TIỂU SỬ
Đã cộng tác với hầu hết
các tạp chí xuất hiện tại Saigon trong thập niên gần đây. Các tác phẩm chính:
Truyện ngắn: Gánh Xiếc, Gìn Vàng Giữ Ngọc.
Hiện là giáo sư trường
Sư Phạm Saigon và đã từng du hqc tại Hoa Kỳ nhiều năm. Chuyến đi xa này đã ảnh
hưởng nhiều tới đời sống viết văn của tác giả.
QUAN NIỆM VỀ TRUYỆN NGẮN
Trong truyện ngắn
không có sự kiện chi tiết tràn bờ, dư thừa. Tất cả đều như những nhát búa đập chính xác lên đầu chiếc cqc
để cqc đóng sâu và chắc xuống
lòng đất. Đôi khi truyện ngắn có
thể khá dài đấy — chừng bốn, năm chục
trang — nhưng đó phải là câu chuyện
kể một hơi, tâm trạng cô
đqng, cốt truyện cô đqng. Những tình tiết thiết yếu, ngắn gqn liên tiếp tới với tác dụng soi sáng và đẩy nhanh, đẩy mạnh tới
đoạn kết. Cái bé nhưng bé hạt tiêu ỏ truyện ngắn là người viết phải luôn luôn có được
cái nhìn thật sắc bén xuyên
thẳng tới lõi sự vật, đạt thấu tới bản thể của
tâm tình. Ở truyện ngắn hễ xuất
quân là phải tốc chiến tốc
thắng. Hoặc thất bại. Như câu nói thường tình “Được ăn cả,
ngã về không”.
Về Truyện Ngắn “CHIẾC CHIẾU HOA CẠP ĐIỀU”
Tôi để nhà xuất bản SÓNG in truyện ngắn “Chiếc Chiếu Hoa Cạp Điều” vì tôi thấy các
bằng hữu cũng như độc giả xa
gần thường thích truyện này.
Chiếc Chiếu Hoa Cạp Điều
Quê
tôi cách Hà Nội chừng 5 cây số. Khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ thì gia
đình tôi tản cư lên Nhã Nam thuộc huyện Yên Thế, Bắc Giang.
Đến
năm 1948, khi cậu tôi từ Vĩnh Yên lên thăm chúng tôi lần đầu thì toàn thể gia
đình tôi ai nấy đã có màu da nửa vàng nửa xám xịt vì sốt rét rừng.
- Anh
chị phải cho các cháu tản cư về mạn dưới như chúng tôi - lời cậu tôi nói với thầy
mẹ tôi - chứ cứ như thế này thì không chết cũng chẳng còn ra hồn người nữa.
Sau
ngót hai năm tản cư gia đình tôi khánh tận rồi. Có lẽ vì nghĩ vậy nên thầy mẹ
tôi tìm cách nói khác:
- Ngày
xưa vùng Yên Thế Thượng này độc thật, nhưng nay vì có nhiều người lên khai phá
nên khí hậu cũng không đáng ngại lắm.
Cậu tôi không chịu:
- Anh
chị về Vĩnh Yên gần chúng tôi cho có anh có em, vừa tránh được nạn sốt rét rừng, vừa có cơ buôn bán khá (dạo đó Vĩnh Yên
còn là cửa ngõ của việc thông thương giữa Liên Khu III với Việt Bắc).
Rồi
cậu tôi về Vĩnh Yên. Hai tháng sau người lại lên, nhất quyết đón gia đình tôi
xuôi, nói là nơi ăn chốn ở đã thu xếp đâu vào đó cả.
Thế
là gia đình tôi xuôi Vĩnh Yên. Còn một mình tôi ở lại Sở Thông tin Liên khu I.
Công tác của tôi là đi tuyên truyền mười điều kháng chiến trong toàn huyện Yên
Thế. Vì lưu động như vậy nên tôi cũng quên đi nỗi buồn gia đình phân cách đôi
nơi. Nỗi buồn đó chỉ đến thắc mắc lòng tôi mỗi khi trở về trụ sở kiểm điểm công
tác. Trụ sở Thông tin ở một làng bên tả ngạn sông Thương,
gần một bến đò đẹp vào bậc nhất Bắc Giang: bến đò Lục Liễu. Để
tăng phần thơ mộng cho cái tên đó tôi vẫn thường dịch nôm là “Bến đò liễu
xanh”.
