Có
lẽ số tôi là số học trường tư.
Hồi
nhỏ, cách nhà ba má tôi một căn nhà Bà Năm là nhà Ông giáo Ngọc Anh. Tôi lên 4,
lon ton chạy hơn 10 bước chân là qua nhà thầy, võ vẽ học vỡ lòng cùng vài đứa
trẻ con hàng xóm. Đến bây giờ tôi không nhớ thầy đã dạy những gì nhưng vẫn nhớ
giọng nói hiền từ nhẹ nhàng của thầy, dáng đi chầm chậm khoan thai và bộ
complet trắng lúc nào cũng phẳng phiu tươm tất, uy nghi cùng cây thước bảng
trên tay…
Rồi
tôi vào tiểu học trước tuổi nên chỉ có trường tư nhận. 5 tuổi, tôi bắt đầu đi học
xa hơn một chút. Từ nhà qua cầu Long Vân Tự, ra đầu hẽm là đường Bạch Đằng,
quẹo trái, băng qua đường là đến trường tư thục Văn Tiến. Hai ba năm đầu ba má
hoặc bà vú còn đưa đón. Đến năm cuối, Cô giáo dạy lớp tôi ở xóm trong, cuối hồ
sen nhà ông Năm chủ đất, ngày nào cũng đi ngang nhà tôi, má cô là người quen,
ba má gửi tôi đi học theo cô cùng thằng Toàn, thằng Hiếu ngõ trên. Mấy cô trò,
mỗi ngày sáng sáng đi bộ đến trường. Trưa, đi về cùng cô với vài trò trong xóm,
ba đứa chúng tôi hãnh diện vênh mặt được lẽo đẽo theo sau ôm một chồng vở
xích-lô cô đem về nhà chấm bài tập viết hay chính tả, làm toán…của cả lớp. Ngày
mưa ngày nắng, mái tóc dịu dàng ngang eo, chiếc áo dài lụa vấn vít trong gió và
cây dù hoa tím rơi rơi của cô gần như là thần tượng trong đôi mắt lũ học trò
trường làng chúng tôi. Trường có năm lớp sáng, năm lớp chiều cho năm năm học.
Mới vô trường “a-bê-xê dắt dê đi ị” là lớp Năm, rồi năm sau lên lớp Bốn, lớp
Ba, lớp Nhì, cuối cùng là lớp Nhứt ra trường. Trường tư nhỏ xíu ngay mặt phố,
xe chạy qua lại nên thầy Hiệu trưởng luôn cho đóng kín cổng, giờ chơi, các trò
có khoảng sân đất rộng phía sau. Cũng nhảy dây, đánh đũa, bắn bi, lò cò…. Hai
năm học đầu, hình như đứa nào cũng có lần bị khẽ tay vì cái tội vụng về, bơm
mực cầm bút sao mà bàn tay, ngón tay nào cũng dính mực tím tèm lem, dây lên cả
áo quần. Lớn hơn thì nói chuyện trong lớp, cãi lộn, không thuộc bài, không làm
bài, đi học trễ, trốn học, ăn vụng trong giờ học…, tuỳ tội nặng nhẹ, khi thì
chép phạt 20 lần, 50 lần, 100 lần, khi thì quỳ gối khoanh tay úp mặt vô tường,
khi tự nắm lỗ tai thụt dầu 20 cái, khi ăn 5,7 cây thước kẻ… Chuyện học trò đi
học, bị đòn, bị phạt khi phạm lỗi, hồi đó sao thiệt bình thường… Cha mẹ đưa vào
lớp, phụ huynh nào cũng đều rụt rè đôi lời gửi gắm với thầy, cô: “Thương cho
roi cho vọt, cháu nó còn nhỏ daị, có gì sai trái, thầy/cô cứ răn dạy nó dùm
tui, gia đình tui mang ơn.” Hoặc “Nó hư hỏng, làm biếng, thầy cứ đánh đòn cho
nó sợ nha thầy”. Cho tới bây giờ tôi cũng chưa quên hình ảnh thầy cô giáo tôi
ngoài tập vở giáo án gì đó, trên bàn, trong tay lúc nào cũng có cây thước bảng
như một biểu tượng của quyền uy đương nhiên thiêng liêng tất yếu không thể
thiếu, dù cô tôi hình như chưa ra tay với chúng tôi bao giờ. Chưa thuộc bài thì
bắt về học hôm sau trả bù. Trò nào quá lắm, có phạt là thầy Giám thị và thầy
Hiệu trưởng phạt…
Cây
thước bảng của cô, ghi vào lòng tôi là âm vang gõ nhịp mỗi giờ học bài Tập đọc,
cây thước bảng trên bàn cô nhịp nhịp theo từng câu ê a của chúng tôi:
Công cha/ như núi/ Thái Sơn
Nghiã mẹ/như nước/trong nguồn/chảy ra
Một lòng/thờ mẹ/kính cha
Cho tròn /chữ hiếu/mới là/đạo con
Hay
những buổi học môn lịch sử:
Bà Trưng/quê ở/ Châu Phong
Giận người/tham bạo/thù chồng/chẳng quên
Chị em/nặng một lời nguyền
Phất cờ/nương tử/ thay quyền/tướng quân…
Những
lời răn dạy nhịp hai của những câu tục ngữ ca dao thể thơ lục bát:
Cá không/ ăn muối/cá ươn
Con cãi/ cha mẹ/ trăm đường/ con hư.
