Nguyễn Minh Nữu
Thương quá Sài Gòn ngày trở lại (10)

Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn – Tranh Đinh Cường
Bữa
cơm trưa ở Saigon Quán vào ngày 20.12.2015 không ngờ là lần cuối cùng
tôi gặp Đinh Cường. Buổi trưa đó, khi cùng Phạm Cao Hoàng đưa Đinh Cường
về nhà, ông không còn xuống xe đi từng bước ngang qua khoảng sân cỏ vào
nhà nữa, mà từ bên hông nhà, Đinh Trường Giang đi nhanh ra đón ông, dìu
ông đi từng bước chậm theo con dốc để vào nhà bằng lối sau. Nhìn dáng
đi liêu xiêu của ông xuống con dốc nhỏ vào nhà, trước mặt là cánh rừng
Natick mùa đông cây khô trụi lá, lòng tôi buồn hiu hắt.
26.12.2015,
tôi cùng gia đình về Việt Nam, đem theo trong hành lý hai món quà Đinh
Cường gửi về cho Hoàng Kim Oanh và Elena Trương, mang theo trong lòng
mình lời dặn dò của Đinh Cường: "Ông đi cuối tháng giêng về nhe, giữa tháng hai ông đi với tôi về triển lãm tranh ở Saigon đó".
Mười
ngày sau, khi đang ở Saigon, tôi bàng hoàng nhận được tin Đinh Cường
qua đời. Vậy là cái hẹn triển lãm tranh ở Vincom không làm được, vậy là
khao khát có những buổi thảnh thơi ngồi quán cà phê nhìn qua nhà thờ
Đức Bà không làm được, vậy là muốn "Tôi về đứng ngẩn ngơ" cũng không làm
được... Tháng cuối năm giáp tết Nguyên Đán ở Saigon trời nắng như thiêu
đốt, tôi đứng trên lầu cao nhìn dòng người như thác đổ di chuyển dưới
đường mà mặt nhòe đi, thèm quá và nhớ quá cơn gió hắt hiu của khu rừng
Natick. Anh Đinh Cường ơi , anh không về được Đơn Dương trước ngày vĩnh
biệt thì tôi sẽ về, anh không về Lạc Lâm để "đứng ngẩn ngơ" thì tôi sẽ
về, về như để nhớ đến anh, "người thi sĩ của hoài niệm."
Khoảng
15 năm trước, thời điểm những năm cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21, khi
đó Phở Xe Lửa còn sầm uất lắm, anh Nguyễn thế Toàn chủ nhân của Phở Xe
Lửa với nụ cười ý nhị và sảng khoái đón bằng hữu khắp nơi ghé về ăn tô
phở nhà thơm ngon và ly cà phê pha theo kiểu miền Nam Việt Nam đậm đặc.
Cái bàn tròn nằm sát vách là nơi dành riêng cho các thân hữu, nơi bàn
này, khách ghé tới là những người mà ông Toàn khẳng định là " bạn tôi"
với giọng Thái Bình đặc sệt và kéo dài. Khách ghé đây có thể đã no
bụng vì đã ăn món gì đó từ nơi khác, cũng có thể chẳng uống một ly cà
phê nữa, nhưng vẫn được ông Toàn nồng nhiệt pha một ấm trà nóng thân
thiện mời chào, khác hẳn với những thực khách khi vào ngồi ở các bàn
khác, vào là phải kêu món ăn, phải gọi nước uống. Ở bàn này, tôi đã gặp
gỡ với rất nhiều những tên tuổi văn học nghệ thuật từ khắp nước Mỹ ghé
về vùng Hoa Thịnh Đốn .
Hầu
như ai cũng nghĩ rằng về tới Hoa Thịnh Đốn mà chưa ghé lại Phở Xe Lửa
thì chưa đủ. Không phải riêng nước Mỹ đâu, mà ở cái bàn này, tôi có dịp
gặp rất nhiều tên tuổi từ Úc, Pháp, Hòa Lan, Đức, Bỉ , Đan Mạch và cả từ
Việt Nam nữa. Chỗ ngồi đó là nơi gặp gỡ nhiều người, nhưng thường xuyên
ghé tới mỗi ngày là bạn hữu trong vùng chúng tôi, bây giờ nhiều người
không còn nữa như Giang Hữu Tuyên, Huyền Trân, Phan Nguyện, Ngô Mạnh
Thu, Đỗ Ngọc Yến, Nguyễn Đức Quang, Nguyễn Xuân Hoàng, Quỳnh Dao, Lê
Thiệp, Vũ Ánh...