Thơ
của em tôi tới báo cho hay gia đình đã tới tản cư cùng làng với gia đình cậu mợ
tôi. Làng đó ở ngay bến Rau, bên này là Vĩnh Yên bên kia là Sơn Tây, rất thuận
tiện cho việc buôn bán.
Rủi
thay, thầy mẹ tôi vừa đến Vĩnh Yên thì quân Pháp mở chiến dịch càn quét khắp
vùng Sơn Tây, rồi thiết lập thêm đồn quân dọc theo hữu ngạn sông Hồng từ Sơn
Tây ngược lên đến Việt Trì. Các ngả đường giao thông với Liên khu III đều bị
quân Lê Dương phục kích ráo riết.
Cậu
tôi đã rơi vào ổ phục kích của chúng, dấn vốn khánh tận may thoát được người. Mẹ
tôi phải ngưng chuyện buôn bán.
Nghe
nói làng N.H. bên hữu ngạn sông Đáy gần chân dãy núi Tam Đảo là một làng trù mật,
buôn bán dễ, gia đình tôi bèn thuyên chuyển đến đây theo sáng kiến của mẹ tôi.
Khi tới nơi, mẹ tôi mới thấy rằng mình đã lầm. Trước đấy một năm thì địa điểm
này buôn bán được vì hầu như dân chúng toàn hạt Vĩnh Yên đổ xô về để tránh Pháp
tấn công, nhưng nay tình hình tạm yên ai nấy trở về chốn cũ, địa điểm
N.H.
trở lại vẻ trầm mặc của chốn chuyển tiếp giữa vùng trung du bên dưới với vùng
đèo heo hút gió bên trên.
Vừa lúc đó tôi xin thôi ở Sở Thông tin về.
Mẹ
tôi mừng lắm vì người vẫn thường nói: “Thời loạn lạc gia đình nên gần nhau, nhỡ
có thế nào...” Hình như trong óc người - có thể nói trong óc mỗi người trong gia
đình tôi - đều luôn luôn lo sợ cảnh
một
người bị chết vì bom đạn rồi mất xác vì gia đình không kịp biết để nhìn nhận.
Niềm vui đoàn tụ giúp chúng tôi bớt buồn nản khi thu xếp gồng gánh trở lại huyện
Yên Lạc. Lần này, gia đình tôi không
dám
ở gần bến đò Rau nữa vì sợ phi cơ oanh tạc, mà ở một làng cách huyện Yên Lạc chừng
gần một cây số.
Gia
đình cậu tôi ở ngay làng bên. Lẽ cố nhiên cả hai gia đình chúng tôi cùng nghèo
túng lắm, nghèo túng đến nỗi cậu mợ tôi, thầy mẹ tôi cùng không dám sang thăm
nhà nhau, chỉ chiều chiều ra gặp nhau trên quãng đường đá nối huyện Yên Lạc với
bến đò Rau.
Tôi
gặp lại người yêu cũ từ Phủ Lý (Khu III) chạy lên. Chúng tôi thành vợ chồng,
tuy có ký giấy tờ tại Ủy ban Kháng
chiến Hành chính Huyện - cậu mợ tôi là những người
làm chứng - nhưng đám cưới hoàn toàn
êm ả y như một đám cưới vụng trộm.
Em gái lớn tôi xoay đi buôn gạo, ngày ngày kĩu kịt đi về 20 cây số
kiếm
chút lãi. Ở Yên Thế, tuy bị sốt rét nhưng nhà ở giữa rừng ít lo bị địch tấn công bất ngờ; tuy cũng nghèo túng nhưng còn có đất rộng để tăng gia rau cỏ và nuôi được lợn
gà.
Về
đây những buổi ăn cháo ngô trừ bữa, mẹ tôi thường có ý khép cửa giữa lại.
Em
gái tôi đã phải đi chợ thật xa để đong gạo rẻ mà rồi tính ra lời lãi cũng chẳng
được là bao. Các cụ giải thích hiện tượng kinh tế này bằng câu: “Thóc gạo có
tinh.” Mẹ tôi làm tương, gánh đi các chợ xa bán để kiếm tiền thêm. Vợ tôi tạng
người yếu nhưng khéo tay, không làm được việc nặng, nàng phụ trách những việc
nhẹ như rang đỗ tương, ủ mốc, pha muối vào nước tương...