…
Nhưng
có lẽ trong đời đi học, cây thước bảng mà chúng tôi sợ nhất, thuơng nhất là cây
thước bảng của Cha Thăng, Tổng giám thị trường Thánh Mẫu Gia Định.
Mậu
Thân 1968, vùng Cầu Sơn, Cầu Kinh, Long Vân Tự-Đồng Ông Cộ là mặt trận kéo dài
từ mồng 3 tết tiếng súng hoà tiếng pháo mừng xuân. Chiến tranh đã thực sự hiện
diện ở thành phố chứ không chỉ còn trên radio Đài phát thanh Sài Gòn hay BBC
Luân Đôn ba tôi nghe mỗi 6h30 sáng, tối. Đạn pháo kích. Nhà cháy tan hoang. Dân
Cầu Sơn, Cầu Kinh lội sông, gồng gánh nhau tràn qua, nhà tôi, bất đắc dĩ thành
nơi tị nạn hơn trăm người. Trường học các cấp đóng cửa. Dì Ba đưa 4 đứa em tôi
ra Vũng Tàu lánh đạn cả năm trời lưu lạc mà bây giờ mỗi khi nhắc lại, các em
đều gọi đó là những ngày tháng “tuổi thơ dữ dội”. Tôi ở lại Sài Gòn với ba má,
ngủ hầm tăng-xê chất đầy bao cát, đêm nghe đại bác ầm ì, đêm nhìn hoả châu rơi.
Ngày bữa học bữa nghỉ rồi nghỉ dài hạn. Chiến sự kéo dài mở màn từ mồng 3 tết
đến tháng 5. Năm đó tôi 12 tuổi ta, tóc còn hai bím đuôi gà, ngơ ngác nhìn rào
kẽm gai và lần đầu tiên biết chiến tranh đang ở ngay bên mình khi ra vào bị mấy
chú quân giải phóng đóng ngay trong chùa Long Vân chặn lại đuổi vào nhà.
Tôi lại thấy tôi mười hai. ngơ ngác
Giữa cầu Long Vân Tự, lạc mẹ lạc cha
Tiếng khóc chìm giữa dòng người hoảng loạn
Cầu Kinh. Cầu Sơn. rồi Đồng Ông Cộ…
Khắp nơi.
Súng nổ.
Nhà mình cháy rồi…
Ba ơi?
Má ơi?
-
Ba má con còn tróng đó, chú ơi!
Khi
SG trở lại bình yên, cùng với những đổ nát ngổn ngang, trường học mở cửa lại. Không
hiểu sao khó khăn trục trặc gì lúc đó ba má không cho tôi thi vào trường công
mà ghi tên cho tôi nhập học lớp đệ thất trường tư thục Thánh Mẫu Gia Định. Thời
đó, bên cạnh các trường công, trường Tây, Sài Gòn còn có các trường tư, và
trường đạo. Trong hệ thống đó, ba tôi chọn trường đạo vì cho là trường có nề
nếp kỷ luật nổi tiếng nghiêm khắc và cũng là trường thành tích cao có tiếng ở
đô thành SG thời bấy giờ. Thánh Mẫu Gia Định là trường nổi tiếng kỷ luật nhất
và gần nhà tôi nhất.
