Thứ Tư, 30 tháng 4, 2025

398 . HOÀNG KIM OANH Cây Thước bảng của Cha Thăng

                                                                             


 

Có lẽ số tôi là số học trường tư.

Hồi nhỏ, cách nhà ba má tôi một căn nhà Bà Năm là nhà Ông giáo Ngọc Anh. Tôi lên 4, lon ton chạy hơn 10 bước chân là qua nhà thầy, võ vẽ học vỡ lòng cùng vài đứa trẻ con hàng xóm. Đến bây giờ tôi không nhớ thầy đã dạy những gì nhưng vẫn nhớ giọng nói hiền từ nhẹ nhàng của thầy, dáng đi chầm chậm khoan thai và bộ complet trắng lúc nào cũng phẳng phiu tươm tất, uy nghi cùng cây thước bảng trên tay…

Rồi tôi vào tiểu học trước tuổi nên chỉ có trường tư nhận. 5 tuổi, tôi bắt đầu đi học xa hơn một chút. Từ nhà qua cầu Long Vân Tự, ra đầu hẽm là đường Bạch Đằng, quẹo trái, băng qua đường là đến trường tư thục Văn Tiến. Hai ba năm đầu ba má hoặc bà vú còn đưa đón. Đến năm cuối, Cô giáo dạy lớp tôi ở xóm trong, cuối hồ sen nhà ông Năm chủ đất, ngày nào cũng đi ngang nhà tôi, má cô là người quen, ba má gửi tôi đi học theo cô cùng thằng Toàn, thằng Hiếu ngõ trên. Mấy cô trò, mỗi ngày sáng sáng đi bộ đến trường. Trưa, đi về cùng cô với vài trò trong xóm, ba đứa chúng tôi hãnh diện vênh mặt được lẽo đẽo theo sau ôm một chồng vở xích-lô cô đem về nhà chấm bài tập viết hay chính tả, làm toán…của cả lớp. Ngày mưa ngày nắng, mái tóc dịu dàng ngang eo, chiếc áo dài lụa vấn vít trong gió và cây dù hoa tím rơi rơi của cô gần như là thần tượng trong đôi mắt lũ học trò trường làng chúng tôi. Trường có năm lớp sáng, năm lớp chiều cho năm năm học. Mới vô trường “a-bê-xê dắt dê đi ị” là lớp Năm, rồi năm sau lên lớp Bốn, lớp Ba, lớp Nhì, cuối cùng là lớp Nhứt ra trường. Trường tư nhỏ xíu ngay mặt phố, xe chạy qua lại nên thầy Hiệu trưởng luôn cho đóng kín cổng, giờ chơi, các trò có khoảng sân đất rộng phía sau. Cũng nhảy dây, đánh đũa, bắn bi, lò cò…. Hai năm học đầu, hình như đứa nào cũng có lần bị khẽ tay vì cái tội vụng về, bơm mực cầm bút sao mà bàn tay, ngón tay nào cũng dính mực tím tèm lem, dây lên cả áo quần. Lớn hơn thì nói chuyện trong lớp, cãi lộn, không thuộc bài, không làm bài, đi học trễ, trốn học, ăn vụng trong giờ học…, tuỳ tội nặng nhẹ, khi thì chép phạt 20 lần, 50 lần, 100 lần, khi thì quỳ gối khoanh tay úp mặt vô tường, khi tự nắm lỗ tai thụt dầu 20 cái, khi ăn 5,7 cây thước kẻ… Chuyện học trò đi học, bị đòn, bị phạt khi phạm lỗi, hồi đó sao thiệt bình thường… Cha mẹ đưa vào lớp, phụ huynh nào cũng đều rụt rè đôi lời gửi gắm với thầy, cô: “Thương cho roi cho vọt, cháu nó còn nhỏ daị, có gì sai trái, thầy/cô cứ răn dạy nó dùm tui, gia đình tui mang ơn.” Hoặc “Nó hư hỏng, làm biếng, thầy cứ đánh đòn cho nó sợ nha thầy”. Cho tới bây giờ tôi cũng chưa quên hình ảnh thầy cô giáo tôi ngoài tập vở giáo án gì đó, trên bàn, trong tay lúc nào cũng có cây thước bảng như một biểu tượng của quyền uy đương nhiên thiêng liêng tất yếu không thể thiếu, dù cô tôi hình như chưa ra tay với chúng tôi bao giờ. Chưa thuộc bài thì bắt về học hôm sau trả bù. Trò nào quá lắm, có phạt là thầy Giám thị và thầy Hiệu trưởng phạt…