Dạo
đó trường Luật mở ở gần chợ Me (Vĩnh Yên), tôi có ghi tên theo học hết năm thứ
ba, hy vọng thành tài sẽ ra thẩm phán, đồng lương họa có cao để giúp gia đình.
Vì hoàn cảnh kháng chiến, các giáo sư thường từ nơi xa lại trường sở dạy liền
trong mấy ngày, sau đó sinh viên tìm tài liệu tự nghiên cứu thêm. Có khi thời
gian nghiên cứu lấy dài hơn một tháng mới có giáo sư mới. Tôi triệt để lợi dụng
khoảng cách này để bon về giúp đỡ gia đình những công việc nặng.
Mùa
đông năm đó rét lạ lùng. Gió hun hút giật từng cơn, quết như dao cắt từng mảnh thịt hở, thế mà hôm nào mẹ và em gái tôi cũng
phải
dậy từ bốn giờ rưỡi sáng để sửa soạn gồng gánh ra đi. Quần áo và chăn chiếu của
gia đình tôi thiếu rất nhiều. Thằng em thứ ba của
tôi
có được cái chiếu rách mướp vừa nằm vừa đắp, chân thò ra ngoài thì nó lấy rơm
phủ lên.
“Ấy
cứ thế mà ấm ra phết anh ạ!” - Nó vừa cười khoái chí vừa nói với tôi như vậy.
Các
em trai em gái của tôi đã lớn cả, chúng tôi hầu như thường xuyên thi đua trong
việc nhường nhịn nhau. Mẹ tôi chỉ còn thắc mắc về thằng em út của tôi. Nó mới
lên bảy, còn nhỏ tuổi quá chưa thể
tìm
nguồn vui tinh thần để quên đói rét, nhất là rét. Tương đối với cả nhà nó được
mặc lành nhất. Nó mặc cái áo đỏ chót có những vệt
chữ
nho đen và những đường kim tuyến (nguyên đó là chiếc câu đối người ta phúng bà
tôi hồi chưa kháng chiến). Câu đối đỏ thì may áo, còn nẹp sa-tanh vàng mẹ tôi gạn
may thêm cho nó chiếc áo di-lê.
Chúng
tôi gọi đùa nó là “anh cờ đỏ sao vàng”. Đêm đến rét quá không đủ chăn ấm, nó
thường khóc khậm khạch. Chỉ cần có thêm đôi chiếu nữa thì cả nhà đủ ấm.
“Chiếu cói kỵ gió.” - Mẹ tôi nói thế.
Nhưng
đến ăn còn chẳng đủ làm sao chúng tôi mua được đôi chiếu bây giờ?
Hôm
đó, suốt từ sáng sớm đến trưa, phi cơ bay từng đoàn bắn phá và giội bom liên tiếp xuống các chợ lân cận:
chợ Me, chợ Vàng, chợ An Lạc... Mọi ngày chỉ khoảng bốn giờ chiều mẹ tôi đã có
mặt ở nhà,
ngày
đó trời đã xế chiều mà người vẫn chưa về. Toàn thể gia đình tôi bắt đầu sốt ruột
tuy không ai nói một câu.
Chiều
ngả màu sẫm. Gió bấc rít trong bụi tre già làm nền cho tiếng khàn khàn của của
lũ quạ lục đục trong tổ, gió bấc xoáy từng vòng cuồng loạn dứt từng vốc lá bưởi
vàng úa rồi lại nhào vút mất hút ra ngoài cánh đồng bát ngát và hiu quạnh.
Mẹ tôi vẫn chưa về.
Trong
óc tôi thoáng hiện những cảnh chợ bị phi cơ tàn phá, những hình người không kịp
xuống hầm bị đạn chết gục bên cột lều tay còn quờ ôm những đồ hàng của mình, những
hình người bị bom napalm thiêu rụi
như những thân chuối cháy đen... Và tôi vùng ra cổng.
Thầy tôi biết ý hẹn với:
Từ
xa như có bóng người đi lại. Chắc người đó ở chợ Rau về. Để tôi phải hỏi tin tức
về việc phi cơ địch oanh tạc hôm nay.