Bốn
năm trung học đệ nhất cấp của tôi ngoài các giờ học với các Giáo sư Toán, Lý,
Hoá, Anh, Sử, Địa…đáng kính, những Giáo sư Việt Văn: cô Thanh Mai (đệ thất, đệ
lục), cô Tường Vinh (đệ ngũ, đệ tứ) đã hun đúc đam mê của tôi về những áng văn
chuơng tuyệt tác của nước nhà, mà đến giờ tôi vẫn nhớ thuơng mỗi khi nghĩ đến,
còn gắn liền với hình ảnh cây thước bảng của Soeur Stanilas và cha Tổng Phạm
Văn Thăng. Mỗi sáng xếp hàng đi vào lớp, Sơ Stanilas với cây thuớc bảng cầm
tay, hay kẹp nách…đứng ngay cầu thang kiểm tra trang phục. Bất kể mấy chị lớn
đệ nhị cấp hay tụi con nít đệ nhất cấp như tụi tôi mặc áo dài mà không có áo
lót là bị ghi tên vi phạm nội quy cuối tuần tĩnh tâm cấm túc, dọn vệ sinh, chép
phạt…
Tôi
vẫn nhớ về Cha Tổng Phạm Văn Thăng ngày ấy với chiếc áo chùng đen, rảo bước qua
các lớp học hay sân trường đầu giờ, cây thước bảng trên tay lúc nào cũng có thể
trừng phạt những trò vi phạm, lỗi lầm. Nặng tội nhất là trốn học. Tiếp đến là
không thuộc bài, đánh lộn… Ngày ấy, tôi đứng cách xa xa Cha. Một chút kiêng dè.
Một chút sợ sệt. Với tất cả sự tôn kính tuân phục. Cũng không biết và không dám
tò mò gì thêm về cha ngoài nhiệm vụ Tổng Giám thị toàn trường. Cha nổi tiếng là
đánh đòn nặng, trừng phạt nghiêm, không chút khoan nhượng với những trò hư
hỏng. Nhờ vậy, Thánh Mẫu Gia Định nổi tiếng là một trường nam- nữ đều kỷ luật
và học giỏi. Lạ kỳ, những đứa trò nhỏ thế hệ chúng tôi ngày ấy có bị đòn, bị
phạt đau cỡ nào, oan ức cỡ nào cũng đều nghiêm khắc thành tâm hối lỗi sửa mình,
tuyệt nhiên không oán thán, hận thù như thời bây giờ loạn xị “thầy không ra
thầy, trò chẳng ra trò” tình tiền tù tội chen chân vào tận cửa lớp…!
Từ
sau 1975, tất cả các trường bên đạo đều đóng cửa. Sau, Sở Giáo dục tiếp quản và
đổi tên là trường Tiểu hoc Lam Sơn. Thầy trò TM cũng tan tác bao nhiêu là ngã
rẽ, lặn ngụp cuộc mưu sinh, biền biệt tin nhau. Tôi cũng cùng trời cuối đất lưu
lạc góc trời Nam. Mãi đến những năm cuối thập niên 90, sau 18 năm uống nước
dòng Mekong, tôi được thuyên chuyển trở về Sài Gòn theo yêu cầu gia đình vì mẹ
chồng già yếu đơn chiếc, tôi mới tìm lại được Cha và Soeur, thầy cô bạn bè mới
tìm lại được nhau qua Nhóm Cựu học sinh TM. Bùi ngùi, tôi vừa kịp gặp lại Soeur
Stanilas lần đầu sau 1975 và hai tháng sau đó, lần cuối tiễn người về nuớc Trời
một ngày tháng 2 năm 2012.
Dẹp
hết mọi sợ sệt thời tuổi nhỏ, tôi và Kim Phấn đã tìm thăm lại Cha qua Bạch
Nguyệt và các bạn Cựu HSTM ở SG, quyết hẹn mỗi năm đúng vào ngày 31.12 chúng
tôi sẽ đến thăm Cha. Đã 12 năm nay, dẫu bận rộn gì, ngày cuối cùng của năm ấy, chúng
tôi cũng dẹp hết qua một bên, đều đặn đến bên Người không chỉ ngày cuối năm mà
cả ngày lễ bổn mạng Giuse 19.3 hàng năm. Mỗi lần gặp Cha, quan niệm, nếp sống,
những câu chuyện đầy yêu thương và đức hy sinh khổ hạnh xót xa cho mọi kiếp đời
bất hạnh, chúng tôi lại đắng lòng thương Cha một đời tận hiến. Lại một lần
chúng con tự suy niệm đời mình trăn trở bao điều chưa tốt chưa hay.
