ của
cô vẫn dành cho cô trong những dịp nghi lễ trọng đại cần cho người ngoài thấy mặt cả hai chúng ta vì
danh giá của
gia đình, và vì quyền lợi của
Marie. Trong một gia đình lớn như gia đình chúng ta nhờ trời những dịp đám cưới thường không hiếm, cũng như những đám tang! Bắt đầu, tôi sẽ lấy làm ngạc nhiên nếu ông chú Martin còn kéo dài được
tới mùa thu: đó là một dịp cho cô,
nhưng tôi xem ra cô cũng ngán những vụ như thế lắm...”
Một viên cảnh binh cỡi ngựa đưa cái còi lên miệng, mở những cửa kính vô hình, một đoàn
bộ hành vội vã đi qua con đường đen ngòm trước khi làn sóng những taxi bao phủ lên: “Đáng lẽ như Daguerre, một đêm nào đó ta đã phải trốn
về phía truông miền Nam. Đáng lẽ ta phải đi ngang những rừng thông khẳng khiu của
vùng đất cằn cỗi đó - đi cho đến
lúc mệt lả. Ta không thể đủ can đảm vùi
đầu vào một vũng nước (như lão chăn chiên ở Argelouse hồi năm ngoái, vì đứa con dâu không cho lão ăn). Nhưng ta có thể nằm trên bãi cát,
nhắm mắt lại... Đã đành là có đàn quạ, có những đàn kiến chúng không đợi...”
Nàng nhìn dòng người, cái khối sống động sắp táp lấy nàng, xô đẩy,
lôi cuốn nàng đi. Không còn
cách nào khác. Bernard lại
rút đồng hồ ra coi.
“Mười một giờ kém mười lăm: đủ thì giờ ghé qua nhà trọ...
- Đi
đường anh sẽ bị nóng quá.
-
Đêm nay trên xe hơi anh sẽ phải bận áo ấm.»
Nàng tưởng tượng trong đầu con đường mà hắn sẽ đi, tưởng như
gió lạnh phả vào mặt, mùi đồng
lầy trong gió, những mảnh ngo, những vùng
cỏ cháy, khuynh diệp, sương mù. Nàng
nhìn Bernard, nở nụ
cười mà xưa kia các bà ở vùng
truông đã phải nói: “Không
thể bảo rằng cô ta đẹp, nhưng đúng là cái duyên.” Nếu Bernard bảo nàng: “Ta tha thứ cho cô; cô về với tôi...” Nàng sẽ
đứng lên, sẽ đi theo. Nhưng Bernard, sau một lúc bực mình vì thấy mình mủi lòng,
nay chỉ còn thấy ghê tởm những cử chỉ khác thường, những lời nói khác với những
lời quen trao đổi thường nhật. Bernard là người “cùng một
cỡ”, cũng như những xe ngựa của hắn: hắn cần phải có những ổ gà của hắn: ngay chiều nay, khi đã tìm
lại được những ổ gà ấy, trong phòng ăn ở Saint-Clair, hắn sẽ khoan khoái với sự im lặng, bình thản.
“Bernard, sau hết, tôi muốn anh tha thứ cho tôi.”
Nàng nói ra những lời đó một cách nghiêm trọng quá, vô hy vọng - cố gắng cuối cùng để bắt chuyện lại. Nhưng hắn phản đối:
“Chúng
ta không nên nói tới nữa...
- Chắc anh sẽ cảm thấy trống vắng: dù không ở đó tôi vẫn giữ một chỗ tốt cho anh hơn
là tôi chết đi.”
Hắn khẽ nhún vai và gần như vui vẻ yêu cầu nàng “đừng phải bận tâm đối với
hắn”.
“Mỗi
thế hệ Daguerre đều
có một người độc thân! Người đó tất nhiên phải là tôi. Tôi có đủ những đức tính cần thiết (chắc cô không
phản đối tôi?). Tôi tiếc rằng chúng ta chỉ có một đứa con gái; vì dòng họ nhà mình sẽ bị mai một đi.