Hình
như trên đòn gánh người đó có vắt ngang một cái gì. Tôi lướt vội lên. Trời ơi,
mẹ tôi!
Hai mẹ con mừng mừng tủi tủi như gặp nhau ở cửa âm ti.
Tôi
hỏi: “Sao mẹ về muộn quá thế, cả nhà lo tưởng phát điên lên.” Mẹ tôi cho biết hàng
hôm nay bán ở chợ không hết, người phải đi sâu vào một vài làng lân cận để bán nốt. Rồi khi
xuống khỏi đê, qua cái lạch lớn, thấy có chiếc chiếu trôi, vội tìm cách vớt lên
và giặt luôn bên lạch. Đó là một chiếc chiếu còn khá tốt tuy chiều rộng bị xén
đi mất một phần ba.
Mẹ tôi chỉ vào chiếc chiếu phơi trên đòn gánh nói:
- Về
đến nhà thì chiếu vừa khô con ạ. Tối hôm nay thằng Tư - tên thằng em út tôi -
có được chiếu đắp ấm.
- Mẹ
ơi, “giàu con út, khó con út”, mẹ chẳng để ý gì đến chúng con, chỉ chăm chút
cho chú Tư thôi.
Mẹ
tôi đi trước, gió ngược chiều nên tiếng tôi mất hút về phía sau. Tuy nghe tiếng
được tiếng không, nhưng mẹ tôi vẫn hiểu câu nói đùa. Người vừa giữ cái chiếu vừa
quay nhìn tôi mỉm cười.
Tối
hôm đó khi đi ngủ thằng chú Tư được mẹ tôi đắp cho chiếc chiếu vớt ở lạch. Chân
nó thò ra một tí khiến tôi nhận thấy chiếc bít tất cũ vàng xỉn của tôi, chỗ đầu
rách được buộc túm lại để các ngón chân xinh của nó khỏi “thoát ly” ra ngoài.
Dạo
đó chỉ còn một tháng nữa là Tết. Tôi lại có dịp tạm rời trường Luật, đợi đến
qua Giêng mới có giáo sư. Tôi về vừa đúng lúc gia đình đương cần nhân công xay thóc giã gạo. Dấn vốn của gia đình tôi còn đong được năm nồi thóc. Dùng số tiền
đó làm tiền đặt mẹ tôi có thể đong về được tám nồi. Theo như mẹ tôi phác tính,
mỗi nồi
thóc
làm được lợi ít ra là hai ca gạo, vị chi với tám nồi thóc, chúng tôi sẽ lợi ít
nhất là một nồi rưỡi gạo. Cứ như vậy mà đủ việc liền trong một tháng, nghĩa là
vừa đến Tết, thì chúng tôi có thừa tiền đong gạo nếp gói bánh chưng và mua thịt cá để đón một mùa xuân kháng chiến tương đối huy hoàng.
Chúng
tôi ngoại giao ổn thỏa với các nhà có cối xay, cối giã rồi bắt đầu vào việc. Thầy
tôi trông nom mấy đứa nhỏ sửa soạn cơm nước. Tôi và thằng em trai xay thóc trong khi mẹ tôi điều khiển vợ tôi và cô
em
gái sàng gạo. Xay hết thóc chúng tôi đã có gạo đem đi giã, giã đến đâu mẹ và em tôi sàng tấm, sẩy cám đến
đấy. Trong khi xay thóc,
tôi nhẩm ôn các đạo luật, các án lệ để sửa soạn kỳ thi cuối niên khóa. Khi giã
gạo với vợ, tôi cùng nàng thủ thỉ xây mộng tương lai.
Ngày
kháng chiến thành công hẳn chúng tôi đã có những đứa con kháu khỉnh, đã trở về
quê hương dựng lại căn nhà xinh, sống tự do bình dị trong tổ ấm gia đình.
Ngày
đầu chúng tôi làm được tám nồi thóc với số gạo dư là hai nồi. Một cụ già ở đấy
gật gù nói: “Vạn sự xuất ư nho, đúng thật. Học trò thì cái gì cũng làm được. Cứ bảo người Hà Nội
không chịu được lam lũ!”
Ngày
hôm sau có tin quân Pháp đánh lên Vĩnh Yên. Những người có thóc giữ lại. Mẹ tôi
phải vất vả lắm mới mua được bằng giá khá cao sáu nồi thóc để chúng tôi có việc
làm.