Rất nhớ
kỷ niệm
Sinh nhật thứ 90 và 60 năm thụ phong linh mục của Cha năm 2018. Đúng 19.3 lễ bổn mạng Thánh Giuse của Cha. Khi chúng tôi bước vào phòng, Cha đang một
mình ngồi đọc nhật báo, vẫn minh mẫn và điềm đạm từ tốn hỏi thăm từng người, nhắc từng kỷ
niệm. Duy có giọng nói đã bắt đầu hơi khó nghe! Lắng tai lắm mà có khi âm này
nhịu sang âm khác...
Hàng ngày ở trong dòng
Đồng Công Thủ Đức này cha không thiếu thốn gì. Đến bữa, các thầy lại sang
đẩy cha qua phòng ăn, chăm sóc mọi sinh hoạt cho cha. Nhưng điều cha thiếu là
thiếu người trò chuyện. Không có ai để giao tiểp. Có lần cha kể một linh mục
sống ở nhà hưu trí HN một mình khong ai trò chuyện, lâu ngày, không còn nói được
nữa... Thật đau lòng. Và bất lực.
Mọi người chúc mừng sinh
nhật Cha. Cha nói đó chỉ là chuyện nhỏ. Cô Xuân hỏi “việc lớn là gì”, cha trả lời:
- Buồn thẹn vì đời mình
lỗi hẹn với non sông, lỗi thề với giáo hội!
Rưng rưng nghe cha nhắc
lại những khát vọng ngày nào ngỡ đất nước hoà bình độc lập tự do ai ai cũng cơm
no áo ấm không còn cảnh đói nghèo. Nhưng, giờ vẫn còn quá nhiều
người đói khổ không cơm ăn áo mặc không có tiền để đến
trường. Quá
nhiều trẻ em không có tiền bạc tập vở học hành. Cha đã đứng ra lập ba quỹ tương
trợ cho bà con dòng Bác Ái. Quỹ sinh viên nghèo đã đuợc 1 tỷ 2, quỹ học sinh
nghèo 800tr. Còn quỹ cho người nghèo tuỳ hoàn cảnh cha và cộng đoàn sẽ giúp.
Ban đầu, biết cha có ý giúp đỡ các em hoc sinh sinh viên nghèo, một giáo dân sau khi
bán nhà đi định cư đã hiến tặng mấy chục lượng vàng giúp cha lập quỹ và duy trì mở
rộng đến ngày nay.
Cha
trầm ngâm:
-
Một quả chuối 2/3000 đồng. Mỗi người chỉ
cần nhín lại một ngày 1 quả chuối, một tháng sẽ có # 60.000, một năm 12 tháng…
Vậy là một gia đình đủ đóng tiền trường đầu năm cho một em không phải bỏ học… Khó
mà không phải khó…
Vâng,
cha ơi, chúng con xin lĩnh ý tấm lòng Người và thực hành từ những điều giản
đơn, nhỏ nhặt nhất: mỗi ngày bớt đi một quả chuối… cho 1 em không phải bỏ học…
Có
lần, đến thăm Cha ở nhà hưu trí Hà Nội, thấy các trò biếu bao thơ tặng Cha, Soeur qua phụ giúp kể rằng bNgài vừa bị trộm
vào lấy hết tiền các học trò tặng, hình như mười mấy triệu. Hỏi có bắt được hay
báo phường gì không, Cha cười nhẹ:
-
Thôi, bỏ qua… họ cũng khổ quá không còn
đường nào sống mới phải đành vào nhà hưu các cha mà lấy trộm…
Tôi
chợt nhớ lại hình ảnh cha Myriel trong Những người khốn khổ của Victor
Hugo, vị linh mục ở một giáo xứ nhỏ tình D., đức giám mục Bienvenu, người đã sẵn lòng mở rộng cánh cổng
ngôi nhà khiêm tốn nhưng đầy yêu thương của Chúa để cho một tên tù khổ sai vừa mãn
hạn với tấm giấy thông hành màu vàng, bị coi là kẻ nguy hiểm, khắp nơi từ chối,
xua đuổi, không tìm đuợc nơi nào dung thân, kể cả con chó trong một cái chòi
hoang cũng gầm gừ chống lại, được tá túc trong nhà Chúa qua đêm. Chẳng những thế,
ông còn cho Jean Vanjean một bữa tối ấm nóng, một cái giường có nệm và những tấm dra như mọi người mà 19 năm qua Jean chưa từng
được hưởng. Vậy mà, nửa đêm, Jean Valjean đã lẻn đi cùng bộ đồ ăn bằng bạc duy
nhất của nhà xứ. Cha Myriel đã không đuổi theo vì ông biết họ là một người
nghèo cùng đường không lối thoát. Đáng nói hơn là cách xử sự của Cha khi ba tên
sen-đầm giải kẻ trộm đến hỏi Cha có phải đồ của nhà thờ bị hắn trộm không. Ngài
đã thản nhiên lấy tặng nốt cho Jean Valjean hai
cây đèn bạc còn lại
mà ông vẫn thích dùng để trang hoàng vào những ngày lễ trọng trước người
cựu tù khổ sai đang run bần bật, sững sờ. Tôi
còn xúc động mãi câu nói của ông: “Xin ông đừng quên, đừng
bao giờ quên rằng ông đã hứa với tôi là sẽ dùng món tiền này để trở thành người
lương thiện. Jean Valjean, người anh em của tôi, ông không còn thuộc về cái xấu
nữa, tôi đã mua linh hồn ông và tôi tặng cho Thượng đế”.