Cây thước bảng của cô, ghi vào lòng tôi là âm vang gõ nhịp mỗi giờ học bài Tập đọc, cây thước bảng trên bàn cô nhịp nhịp theo từng câu ê a của chúng tôi:

Công cha/ như núi/ Thái Sơn

Nghiã mẹ/như nước/trong nguồn/chảy ra

Một lòng/thờ mẹ/kính cha

Cho tròn /chữ hiếu/mới là/đạo con

Hay những buổi học môn lịch sử:

Bà Trưng/quê ở/ Châu Phong

Giận người/tham bạo/thù chồng/chẳng quên

Chị em/nặng một lời nguyền

Phất cờ/nương tử/ thay quyền/tướng quân…

Những lời răn dạy nhịp hai của những câu tục ngữ ca dao thể thơ lục bát:

Cá không/ ăn muối/cá ươn

Con cãi/ cha mẹ/ trăm đường/ con hư.

 

Nhưng có lẽ trong đời đi học, cây thước bảng mà chúng tôi sợ nhất, thuơng nhất là cây thước bảng của Cha Thăng, Tổng giám thị trường Thánh Mẫu Gia Định.

Mậu Thân 1968, vùng Cầu Sơn, Cầu Kinh, Long Vân Tự-Đồng Ông Cộ là mặt trận kéo dài từ mồng 3 tết tiếng súng hoà tiếng pháo mừng xuân. Chiến tranh đã thực sự hiện diện ở thành phố chứ không chỉ còn trên radio Đài phát thanh Sài Gòn hay BBC Luân Đôn ba tôi nghe mỗi 6h30 sáng, tối. Đạn pháo kích. Nhà cháy tan hoang. Dân Cầu Sơn, Cầu Kinh lội sông, gồng gánh nhau tràn qua, nhà tôi, bất đắc dĩ thành nơi tị nạn hơn trăm người. Trường học các cấp đóng cửa. Dì Ba đưa 4 đứa em tôi ra Vũng Tàu lánh đạn cả năm trời lưu lạc mà bây giờ mỗi khi nhắc lại, các em đều gọi đó là những ngày tháng “tuổi thơ dữ dội”. Tôi ở lại Sài Gòn với ba má, ngủ hầm tăng-xê chất đầy bao cát, đêm nghe đại bác ầm ì, đêm nhìn hoả châu rơi. Ngày bữa học bữa nghỉ rồi nghỉ dài hạn. Chiến sự kéo dài mở màn từ mồng 3 tết đến tháng 5. Năm đó tôi 12 tuổi ta, tóc còn hai bím đuôi gà, ngơ ngác nhìn rào kẽm gai và lần đầu tiên biết chiến tranh đang ở ngay bên mình khi ra vào bị mấy chú quân giải phóng đóng ngay trong chùa Long Vân chặn lại đuổi vào nhà.

Tôi lại thấy tôi mười hai. ngơ ngác
Giữa cầu Long Vân Tự, lạc mẹ lạc cha
Tiếng khóc chìm giữa dòng người hoảng loạn
Cầu Kinh. Cầu Sơn. rồi Đồng Ông Cộ…
Khắp nơi.
Súng nổ.
Nhà mình cháy rồi…
Ba ơi?

Má ơi?

-          Ba má con còn tróng đó, chú ơi!

Khi SG trở lại bình yên, cùng với những đổ nát ngổn ngang, trường học mở cửa lại. Không hiểu sao khó khăn trục trặc gì lúc đó ba má không cho tôi thi vào trường công mà ghi tên cho tôi nhập học lớp đệ thất trường tư thục Thánh Mẫu Gia Định. Thời đó, bên cạnh các trường công, trường Tây, Sài Gòn còn có các trường tư, và trường đạo. Trong hệ thống đó, ba tôi chọn trường đạo vì cho là trường có nề nếp kỷ luật nổi tiếng nghiêm khắc và cũng là trường thành tích cao có tiếng ở đô thành SG thời bấy giờ. Thánh Mẫu Gia Định là trường nổi tiếng kỷ luật nhất và gần nhà tôi nhất.