Quân
Pháp chiếm Vĩnh Yên, tiền Hồ Chí Minh sụt giá vùn vụt. Vẫn số tiền cũ, giờ đây
chưa chắc mẹ tôi mua nổi bốn nồi thóc.
Quân Pháp theo sông đào tiến lên chiếm chợ Me. Dân chúng xao
xác chuẩn bị chạy. Số tiền trong tay mẹ tôi hầu trở thành giấy lộn. Chúng tôi
ăn một bữa quà bánh đúc, lúc trả tiền thấy vợi hẳn túi. Viễn
ảnh
những ngày đầu xuân có gạo nếp. có thịt gà, thịt lợn bị dập vùi trong khói súng
và biến thành một điểm kỷ niệm mong manh chết
đuối
giữa cảnh tàn phá rùng rợn của bom đạn tơi bời, cha lạc con, vợ lạc chồng, anh
em tán loạn mỗi người một phương.
Dạo
đó tuy đã có phong trào “rèn cán chỉnh cơ” nhưng chưa có cố vấn Tàu, chưa có
chính sách “ba cùng” học tập đấu tố, nên mặc dầu kinh tế nguy ngập, ai nấy vẫn
tin tưởng ở ngày mai huy hoàng của dân tộc, tin tưởng ở thắng lợi cuối cùng dưới
sự lãnh đạo sáng suốt của già Hồ (như lời loa tuyên truyền phát thanh chiều chiều).
Sang
hạ tuần tháng Chạp, suốt ngày mưa phùn gió bấc lạnh như cắt ruột. Không hiểu là
vì rét nhiều hơn hay vì chúng tôi đã bắt đầu giảm khẩu phần! Chiếc chiếu mẹ tôi
vớt ở lạch đắp cho thằng em út đã rách
xơ xác. Trong khi gia đình tôi giật gấu vá vai tìm cách nhường nhau miếng cơm
manh chiếu thì xảy cuộc hỗn chiến giữa quân đội Pháp và quân đội kháng chiến ở
chân núi Tam Đảo. Để giữ vững ưu thế quân sự về mình tại mặt trận Vĩnh Yên, tướng
Pháp De L. quyết định hy sinh đoàn quân hắn, và hạ lệnh cho thả bom tận diệt
đôi bên.
(Trong
cái đinh ba của một cuộc thế lọc lừa phản trắc, người ta giày xéo lên tình người,
điềm nhiên hy sinh xương máu đồng bào đồng
loại
nơi này cho quyền lợi thực dân, nơi kia cho học thuyết giai cấp. Tôi không ghê
tởm những bộ mặt lãnh tụ của chúng sao được?)
Từ
chân núi Tam Đảo, quân Pháp đánh tỏa ra ba mặt, đồng thời từ hữu ngạn sông Hồng,
một toán Lê Dương vượt sang càn quét bến Rau ở tả ngạn. Dân chúng từ bốn mặt chạy
về huyện Yên Lạc, đổ xô vào các làng. Mẹ tôi bèn thổi cơm hàng gánh đến bán cho
họ.
Trong
số rất đông các người ở làng Rau mang đồ đạc chạy đến làng Lũng Thượng, có gia
đình ông Lý Cựu vốn là bà con với ông chủ nhà nơi tôi tản cư. Ông Lý nói chuyện
với thầy tôi rất tương đắc, nhất là
khi
ông biết tôi đương học trường Luật sắp thi ra thẩm phán. Ông nói:
-
Tôi có thằng cháu năm nay lên sáu; giời cho làm người, sau này kháng chiến
thành công, tôi nhất định sẽ gửi cháu lên Hà Nội phiền ông, bà và cậu Cả trông
nom giúp cho thành người.
Quân Pháp sau khi từ chợ Me vượt qua sông Đáy tiến sâu vào huyện Lập Thạch đốt phá một ngày rồi
rút lui về tỉnh. Cánh quân tiến sang tả ngạn sông Hồng đốt phá bến đò Rau cũng
rút về vị trí cũ bên hữu ngạn. Dân chúng chạy loạn lục tục đâu trở về đấy ngay
để còn kịp sửa soạn Tết.
Làng Lũng Thượng trở lại yên tĩnh.