Cũng
từ góc bàn này, tôi nhìn thấy Đinh Cường lần đầu. Tranh và tên tuổi của
Đinh Cường thì tôi nghe và yêu thích từ những năm còn ở tuổi mới lớn.
Hồi đó, khi đang học những năm chót của bậc trung học, chúng tôi đã có
nhiều lần bỏ lớp ra ngồi quán cà phê nghe nhạc Trịnh Công Sơn và chuyền
tay nhau những tập nhạc hình vuông, nhạc Trịnh Công Sơn với tranh bìa
và phụ bản của Đinh Cường.
Khi lớn hơn chút nữa, bước vào đời lính và làm thơ gửi đăng báo, có lần cả bọn ngồi với nhau và nói đùa rằng chẳng cần làm thơ hay, chỉ làm sao đạt được bốn điều sau đây thì sẽ nổi danh: có thơ in ra với An Tiêm xuất bản, Tạ Tỵ vẽ chân dung, Phạm Duy phổ nhạc và Đinh Cường vẽ bìa.
Họa
sĩ Đinh Cường mà tôi gặp ở Phở Xe Lửa hồi đó là một người ít nói, cũng
không phải là người hay cười, nhưng nhìn là có cảm tình vì tia mắt
thân thiện và khuôn mặt tươi tắn . Mỗi tuần anh đều ghé Phở Xe Lửa một
vài lần, có khi là đến để hẹn gặp một ai đó, có khi đến để ăn một tô phở
nóng và trò chuyện thân mật với mọi người. Thường thì anh đi với một
người bạn: nhà văn Phạm Thành Châu. Phạm Thành Châu hay nói đùa rằng:
“Người ta gọi Đinh Cường là Đại Họa Gia, và gọi tôi là Tiểu Thuyết Gia,
cho nên gọi ngắn gọn thì đây là ông Đại và tôi là ông Tiểu”.
Năm
2004, tôi đự định in tập thơ đầu tay. Tôi nói với Giang Hữu Tuyên là
tôi muốn có một bức tranh của Đinh Cường để làm bìa, và nhờ Tuyên nói
với anh Cường giùm. Tuyên ngạc nhiên hỏi sao ông không xin anh Cường.
Tôi nói mới quen, chưa đủ thân tình, tôi sợ anh Cường từ chối. Tuyên lắc
đầuvà cho tôi biết rằng có những người làm thơ lạ hoắc từ tiểu bang
khác mà Đinh Cường chưa hề quen, nhưng khi ngỏ ý xin bìa Đinh Cường đều
giúp nhiệt tình. Đinh Cường là vậy, anh yêu quý và trân trọng tất cả
những người hoạt động về nghệ thuật.
Dù Giang Hữu Tuyên nói vậy nhưng tôi vẫn không tự tin nên nhờ Tuyên đưa tôi đến nhà Đinh Cường.
Đúng
như Giang Hữu Tuyên nói, Đinh Cường vui vẻ nhận lời và đưa tôi một loạt
tranh mới vẽ để tôi chọn. Tập thơ của tôi có tựa đề là LỜI GHI TRÊN ĐÁ.