Yêu thương là tha thứ.
Yêu thương là trao cho người
khốn cùng một cơ hội để tự tái sinh.
Cha đã thực hiện lời Chúa
qua cách chọn lựa thứ tha cho kẻ trộm cùng đường ấy từ cội nguồn yêu thương vô
bờ bến đối với con người.
Có lần
chúng tôi xúm xít đến thăm Cha, chuyện trò thăm hỏi rồi quay quanh chuyện giáo
dục, Cha chủ
động nhắc chuyện thời sự cô giáo bắt học trò quỳ, cha mẹ trò bắt cô giáo
quỳ… đang
xôn xao dư luận mấy tuần nay. Tôi nhắc lại câu chuyện bị phạt quỳ duy nhất dưới sân
trường oan uổng giờ chào cờ vì rơi cái kẹp tóc quay xuống hàng sau nhờ lượm dùm
60 năm xưa,
Cha cho là nói chuyện khi chào cờ, nên phạt… Cha vốn nổi tiếng nghiêm khắc. Ai cũng sợ.
Đúng sai gì cũng răm rắp vâng lời nhận lỗi truớc đã… Cha
từ tốn bày tỏ vì sao Cha phải nghiêm khắc. Tâm tình của cha đến bây giờ, lần đầu sau 60 năm vô
trường Thánh Mẫu Gia Định chúng tôi mới được nghe, được thấu hiểu lòng Ngài... Triết lý
của Ngài về Giáo dục
và hình phạt thật xúc động. Nghiêm khắc mà từ tâm. Kỷ luật mà khoan dung. Có
lý và có tình. Bao nhiêu lần Cha cũng đau
lòng vì phải trách phạt các học trò song không thể từ bỏ nguyên tắc. Người làm
thầy không phải chỉ biết xử phạt mà cần tìm hiểu nguyên nhân nào dẫn đến vi
phạm đó mà giáo dục, sửa đổi. Có ai biết đứng trước một
hoàn cảnh phải xử phạt để giữ nội quy, cha đã lặng lẽ đi bộ sau lưng cậu trò nhỏ tan trường từ Thánh Mẫu Gia Định Bà Chiểu về tới tận Ngã Tư Bảy Hiền hơn
6 cây số, để coi thử hết bao nhiêu
phút... vì trò ngày nào cũng bị phạt vì đi học trễ. Hoá ra
đoạn đường mỗi bận trò đi phài 1 tiếng 25 phút! Có ai biết cây thước bảng to mà trong một bài
viết tôi có nhắc, cha chọn loại gỗ dòn chứ không dùng roi mây
(vốn thớ dẻo dai khó gãy), quất mạnh một hai cây thôi là thước gẫy... cha có cớ để đi lấy
roi khác, hoặc tha không đánh đòn đau mà chỉ răn dạy đôi lời... Có ai biết cha từng
phải hò hét la mắng thật to ở một phòng trống cạnh phòng kế bên
có trò bị
phạt quỳ chờ xử. Thậm chí lấy thước bảng quất đen đét vào cạnh bàn, cạnh ghế... để cho cái đứa bị phạt
bên phòng kia nó hoảng sợ mà chừa, mà không dám vi phạm nữa…
- Cha không nghiêm, không
phạt, không kỷ luật sao được. Các con biết Sài Gòn này có hai trường nổi tiếng dạy dỗ kỷ
luật. Quận 1 có Lasan Taberd nhưng toàn con công chức nhà giàu... Gia Định thì
có Thánh Mẫu Bà Chiểu nhưng toàn con nhà nghèo, con người lao động, buôn gánh
bán bưng, giữ đuợc khó lắm. Không nghiêm sao chúng chịu học? Mà
thời loạn lạc, thi rớt tú tài, đi lính chỉ được làm binh nhì binh nhất sống
chết mong manh…
“Thương
cho roi cho vọt” thật đúng nghĩa phải không Cha. Thương sao mới thật là THƯƠNG.