Trưa
hôm đó mẹ tôi ra phía bụi tre đầu nhà thấy cong queo dưới hầm trú ẩn một chiếc
chiếu hoa cạp điều. Đúng là chiếc chiếu của một gia đình chạy loạn nào khi về mừng
quá bỏ quên.
Mẹ tôi nói: “Thôi thế cũng là giời thương mà cho nhà mình!”
Đã
lâu lắm, đêm đó tôi mới được thấy thằng em út tôi có chiếc chiếu đắp kín chân
không trông thấy đôi bít tất buộc túm chỗ rách. Sáng ra, mẹ tôi cẩn thận gấp
chiếu rồi vắt lên chiếc dây thừng căng cao ngang mái nhà. Thế là từ đấy đêm đêm
nghe tiếng gió rít và những hạt mưa táp vào đầu hồi tôi cũng yên chí cho các em
đã tạm đủ chiếu nằm, chiếu đắp. Hai ngày sau, tới buổi sớm ba mươi Tết, khi sực
tỉnh, tôi thấy không khí trong làng có vẻ tưng bừng hơn vì những tiếng bàn
tán xôn xao xen với tiếng cười ròn rã ngoài đường xóm. Tôi vùng dậy ra thẳng
ngõ. Trời tuy lạnh ngọt nhưng quang đãng và êm ả vô cùng. Tôi gặp mọi người, mắt
ai nấy sáng ngời tin tưởng. Thì ra ở khắp các tường làng đều đã kẻ khẩu hiệu:“Chuẩn bị tổng phản công.”
Đồng
bào thủ đô bàn nhau ngày về nhận nhà nhận cửa, đồng bào địa phương hơi có vẻ ngậm
ngùi tưởng như giờ phút chia tay đã điểm.
Buổi
trưa hôm đó, ông Lý Cựu từ làng Rau mang theo vài thứ xa xỉ phẩm làm quà biếu
ông chủ nhà vào dịp Tết. Ông Lý Cựu có xuống căn nhà dưới thăm thầy tôi. Câu
chuyện vừa xong phần xã giao thường lệ thì ông ngửng nhìn thấy chiếc chiếu hoa
cạp điều vắt ở dây thừng, ông đứng nhỏm dậy chạy lại kéo tuột xuống nói gọn:
- Chiếc chiếu này của tôi!
Mẹ
tôi chợt có một cử chỉ phản ứng, y như sự phản ứng của một người mẹ gìn giữ con
trong cơn nguy biến.
Người nói:
- Ấy chiếc chiếu đó của nhà tôi...
Mẹ
tôi vốn là một Phật tử trung thành. Người chỉ nói được đến đấy thì lương tâm Phật
tử trở lại và người lúng túng quay nhìn ra ngõ.
Ông
Lý Cựu thản nhiên gấp chiếu lại, cắp gọn dưới nách rồi thản nhiên nói:
- Không,
chiếc chiếu của tôi. Tôi mua đôi chiếu cạp điều này từ năm mới tác chiến, một
chiếc còn trên kia.
Thì
ra đôi chiếu đó, ông Lý mang đến gửi ông chủ nhà trong dịp vừa qua, rồi những
người đến chạy loạn tự động mượn đem ra trải ở bụi tre nghỉ tạm. Lúc về vì chiếu
rơi xuống hầm trú ẩn nên họ quên không
trả lại chỗ cũ.
Tuy
chỉ một thoáng qua nhận biết hết sự thể là vậy nhưng tôi vẫn chưa chịu và tiếp
lời mẹ tôi:
- Chiếc
chiếu này mẹ tôi mua của một người ở chợ Lầm. (Ý tôi muốn nói người đó lấy chiếu
ở đây mang ra chợ Lầm bán.)
Ông Lý vẫn thản nhiên, thản nhiên một cách cương quyết:
- Không, chiếc chiếu này của tôi!
Rồi
ông cắp chiếu đi thẳng lên nhà. Lúc đó vợ tôi cũng vừa trở lại với tôi để nhớ
ra rằng cuối năm nay tôi đã thi xong, có thể ra thẩm phán. Tôi thoáng nghe phía
sau tiếng vợ tôi thở dài rồi quay vào buồng.
Tối
hôm đó khi thấy tôi lấy chiếc chiếu rách cũ vớt ở lạch đắp cho thằng em út, mẹ
tôi chép miệng nói khẽ:
- Thôi,
sang Giêng trời bất đầu ấm, vả lại cũng sắp tổng phản công rồi!