Đinh Cường đưa tôi một nức tranh màu xám trông giống như một vách đá
dựng với một mặt trời vỡ đôi và khuôn mặt người màu đen trầm mặc. Ông
lấy màu xanh dương vẽ thêm như một dòng nước biển, rồi ký tên, ghi tặng
tôi bức tranh. Khi đưa tôi và Tuyên xuống tầng hầm, Đinh Cường nhẹ
nhàng chỉ vào những bức tranh treo trên vách: tấm này vẽ Trịnh Công Sơn
hồi năm 68, tấm kia là Bùi Giáng hồi năm 70, tấm nọ ký ức với Nguyễn
Đức Sơn năm 73..... đây là các số Sáng Tạo cũ, kia là tập san Văn ...
những lưu trữ và quẩn quanh trong đời sống thường nhật của Đinh Cường là
những kỷ niệm, những tình thân nồng nàn ông giữ lại từ bằng hữu . Trong
lúc tôi và Tuyên chăm chú xem từ cái này qua cái nọ, Đinh Cường đã ngồi
xuống bàn và nhanh chóng phác thảo chân dung tôi. Cầm trên tay bức
tranh làm bìa và bức phác thảo chân dung, tôi run người vì cảm động. Tôi
hiểu tấm lòng của người họa sĩ tài ba và tôi hiểu thêm cách đối nhân xử
thế rất tinh tế của một đàn anh trong văn nghệ.
Sau lần gặp gỡ này, tôi có nhiều dịp gặp anh nhiều hơn, khi thi cà phê Starbucks, khi thì đi ăn tối cùng nhau.
Đinh
Cường là một họa sĩ nổi tiếng từ nửa thế kỷ nay. Tranh của anh có một
phong cách riêng, sang trọng và huyền ảo, khồng cần có chữ ký người yêu
tranh vẫn có thể nhận ra nét vẽ của Đinh Cường. Tôi rất thích nhận xét
của Đỗ Xuân Tê về tranh Đinh Cường:
"Vẫn
chiếc áo dài truyền thống décolleté, vẫn mái tóc nửa thề nửa thõng, ít
khi cắt ngắn, vẫn đôi mắt hơi ướt đượm buồn, dù đứng, dù ngồi, dù nằm,
dù tựa dù dựa vào nhau, trong quán cà phê hay ngoài công viên, bên bờ
sông Hương hay trên sườn đồi Dran, giữa cảnh thu về miền Virginia hay
cảnh tuyết rơi bên hồ vùng Đông Bắc, những phụ nữ trong từng tác phẩm
vẫn thể hiện được những nét riêng mà tài tình ở chỗ qua ánh mắt, khóe
miệng, vầng trán, ngấn cổ, vòng tay, bàn tay, ngón tay, bộ ngực, vòng
vai tưởng chừng như cùng khuôn đúc nhưng vẫn tráng lên những nước men lạ
làm cho người đàn bà trong tranh của Đinh Cường mang dấu ấn của một phụ
nữ huyền thoại có thể là chỉ sáng tạo cho riêng anh mà sau này lại là
của chung cho giới hâm mộ, nhưng độc đáo ở chỗ không ai có thể bắt chước
trong sáng tác và cũng không thể lập lại hoàn toàn bắng chính tác giả
trong những tác phẩm sau"
Từ
vài năm nay Đinh Cường có thói quen ghi nhật ký thơ hằng ngày... Thật
ra, anh làm thơ rất sớm - ngay từ đầu những nâm 60 anh đã có thơ đăng
trên các tạp chí văn học ở Sài Gòn
Không
phải chỉ trong những trang nhật ký thơ mà Đinh Cường viết xuống mỗi
ngày, mà ngay trong trò chuyện, lúc nào cũng là những cảm xúc nối tiếp
nhau với một trí nhớ tuyệt vời. Lãng đãng trong Đinh Cường là những đồi
thông bạt ngàn của Dran, Bảo Lộc với những khuôn mặt bạn bè và những kỷ
niệm ở đó:
"luôn nhớ con đường chạy về Trại Hầm
Trại Mát - Đa Thọ - Cầu Đất - Trạm Hành
đến Dran, qua đèo Eo Gió xuống Sông Pha
ôi một thời suốt đêm ngồi nghe gió hú
suốt đêm chong ngọn đèn khuya
vẽ cho tới sáng, thời ấy còn đâu
sao chiều nay trong quán Le Blédo nhớ lại
như Nữu nhớ thời nhà binh ở Ban Mê Thuột
Phạm Cao Hoàng nhớ thời dạy Trạm Hành
tôi nhớ Đơn Dương thời ham mê cô tịch
giữa núi rừng chỉ thấy trăng sao
chỉ có trăng sao là đáng kể, lấp lánh đôi mắt em"
(Chiều thứ bảy ở quán Le Blédo)
Dòng
suy tưởng của Đinh Cường luôn luôn đưa anh về với ký ức, và là một ký
ức thật đẹp, nối liền nhau từ hình ảnh này qua hình ảnh khác, từ đang
ngồi vẽ một đàn chim bay, bất ngờ liên tưởng tới một người bạn cũ là Tô
Mặc Giang, từ đó nhớ qua Diên Nghị, Kim Tuấn, Nguyễn Xuân Thiệp, Trịnh
Công Sơn, Tạ Tỵ, Huy Phương.....