Bốn năm trung học đệ nhất cấp của tôi ngoài các giờ học với các Giáo sư Toán, Lý, Hoá, Anh, Sử, Địa…đáng kính, những Giáo sư Việt Văn: cô Thanh Mai (đệ thất, đệ lục), cô Tường Vinh (đệ ngũ, đệ tứ) đã hun đúc đam mê của tôi về những áng văn chuơng tuyệt tác của nước nhà, mà đến giờ tôi vẫn nhớ thuơng mỗi khi nghĩ đến, còn gắn liền với hình ảnh cây thước bảng của Soeur Stanilas và cha Tổng Phạm Văn Thăng. Mỗi sáng xếp hàng đi vào lớp, Sơ Stanilas với cây thuớc bảng cầm tay, hay kẹp nách…đứng ngay cầu thang kiểm tra trang phục. Bất kể mấy chị lớn đệ nhị cấp hay tụi con nít đệ nhất cấp như tụi tôi mặc áo dài mà không có áo lót là bị ghi tên vi phạm nội quy cuối tuần tĩnh tâm cấm túc, dọn vệ sinh, chép phạt…

Tôi vẫn nhớ về Cha Tổng Phạm Văn Thăng ngày ấy với chiếc áo chùng đen, rảo bước qua các lớp học hay sân trường đầu giờ, cây thước bảng trên tay lúc nào cũng có thể trừng phạt những trò vi phạm, lỗi lầm. Nặng tội nhất là trốn học. Tiếp đến là không thuộc bài, đánh lộn… Ngày ấy, tôi đứng cách xa xa Cha. Một chút kiêng dè. Một chút sợ sệt. Với tất cả sự tôn kính tuân phục. Cũng không biết và không dám tò mò gì thêm về cha ngoài nhiệm vụ Tổng Giám thị toàn trường. Cha nổi tiếng là đánh đòn nặng, trừng phạt nghiêm, không chút khoan nhượng với những trò hư hỏng. Nhờ vậy, Thánh Mẫu Gia Định nổi tiếng là một trường nam- nữ đều kỷ luật và học giỏi. Lạ kỳ, những đứa trò nhỏ thế hệ chúng tôi ngày ấy có bị đòn, bị phạt đau cỡ nào, oan ức cỡ nào cũng đều nghiêm khắc thành tâm hối lỗi sửa mình, tuyệt nhiên không oán thán, hận thù như thời bây giờ loạn xị “thầy không ra thầy, trò chẳng ra trò” tình tiền tù tội chen chân vào tận cửa lớp…!

 

Từ sau 1975, tất cả các trường bên đạo đều đóng cửa. Sau, Sở Giáo dục tiếp quản và đổi tên là trường Tiểu hoc Lam Sơn. Thầy trò TM cũng tan tác bao nhiêu là ngã rẽ, lặn ngụp cuộc mưu sinh, biền biệt tin nhau. Tôi cũng cùng trời cuối đất lưu lạc góc trời Nam. Mãi đến những năm cuối thập niên 90, sau 18 năm uống nước dòng Mekong, tôi được thuyên chuyển trở về Sài Gòn theo yêu cầu gia đình vì mẹ chồng già yếu đơn chiếc, tôi mới tìm lại được Cha và Soeur, thầy cô bạn bè mới tìm lại được nhau qua Nhóm Cựu học sinh TM. Bùi ngùi, tôi vừa kịp gặp lại Soeur Stanilas lần đầu sau 1975 và hai tháng sau đó, lần cuối tiễn người về nuớc Trời một ngày tháng 2 năm 2012.

Dẹp hết mọi sợ sệt thời tuổi nhỏ, tôi và Kim Phấn đã tìm thăm lại Cha qua Bạch Nguyệt và các bạn Cựu HSTM ở SG, quyết hẹn mỗi năm đúng vào ngày 31.12 chúng tôi sẽ đến thăm Cha. Đã 12 năm nay, dẫu bận rộn gì, ngày cuối cùng của năm ấy, chúng tôi cũng dẹp hết qua một bên, đều đặn đến bên Người không chỉ ngày cuối năm mà cả ngày lễ bổn mạng Giuse 19.3 hàng năm. Mỗi lần gặp Cha, quan niệm, nếp sống, những câu chuyện đầy yêu thương và đức hy sinh khổ hạnh xót xa cho mọi kiếp đời bất hạnh, chúng tôi lại đắng lòng thương Cha một đời tận hiến. Lại một lần chúng con tự suy niệm đời mình trăn trở bao điều chưa tốt chưa hay.

