VI KHUÊ ( 1931-2018).
Vi Khuê còn có các bút hiệu Ðoàn Văn, Nguyễn Thị Bình Thường,
Ðào Thị Khánh, Tên thật Trần Trinh Thuận, sinh năm 1931 tại Thạch Bình,
Ngũ Xã, Thừa Thiên. Cử nhân văn chương Việt Hán, nguyên hiệu trưởng trường
trung học tư thục Văn Khoa, Ðà Lạt. Bà và gia đình sang Mỹ định cư tại tiểu bang Virginia vào năm 1975. Ngoài sáng tác thơ văn, bà còn cùng các con mở
các lớp Việt Ngữ lấy tên là Trường Việt
Ngữ Thăng Long dành cho con cháu người Việt định cư trong vùng.
Thi phẩm đã xuất bản: Giọt lệ (1971), Cát vàng (1985), Tặng phẩm tình yêu (1991), Hoa bướm vườn thơ tôi (1994). Bà qua đời tại Virginia vào năm 2018.
CHIỀU SIÊU THỊ .
“Người đàn bà mặc
quần đen” mặt tái ngắt, cắt
không ra máu. Đứng trước quầy trả tiền, chị nghe rõ tiếng người đàn
ông Mỹ từ đâu bước tới nói nhỏ vào tai thu ngân viên: “Người đàn bà Á đông mặc quần đen.”
Sau khi anh ta bỏ nhỏ như thế thì người tính tiền đưa mắt kín đáo
nhìn chị, rồi ném cái nhìn qua phía lô thịt bò chị vừa sắp lên mặt quầy.
Bỗng dưng, chị có cảm tưởng bao nhiêu con mắt chung quanh đều đổ
dồn lên mặt chị. Mắt hoa lên, chị
không trông thấy gì nữa hết, và ngã khụy xuống, bất tỉnh. Một phụ nữ
da đen đến dìu chị ra khỏi quầy hàng, vì đang đến phiên người khác. Người ta đẩy chiếc xe đựng đầy thực phẩm
chị đã mua vào một góc, cạnh đó,
trong khi chờ đợi chị tỉnh lại.
Tôi mới vào chợ chưa mua bán gì, nhưng đã đến đứng gần đó, gần
chỗ có những tấm yết thị, quảng cáo vặt, để tìm một bà giữ trẻ hộ hàng xóm. Và, do linh tính,
tôi đã theo dõi câu chuyện được từ
đầu.
Thấy chuyện lạ, tôi hỏi nhỏ người thu ngân:
“Chuyện gì xảy ra cho bà ấy vậy?” Thu ngân viên, một thanh niên da trắng
có bộ râu quai nón và cái miệng
rất tếu, trả lời tôi nho nhỏ: “Bà ấy đổi giá tiền dán trên mỗi gói thịt bằng
những giá tiền rẻ hơn, lột từ những gói khác, và đã bị trông thấy.”
Trời ơi, thảo nào chị ta ngất xỉu. Tội nghiệp chưa!
Tôi nhìn qua phía tội nhân, đang được người ta đỡ lấy cái đầu cho tựa
vào tường. Mắt nhắm nghiền trong
trạng thái hôn mê, môi má nhợt nhạt, và cái quần tây màu đen, bỗng
dưng, lần đầu tiên, cho tôi cái cảm tưởng nghèo nàn, ảm đạm làm sao. Người đàn bà nhỏ thó da vàng. Đó
là một người Việt Nam, tôi dám chắc vậy. Tôi cảm thấy nhột nhột ở đầu mũi, và có cảm tưởng tất cả mọi
người chung quanh đều đang nhìn
vào tôi: Tôi, một người đàn bà Việt Nam như người ấy;
Tôi, một người đàn bà Việt Nam cũng đang mặc quần tây màu đen như
người ấy, cái màu đen nhã nhặn
khiêm tốn mà đã từng được một người ngoại quốc nào đó ca ngợi trong
tác phẩm của ông ta như là biểu
tượng cho sự cao qúy của người Việt Nam.