Đinh
Cường có một trí nhớ rất đặc biệt. Anh nhớ từng chi tiết của những câu
chuyện cũ cách đây cả nửa thế kỷ. Có lần, trên xe anh hỏi tôi có coi
chương trình Thúy Nga mới không, tôi nói có. Đinh Cường cười và nói
với tôi rằng ông Nguyễn Ngọc Ngạn nói sai một chi tiết nghệ thuật: bức
tranh "Chúng ta đi mang theo quê hương" là một bức tranh đẹp , từ
tác phẩm tới cái tên, và sau này cái tên của bức tranh đó được sử dụng
cho một chương trình ca nhạc, bức tranh đó không phải của Nguyễn Gia
Trí như lời ông Ngạn nói , mà là của Phạm Tăng, vẽ và làm bìa cho số
xuân nhật báo Tự Do xuất bản tại Saigon năm 1956.
Cái
thú vị là những kỷ niệm nào của Đinh Cường cũng là những kỷ niệm đẹp,
ngát thơm từ ký ức, là những chí tình bằng hữu cho nhau.
Tôi
lên đến Đà Lạt lúc ba giờ khuya. nghỉ tạm ngoài phố rồi sáng hôm sau
ghé Nguyễn Dương Quang. Khi tôi đến, Nguyễn Dương Quang vừa ngủ dậy, ân
cần mời vào nhà. Nguyễn Dương Quang có dáng dấp của một hào sĩ giang hồ
một thời ngang dọc. Tôi gặp Nguyễn Dương Quang lần này là lần thứ ba
nhưng biết về nhau thì nhiều lắm vì Quang là bạn thân của những người
bạn thân của tôi. Nhớ đến Phạm Cao Hoàng khi nói về Nguyễn Dương Quang
với bài thơ nổi tiếng "Đêm cuối năm viết cho Má" và mô tả đó là "một
con người cương trực thẳng thắn, nhanh nhẹn, tháo vác, sống đàng hoàng,
và đặc biệt chơi với bạn rất tốt".
Trò chuyện một lát, tôi cho Quang biết chỉ ghé thăm nhanh rồi tôi còn phải đi Đơn Dương.
-Đi Đơn Dương chi vậy, có người quen ở đó à?
-Không, chỉ là muốn đến thị trấn đó để nhớ về một người.
-Đinh Cường?
Tôi
gật đầu. Quang cho biết thời gian Đinh Cường nằm xuống thì bên này ông
cũng chịu một cái tang lớn, thân phụ của ông cũng vừa lìa trần Là con
trai duy nhất của dòng họ, tang lễ lại làm từ miền quê xa nên vợ chồng
ông chạy tới chạy lui đuối sức.
Khi
đó, chị Thái Hồng từ trong bước ra chào hỏi, Tôi ồ lên vui vẻ, hỏi
Nguyễn Dương Quang có phải đây là nguồn gốc của hai câu thơ:
"Vói tay cao hết sức mình
Níu cao nguyên xuống để nhìn thấy em." (1)
Quang cười, quay lại hỏi chị Hồng , "Anh Nữu muốn đi Đơn Dương thăm lại vùng đất thiêng của Đinh Cường, bà nghĩ coi chiều nay mình đi được không?" Chị Hồng cười , "Ông hỏi vậy là ông cũng muốn đi phải không? Ông muốn đi thì mình cùng đi."