“Vả lại cũng sắp tổng phản công rồi!” - Mẹ
tôi nghĩ thật chí lý. Tổng phản công để bờ cõi được vinh quang độc lập, để mọi
người được trở về dựng lại quê hương yên vui.
Tôi
hiểu khi đó hầu hết các gia đình khác, cũng như chúng tôi, chịu đựng bao nhục
nhằn với những phút sa ngã nhỏ như chuyện chiếc chiếu hoa cạp điều. Tất cả những
hy sinh đó - kể cả khi hy sinh một chút ít danh dự do sự yếu đuối thường tình của
con người - tuy dằn vặt, ray rứt mà không tàn phá nổi niềm vui trong sáng,
thanh thản của
tâm hồn, vì ai nấy sống ngợp hy vọng một ngày mai vinh quang.
Sớm
mùng một năm đó, mẹ tôi ra chùa lễ. Người quỳ rất lâu trước bàn thờ Phật. Giọng
người thành kính thiết tha cầu đức Phật phù hộ cho chóng trở lại yên bình, gia
đình được qua thì đói, khỏi thì loạn.
Tiếng người khấn đôi khi nức nở. Tôi nghe, nước mắt muốn trào ra.
Cộng
sản dìm nhân loại trong thiếu thốn để chứng minh nguyên lý “Vật chất quyết định hết thảy”. Chúng lầm!
Con người càng từng trải cảnh thiếu thốn vật chất, niềm tin vào đạo đức càng được
hun đúc và tình cảm thêm dạt dào.
Sau
này khi về vùng quốc gia, rồi di cư vào Nam, tôi còn trải qua nhiều gian lao
nghèo túng và nhiều lần bị khinh rẻ, nhưng dù nghèo
túng
đến đâu, dù bị khinh rẻ đến đâu, điều đau nhục nhất đối với tôi vẫn là chiếc
chiếu hoa cạp điều, tuy thực tình câu chuyện chỉ giản dị có vậy.
Cách
đây ít lâu khi mua được đôi chiếu hoa Phát Diệm ở đường 20 về trải lên phản cho con nằm, tôi thấy vợ
tôi chợt úp mặt vào hai bàn tay trước bàn gương. Có lẽ nàng nghĩ đến câu chuyện
chiếc chiếu hoa cạp điều khi xưa.
Chuyện đó như biến thành chiếc phao sẫm màu,
bất chấp mọi giông tố vẫn nổi lềnh bềnh trên biển, biển thời gian của đời, biển kỷ niệm của hồn.
Cũng kể từ sau ngày xảy ra chuyện đó, thái độ của tôi đối với người đời khác
xưa nhiều. Tôi thận trọng tránh mọi thái độ hẹp hòi, ích kỷ, sắc cạnh. Lòng dễ
xúc động, tôi thương người như thương
chính thân mình vậy. Tôi thương những em nhỏ sớm phải lăn lưng vào cuộc đời để tự nuôi sống, tôi
thương những người đói khát ham ăn ham uống, tôi thương những hình ảnh lam lũ một sương hai nắng, những hình ảnh nghèo túng
giật gấu vá vai, tôi thương những kẻ thù dân tộc hôm qua, ngày nay thất thế ngơ
ngác đi giữa kinh thành.
Ở
thế giới thực dân tư bản người ta tung vật chất ra để giam lỏng linh hồn; ở thế
giới thực dân Cộng sản, người ta phong tỏa vật chất
để
mua rẻ linh hồn. Cả hai cùng thất bại! Linh hồn nhân loại chỉ có thể mua được bằng
ảnh thương yêu rộng rãi và chân thành.
Thấy
tôi hằng kiềm chế được nóng giận và nhất là vẫn mỉm cười khi ứa nước mắt, các
bè bạn thân thường khen tôi có thái độ hồn nhiên của Trang Chu.
Các bạn yêu quý của tôi!
Các
bạn có ngờ chăng thái dộ hồn nhiên đó là kết quả của biết bao cảnh cơ hàn mà
tôi và những người thân của tôi đã trải qua, trong đó có truyện CHIẾC CHIẾU HOA
CẠP ĐIỀU!
DOÃN QUỐC SỸ