Thật tình, cho dù có còn
ở với nhau, chúng ta cũng không muốn có con nữa... như vậy, tóm lại, mọi sư đều
êm đẹp cả... Cô khỏi phải phiền; cứ ngồi lại đi.”
Hắn ra dấu cho một chiếc taxi, còn quay lại
nhắc với Thérèse rằng đã trả tiền nhà hàng rồi.
Nàng nhìn rất lâu giọt rượu porto dưới đáy cốc của Bernard; rồi lại nhìn những
người qua đường. Có người như chờ đợi ai, đi đi
lại lại. Một người đàn bà hai lần quay lại, mỉm cười với Thérèse
(một cô thợ hay trá hình
là thợ?). Đó là giờ những tiệm may nghỉ việc. Thérèse
không tính rời khỏi chỗ này! nàng chẳng chán ngán, cũng chẳng buồn khổ.
Nàng quyết định ngay chiều nay chưa đi kiếm Jean Azévédo
–
thở dài giải thoát: nàng không muốn gặp lại y: lại nói chuyện! lại tìm những thể thức ! Nàng hiểu rõ Azévédo;
nhưng những con người mà nàng ao ước được
gần, nàng chưa hiểu rõ! nàng chỉ biết rằng những người đó không đòi hỏi
phải nói. Thérèse không còn hãi sợ cô đơn. Chỉ cần nàng ngồi yên: như thân
xác nàng, nằm trên bãi
hoang ở miền Nam, sẽ kéo tới
những đàn kiến, những con chó, ở đây nàng đã linh cảm thấy quanh mình nàng một
sự xao động thầm kín, một cái xoáy nước. Nàng cảm thấy đói, đứng dậy, nhìn thấy
trong tấm kính tiệm Old England người thiếu phụ là nàng: bộ áo lữ hành bó gọn hợp với nàng lắm. Nhưng nàng còn giữ lại của thời Argelouse một khuôn mặt như tàn héo: đôi
gò má cao quá, cái mũi ngắn. Nàng nghĩ: “Ta không còn ở tuổi nào nữa.” Nàng đi ăn trưa
(như nhiều lần trong giấc mơ) ở đường Hoàng-Gia (rue Royale). Về nhà trọ làm chi vì nàng không thay muốn
thế? Nhờ nửa chai rượu chát vùng Pouilly, nàng cảm thấy một niềm thích thú nóng ấm. Nàng
gọi thuốc lá. Một chàng trai trẻ, từ một bàn bên, đưa ra cho nàng chiếc máy lửa bật sẵn, nàng mỉm cười. Con đường
đi Villandraut, ban đêm, giữa những gốc thông ghê rợn, thế mà vừa một giờ nay nàng ao ước chui vào đó bên cạnh Bernard! Kể gì yêu
xứ này hay xứ khác, những gốc thông hay những rừng phong, Đại Dương hay đồng bằng? Không
có gì làm cho nàng lưu ý ngoài những gì sống, những con người máu thịt. “Không phải ta yêu những thành phố bằng đá, cũng
không những buổi diễn
thuyết, những bảo tàng viện, mà yêu cánh rừng sống động nó xào xạc, nơi những ham muốn cuồng
bạo hơn bất kỳ trận cuồng
phong nào sẽ đào xoáy mãi.
Tiếng rền rĩ của những gốc thông ở Argelouse, ban đêm, làm cho ta xúc cảm vì nghe
như tiếng người.”
Thérèse uống
hơi say và hút đã nhiều. Nàng cười một mình như thánh nhân. Nàng thoa phấn lên,
tô son lên môi rất tỉ mỉ: rồi
ra đường, bước đi lang thang.
THÂN
TRỌNG SƠN
dịch
từ nguyên tác tiếng Pháp
Thérèse
Desqueyroux của François Mauriac.
Nhan
đề bản dịch do người dịch đặt.