Quyết
định của Nguyễn Dương Quang làm tôi bất ngờ. Tới thăm Quang và gửi
Quang mấy cuốn thơ mà ông mới in bên Mỹ là xong. Nhưng ngồi nói chuyện
mới biết thêm cái giao tình của ông với Đinh Cường đằm thắm hơn nhiều.
Tuyển tập về Dran "Tự Tình Cùng Sương Khói" mà Nguyễn Dương Quang và
Nguyễn Sông Ba làm vừa rồi chính là thực hiện ao ước của Đinh Cường. Cho
nên cái ý tưởng đi Đơn Dương như một cách tưởng nhớ tới Đinh Cường làm
Quang quyết định tham gia chuyến đi. Quả là con người hào sảng, chí
tình và hết lòng vì bạn. Người lái xe là con trai lớn của Nguyễn Dương
Quang tên là Hòa. Hòa cao to, khuôn mặt góc cạnh và hiền , ít nói, nhưng
cách cư xử tỏ ra người tế nhị, thương yêu Ba Mẹ và quý trọng bạn bè
của Ba Mẹ. Hòa chọn một lộ trình đi và về không giống nhau, nhằm giúp
người phương xa có dịp nhìn Đơn Dương từ nhiều phía. Cám ơn Hòa.
Đơn Dương với tôi chẳng những xa mà còn lạ nữa. Chưa bao giờ đến Đơn Dương dù nghe nói thật nhiều.
Đơn
Dương có tên từ năm 1958 khi thành lập tỉnh Tuyên Đức nhưng nhiều
người vẫn quen gọi theo tên cũ là Dran. Dran là một thị trấn nhỏ nằm ven
hồ Đa Nhim. Khi xe chạy quanh co trên đèo từ Đà Lạt xuống, Hòa dừng lại
và chỉ cho chúng tôi nhìn xuống thung lũng, nơi đó xanh ngắt mặt hồ Đa
Nhim bên cạnh là những dãy nhà nằm uốn theo sườn đồi thoai thoải, phong
cảnh như một bức tranh. Đẹp quá, chúng tôi xuống xe, đứng nhìn mê mải
và nhớ:
Một mình ta và trời đất rộng
Ôi chiều lạnh lùng chiều Đơn Dương
Những trái su xanh trên giàn rẫy đó
Hãy ngả mũ chào một bày két hoang
(Đinh Cường - Cho những trái su xanh)
Nhìn
Dran từ trên cao, nhìn mê đắm không muốn rời đi. Nguyễn Dương Quang
nhắc tôi chụp vài tấm hình kỷ niệm rồi đi, còn phải ghé qua Trạm Hành,
Cầu Đất, Lạc Lâm, và cả con đường đi sâu vào Kado, nơi ngày xưa Đinh
Cường và Trịnh Công Sơn một thời lang bạt. Chúng tôi lên xe chạy ngang
qua nhà thờ Lạc Lâm. Dừng lại để nhìn thấy ngọn đồi phía sau nhà thờ,
nơi dựng cây thánh giá trắng mà in dấu nhiều lần trong tranh Đinh Cường,
và cả trong thơ Đinh Cường nữa:
Đêm trở lại Dran phố chợ lên đèn
rừng thông đứng ngóng mây về che phủ
...
ngang qua Lạc Lâm một thời rẫy bái
đồi Golgotha thánh giá trắng trên cao
tháng mười một gió từng cơn lạnh
trời xanh đen ứng rạng mấy vì sao..
(Đinh Cường - Đêm trờ lại Dran)
Quang chỉ cho tôi một khu nhà làm bằng gỗ và nhắc:
Ví dụ tôi đến căn nhà gỗ thông
ở Lạc Lâm tìm dấu tich em
không thấy bình trà đất nâu
mấy ly vàng ố, cái tàn thuốc
lâu ngày không đổ...
...
Ví dụ tôi trở lại không còn giàn su xanh
chiều Lạc lâm mưa buốt tháng mười hai.
...