PHẠT sao mới thật là Phạt. Đâu có điều gì mới mẻ cao xa mà sao giáo dục hôm nay
phá sản mọi tấm lòng, trách nhiệm và niềm tin…
Và,
thật nghẹn lòng khi nghe Cha tách bạch từng nỗi niềm có lẽ giấu kín từ nửa thế
kỷ nay chịu tiếng ác là người khó nhất trường:
- Có đứa vừa đi học vừa
phụ nguời ta sửa xe kiếm tiền, tay chân quần áo lúc nào cũng lấm lem dầu mỡ
nhếch nhác...không chỉnh tề đồng phục… Một hai lần đầu cha phạt.
Khi biết trò khổ thế, cha giả vờ quay mặt chỗ khác để không phải phạt nó! Thấy
mà không phạt thì sao giữ đuợc kỷ luật cho nghiêm!
- Có
lần 10h đêm mà còn nghe học trò ở gần Nhà thờ rao mòn mỏi “Ai bánh chưng bánh giò
đây…”, Cha không thể ngủ được, gọi nó vào, bảo bưng rổ bánh đến:
-
Cha mua hết bánh cho, con cầm tiền về cho mẹ, học bài rồi đi ngủ, mai còn đi
học.
Ôi.
Chỉ có thể là tình thương yêu bao la vô bờ bến của Đấng Xót Thuơng.
Rưng rưng nhớ những ngày
bị la bị phạt mà chúng tôi nên người hôm nay. Lần phạt quỳ oan uổng lớp đệ ngũ
con nít lóc chóc khi chào cờ tôi từng trách cha dạo nào tôi đã quên bẵng từ lâu lắm rồi... Giờ chỉ
còn lòng kính thương nể phục cha không biết nói sao vừa... Nghệ thuật sư phạm xuất
phát từ tình thương và trách nhiệm của một Tổng giám thị trường tư ngày ấy... Có ai biết... Có ai
bắt…Nhưng, chúng con mãi ghi khắc
không quên, Cha ơi. Ra về mà lòng còn canh cánh. Cha một mình ở đó... Kiên
cường chống chọi bệnh tật. Đôi chân đã không còn tự di chuyển được, ngày một
hoại tử tím bầm, song Cha vẫn bình thản, phó thác cho sự
quan phòng của Chúa. Cha là người của hành
động thiết thực. Sớm tối kinh kệ nguyện cầu không hẳn là điều cha muốn duy
nhất. Người cứ dặn dò mãi trước mỗi lúc chúng con ra về:
- Các con hãy cố gắng làm
điều gì có ích cho mọi người.
- Các con hãy giúp đỡ các
học sinh nghèo hiếu học.
- Các con hãy làm điều gì
có ích cho non sông đất nước...
-
Giáng Sinh hãy dành cho người nghèo khó, đừng trang trí trưng bày lộng lẫy xa
xí quá làm gì…Còn bao nhiêu người gầm cầu xó chợ…Nhiều nhà xứ bây giờ quá chú
trọng hình thức mà phung phí…
Những điều canh cánh này,
lần nào thăm, con cũng nghe người đau đáu nhắc đi nhắc lại như
nỗi thiết tha trao lại thế hệ chúng con tiếp nối con đường khổ hạnh sớt chia người
đã đi qua. Với con, mỗi lần thăm Cha là một dịp soi mình để mỗi giờ dạy của
con, mỗi bài giảng của con, mỗi học trò của con được tiếp nhận tinh thần triết
lý của lòng yêu thương bao la sâu thẳm mà Cha đã khiêm nhường lặng lẽ dạy bằng
cả cuộc đời thấm nhuần ánh sáng thiêng liêng…
Giờ
thì Cha đã đi rất xa… Cha đã về Nhà.
Cây
thước bảng của Cha đã trở thành huyền thoại của Tình Yêu Đích Thực và Lòng Bác
Ái vô bờ.
Ta khóc tạ ơn đời máu
chảy
Ruột mềm như đá dưới chân
ta...
(TTY)
Thị
Nghè
11.
2024