Rất nhớ kỷ niệm Sinh nhật thứ 90 và 60 năm thụ phong linh mục của Cha năm 2018. Đúng 19.3 lễ bổn mạng Thánh Giuse của Cha. Khi chúng tôi bước vào phòng, Cha đang một mình ngồi đọc nhật báo, vẫn minh mẫn và điềm đạm từ tốn hỏi thăm từng người, nhắc từng kỷ niệm. Duy có giọng nói đã bắt đầu hơi khó nghe! Lắng tai lắm mà có khi âm này nhịu sang âm khác...

Hàng ngày ở trong dòng Đồng Công Thủ Đức này cha không thiếu thốn gì. Đến bữa, các thầy lại sang đẩy cha qua phòng ăn, chăm sóc mọi sinh hoạt cho cha. Nhưng điều cha thiếu là thiếu người trò chuyện. Không có ai để giao tiểp. Có lần cha kể một linh mục sống ở nhà hưu trí HN một mình khong ai trò chuyện, lâu ngày, không còn nói được nữa... Thật đau lòng. Và bất lực.

Mọi người chúc mừng sinh nhật Cha. Cha nói đó chỉ là chuyện nhỏ. Cô Xuân hỏi việc lớn là gì, cha trả lời:

- Buồn thẹn vì đời mình lỗi hẹn với non sông, lỗi thề với giáo hội!

Rưng rưng nghe cha nhắc lại những khát vọng ngày nào ngỡ đất nước hoà bình độc lập tự do ai ai cũng cơm no áo ấm không còn cảnh đói nghèo. Nhưng, giờ vẫn còn quá nhiều người đói khổ không cơm ăn áo mặc không có tiền để đến trường. Quá nhiều trẻ em không có tiền bạc tập vở học hành. Cha đã đứng ra lập ba quỹ tương trợ cho bà con dòng Bác Ái. Quỹ sinh viên nghèo đã đuợc 1 tỷ 2, quỹ học sinh nghèo 800tr. Còn quỹ cho người nghèo tuỳ hoàn cảnh cha và cộng đoàn sẽ giúp. Ban đầu, biết cha có ý giúp đỡ các em hoc sinh sinh viên nghèo, một giáo dân sau khi bán nhà đi định cư đã hiến tặng mấy chục lượng vàng giúp cha lập quỹ và duy trì mở rộng đến ngày nay.

Cha trầm ngâm:

-          Một quả chuối 2/3000 đồng. Mỗi người chỉ cần nhín lại một ngày 1 quả chuối, một tháng sẽ có # 60.000, một năm 12 tháng… Vậy là một gia đình đủ đóng tiền trường đầu năm cho một em không phải bỏ học… Khó mà không phải khó…

Vâng, cha ơi, chúng con xin lĩnh ý tấm lòng Người và thực hành từ những điều giản đơn, nhỏ nhặt nhất: mỗi ngày bớt đi một quả chuối… cho 1 em không phải bỏ học…

 

Có lần, đến thăm Cha ở nhà hưu trí Hà Nội, thấy các trò biếu bao thơ tặng Cha,  Soeur qua phụ giúp kể rằng bNgài vừa bị trộm vào lấy hết tiền các học trò tặng, hình như mười mấy triệu. Hỏi có bắt được hay báo phường gì không, Cha cười nhẹ:

-          Thôi, bỏ qua… họ cũng khổ quá không còn đường nào sống mới phải đành vào nhà hưu các cha mà lấy trộm…