Ví dụ tôi về đứng ngẩn ngơ
mây núi buổi chiều bay xuống thấp
mái tóc em khuôn mặt em buồn
lâu rồi chưa về lại Đơn Dương.
(Đinh Cường - Bài nhớ Lạc Lâm )
Tôi
bước xuống xe và đi lên đồi, Nguyễn Dương Quang nhẹ nhàng kể về cuốn
sách vừa thực hiện, tuyển tập thơ văn Tự Tình cùng Sương Khói.
Dran
cách Đà lạt 36 km, một thị trấn quận lị nhỏ, núi bao quanh đầy sương và
đẹp. hầu hết những người góp mặt trong tập sách này đều đã xa
Dran....là những cảm xúc chân thật về một thời xa xưa của mình, một thời
phủ quanh mình sương khói của Dran....(2)
Đúng
vậy. Có người xa và nhớ về, rồi cũng sẽ về, nhưng cũng có những người
xa Dran, nhớ về Dran mà mãi mãi chẳng thể trở về. Tuần này là cái thất
thứ ba của người Họa Sĩ đã sống ở Dran một thời nhưng mang theo Dran
suốt đời, đã biến sương khói nơi đây thành màu sắc bất tử trong tranh và
thơ của ông.
Tôi nhìn qua thấy mắt của Nguyễn Dương Quang rơm rớm lệ và khoảng trời phía sau ông ta cũng nhạt nhòa sũng nước.
Vì sao nhớ hoài về Đơn Dương
vì nơi ấy có phố rất buồn
nơi ấy có nhà bưu điện nhỏ
gửi bao nhiêu lá thư dễ thương....
...
Người ra gửi ấy nay không còn nữa
còn nghe những tiếng hát muôn trùng
còn đây xanh mướt rừng dương xỉ
dưới trăng mờ ôi trăng Đơn Dương
(Đinh Cường-Một lần về thăm lại nơi cũ)
Đứng
ngơ ngẩn bên cạnh gốc thông già giữa núi đồi Dran, tôi gọi thầm tên
người họa sĩ tài hoa ở rừng Natick. Không cần phải ví dụ nữa đâu anh
Đinh Cường ơi! Tôi tin rằng từ nơi xa tít tắp đó anh đang về trên miếu
mạo đình đài rêu phong của Huế, anh đang về với ngôi trường mái đỏ của
Thủ Dầu Một, anh đang về quanh sân của nhà thờ màu hồng ở Tân Định và
chắc chắn đang về với rừng thông ngút ngàn sương khói, với mặt hồ xanh
ngắt Đa Nhim, về với giàn su xanh, về với bầy két hoang sau vườn nhà gỗ,
về với cổng nhà nhà thờ có tháp cao Cầu Đất, về với nhà bưu điện dìu
hiu Đơn Dương và về với muôn ngàn kỷ niệm bạn bè từng qua ở thị trấn
Dran...
Mà
có cần về nữa không khi toàn bộ núi đồi sương khói đó anh đã mang theo
và thường xuyên thể hiện bằng trí nhớ trên biết bao tranh và thơ? Vĩnh
biệt Đinh Cường là vĩnh biệt cái dáng đi chầm chậm và cặp mắt sáng ngời
trên khuôn mặt hiền từ. Nhưng lại hiện thực trong tôi hình bóng một Đinh
Cường của thời rực rỡ nhất khi sáng lập Hội Họa Sĩ Trẻ Việt Nam, là
hình ảnh cầm trên tay cái ống píp nhả khói vào không gian, là cái nón
nỉ, khăn quàng sọc cam, có con két xanh, có hoa hồng đỏ, vầng trăng bạc
trôi lênh đênh giữa núi đồi Dran. Nhắc lại mà sao thương nhớ quá!
Trời
ngả về chiều, Chúng tôi còn nán lại uống tách cà phê trước chợ Dran.
Anh Đinh Cường ơi! Từ núi đồi Dran tôi đang nhớ về anh và khu rừng
Natick.
Nguyễn Minh Nữu
Tháng 2 /2016
(1) Thơ Nguyễn Dương Quang.
(2) Lời mở đầu tuyển tập Tự Tình Cùng Sương Khói