Tôi chợt nhớ lại hình ảnh cha Myriel trong Những người khốn khổ của Victor Hugo, vị linh mục ở một giáo xứ nhỏ tình D., đức giám mục Bienvenu, người đã sẵn lòng mở rộng cánh cổng ngôi nhà khiêm tốn nhưng đầy yêu thương của Chúa để cho một tên tù khổ sai vừa mãn hạn với tấm giấy thông hành màu vàng, bị coi là kẻ nguy hiểm, khắp nơi từ chối, xua đuổi, không tìm đuợc nơi nào dung thân, kể cả con chó trong một cái chòi hoang cũng gầm gừ chống lại, được tá túc trong nhà Chúa qua đêm. Chẳng những thế, ông còn cho Jean Vanjean một bữa tối ấm nóng, một cái giường có nệm và những tấm dra như mọi người mà 19 năm qua Jean chưa từng được hưởng. Vậy mà, nửa đêm, Jean Valjean đã lẻn đi cùng bộ đồ ăn bằng bạc duy nhất của nhà xứ. Cha Myriel đã không đuổi theo vì ông biết họ là một người nghèo cùng đường không lối thoát. Đáng nói hơn là cách xử sự của Cha khi ba tên sen-đầm giải kẻ trộm đến hỏi Cha có phải đồ của nhà thờ bị hắn trộm không. Ngài đã thản nhiên lấy tặng nốt cho Jean Valjean hai cây đèn bạc còn lại mà ông vẫn thích dùng để trang hoàng vào những ngày lễ trọng trước người cựu tù khổ sai đang run bần bật, sững sờ. Tôi còn xúc động mãi câu nói của ông: “Xin ông đừng quên, đừng bao giờ quên rằng ông đã hứa với tôi là sẽ dùng món tiền này để trở thành người lương thiện. Jean Valjean, người anh em của tôi, ông không còn thuộc về cái xấu nữa, tôi đã mua linh hồn ông và tôi tặng cho Thượng đế”.

Yêu thương là tha thứ.

Yêu thương là trao cho người khốn cùng một cơ hội để tự tái sinh.

Cha đã thực hiện lời Chúa qua cách chọn lựa thứ tha cho kẻ trộm cùng đường ấy từ cội nguồn yêu thương vô bờ bến đối với con người.

 

lần chúng tôi xúm xít đến thăm Cha, chuyện trò thăm hỏi rồi quay quanh chuyện giáo dục, Cha chủ động nhắc chuyện thời sự cô giáo bắt học trò quỳ, cha mẹ trò bắt cô giáo quỳ… đang xôn xao dư luận mấy tuần nay. Tôi nhắc lại câu chuyện bị phạt quỳ duy nhất dưới sân trường oan uổng giờ chào cờ vì rơi cái kẹp tóc quay xuống hàng sau nhờ lượm dùm 60 năm xưa, Cha cho là nói chuyện khi chào cờ, nên phạt… Cha vốn nổi tiếng nghiêm khắc. Ai cũng sợ. Đúng sai gì cũng răm rắp vâng lời nhận lỗi truớc đã… Cha từ tốn bày tỏ vì sao Cha phải nghiêm khắc. Tâm tình của cha đến bây giờ, lần đầu sau 60 năm vô trường Thánh Mẫu Gia Định chúng tôi mới được nghe, được thấu hiểu lòng Ngài... Triết lý của Ngài về Giáo dục và hình phạt thật xúc động. Nghiêm khắc mà từ tâm. Kỷ luật mà khoan dung. Có lý và có  tình. Bao nhiêu lần Cha cũng đau lòng vì phải trách phạt các học trò song không thể từ bỏ nguyên tắc. Người làm thầy không phải chỉ biết xử phạt mà cần tìm hiểu nguyên nhân nào dẫn đến vi phạm đó mà giáo dục, sửa đổi.  Có ai biết đứng trước một hoàn cảnh phải xử phạt để giữ nội quy, cha đã lặng lẽ đi bộ sau lưng cậu trò nhỏ tan trường từ Thánh Mẫu Gia Định Bà Chiểu về tới tận Ngã Tư Bảy Hiền hơn 6 cây số, để coi thử hết bao nhiêu phút... trò ngày nào cũng bị phạt vì đi học trễ. Hoá ra đoạn đường mỗi bận trò đi phài 1 tiếng 25 phút! Có ai biết cây thước bảng to mà trong một bài viết tôi có nhắc, cha chọn loại gỗ dòn chứ không dùng roi mây (vốn thớ dẻo dai khó gãy), quất mạnh một hai cây thôi là thước gẫy... cha có cớ để đi lấy roi khác, hoặc tha không đánh đòn đau mà chỉ răn dạy đôi lời... Có ai biết cha từng phải hò hét la mắng thật to ở một phòng trống cạnh phòng kế bên có trò bị phạt quỳ chờ xử. Thậm chí lấy thước bảng quất đen đét vào cạnh bàn, cạnh ghế... để cho cái đứa bị phạt bên phòng kia nó hoảng sợ mà chừa, mà không dám vi phạm nữa…

- Cha không nghiêm, không phạt, không kỷ luật sao được. Các con biết Sài Gòn này có hai trường nổi tiếng dạy dỗ kỷ luật. Quận 1 có Lasan Taberd nhưng toàn con công chức nhà giàu... Gia Định thì có Thánh Mẫu Bà Chiểu nhưng toàn con nhà nghèo, con người lao động, buôn gánh bán bưng, giữ đuợc khó lắm. Không nghiêm sao chúng chịu học? Mà thời loạn lạc, thi rớt tú tài, đi lính chỉ được làm binh nhì binh nhất sống chết mong manh…

“Thương cho roi cho vọt” thật đúng nghĩa phải không Cha. Thương sao mới thật là THƯƠNG. PHẠT sao mới thật là Phạt. Đâu có điều gì mới mẻ cao xa mà sao giáo dục hôm nay phá sản mọi tấm lòng, trách nhiệm và niềm tin…

Và, thật nghẹn lòng khi nghe Cha tách bạch từng nỗi niềm có lẽ giấu kín từ nửa thế kỷ nay chịu tiếng ác là người khó nhất trường:

- Có đứa vừa đi học vừa phụ nguời ta sửa xe kiếm tiền, tay chân quần áo lúc nào cũng lấm lem dầu mỡ nhếch nhác...không chỉnh tề đồng phục… Một hai lần đầu cha phạt. Khi biết trò khổ thế, cha giả vờ quay mặt chỗ khác để không phải phạt nó! Thấy mà không phạt thì sao giữ đuợc kỷ luật cho nghiêm!

- Có lần 10h đêm mà còn nghe học trò ở gần Nhà thờ rao mòn mỏi “Ai bánh chưng bánh giò đây…”, Cha không thể ngủ được, gọi nó vào, bảo bưng rổ bánh đến:

- Cha mua hết bánh cho, con cầm tiền về cho mẹ, học bài rồi đi ngủ, mai còn đi học.

 

Ôi. Chỉ có thể là tình thương yêu bao la vô bờ bến của Đấng Xót Thuơng.

 

Rưng rưng nhớ những ngày bị la bị phạt mà chúng tôi nên người hôm nay. Lần phạt quỳ oan uổng lớp đệ ngũ con nít lóc chóc khi chào cờ tôi từng trách cha dạo nào tôi đã quên bẵng từ lâu lắm rồi... Giờ chỉ còn lòng kính thương nể phục cha không biết nói sao vừa... Nghệ thuật sư phạm xuất phát từ tình thương và trách nhiệm của một Tổng giám thị trường tư ngày ấy... Có ai biết... Có ai bắt…Nhưng, chúng con mãi ghi khắc không quên, Cha ơi. Ra về mà lòng còn canh cánh. Cha một mình ở đó... Kiên cường chống chọi bệnh tật. Đôi chân đã không còn tự di chuyển được, ngày một hoại tử tím bầm, song Cha vẫn bình thản, phó thác cho sự quan phòng của Chúa.  Cha là người của hành động thiết thực. Sớm tối kinh kệ nguyện cầu không hẳn là điều cha muốn duy nhất. Người cứ dặn dò mãi trước mỗi lúc chúng con ra về:

- Các con hãy cố gắng làm điều gì có ích cho mọi người.

- Các con hãy giúp đỡ các học sinh nghèo hiếu học.

- Các con hãy làm điều gì có ích cho non sông đất nước...

- Giáng Sinh hãy dành cho người nghèo khó, đừng trang trí trưng bày lộng lẫy xa xí quá làm gì…Còn bao nhiêu người gầm cầu xó chợ…Nhiều nhà xứ bây giờ quá chú trọng hình thức mà phung phí…

 

Những điều canh cánh này, lần nào thăm, con cũng nghe người đau đáu nhắc đi nhắc lại như nỗi thiết tha trao lại thế hệ chúng con tiếp nối con đường khổ hạnh sớt chia người đã đi qua. Với con, mỗi lần thăm Cha là một dịp soi mình để mỗi giờ dạy của con, mỗi bài giảng của con, mỗi học trò của con được tiếp nhận tinh thần triết lý của lòng yêu thương bao la sâu thẳm mà Cha đã khiêm nhường lặng lẽ dạy bằng cả cuộc đời thấm nhuần ánh sáng thiêng liêng…

 

Giờ thì Cha đã đi rất xa… Cha đã về Nhà.

Cây thước bảng của Cha đã trở thành huyền thoại của Tình Yêu Đích Thực và Lòng Bác Ái vô bờ.

 

Ta khóc tạ ơn đời máu chảy

Ruột mềm như đá dưới chân ta...

(TTY)

 

Thị Nghè

11. 2024