Những người đàn bà đi chợ khác, hôm nay, ở siêu thị này, không ai
mặc quần đen. Họ mặc màu xanh,
màu hồng màu vàng, và cả màu đỏ nữa. Tôi đứng chết trân ra đó, và lần
đầu tiên, cảm thấy cả sự tối tăm,
nghèo nàn của cái màu đen ít được ưa dùng ở xứ này. “Người đàn bà Á
đông mặc quần đen” đã ăn cắp.
Shoplifting, tội nặng lắm, chứ không phải chuyện chơi. Ăn cắp của tư bản
còn nặng tội hơn ăn cắp của công,
và phải bị trừng phạt đến nơi đến chốn cho cạch đến già. Tôi đã từng
chứng kiến ở đây, hơn ba lần, những vụ còng tay kẻ cắp vặt thật khủng khiếp: bỗng dưng, nghe tiếng còi xe
cảnh sát hú lên ghê rợn, rồi xe xịch đổ ngay trước cửa tiệm, cảnh sát viên cao lớn oai vệ tiến thẳng tới kẻ
gian vừa bước ra khỏi cánh cửa tự
động, và không ngờ mình đã bị phát giác. Lén giấu một vật gì đó, bước
ra cánh cửa out là tưởng thoát rồi.
Ai ngờ “thiên lôi” ập đến, chiếc còng sắt dày cộm khóa lấy hai tay, và
hai hàng nước mắt tủi nhục tuôn ra...
Tôi đã thấy ở đây, lần thứ nhất, một người Tây phương mặc áo
linh mục bị còng tay. Một vị linh mục, chứ không phải là một người thường. Mà bị còng tay vì tội ăn cắp, ăn cắp
vặt thôi! Ông cha giữ được vẻ mặt
bình thản khi quyển sách dày có gáy mạ vàng được lôi từ trong cặp ra.
Ông giải thích:
“Tôi mua quyển sách này cùng với nhiều đồ vật khác. Tôi trả tiền
tất cả, nhưng quyển sách này
...không hiểu vì sao...Ôi, tôi không hiểu vì sao...tôi lại quên, và theo
thói quen thường nhật, tôi đã tự động cho nó vào cặp! Ôi Thiên Chúa! Đến một kẻ khờ khạo nhất cũng hiểu rằng
đây là sự sơ ý.”
Nhân viên công lực cười cười:
“Xin Cha thông cảm. Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật.
Mặc dầu tin lời Cha nói, chúng tôi vẫn phải thi hành luật như thường.”
Linh mục bị còng tay trước sự quan chiêm của các bà nội trợ đa cảm
đứng nhìn theo, ứa nước mắt. “Oh
my God! Oh my God!”
Lần khác là một chị da đen. Chị to lớn nặng nề lại trang phục diêm
dúa, khoác khăn “san” màu hồng,
như vừa đi dự tiệc về. Cảnh sát ập đến, ngay khi chị
vừa mở xe hơi leo vào một chân rồi. Chị này đanh đá lắm, cong cặp môi
dài nửa inch lên:
“Ô hay! Tôi ở ngoài tiệm, ông có quyền gì bắt tôi?”
“Chúng tôi đã được báo là bà lấy một cái minicassette cho
vào tay áo rộng rồi đi ra không trả tiền. Thôi, đưa tay đây!”
Người ta vứt tấm khăn “san” xuống đất, thò tay vào cánh tay áo rộng
có khuy bấm ở cổ tay, lôi ra một máy thu âm nhỏ xíu bằng bàn tay.
“Ô hay! Cái này của tôi từ nhà mang theo. Chứng cớ gì?”
“Chị từ nhà mang theo, làm sao tôi biết nó nằm đây?”
Ấy vậy mà chị da đen tưởng là bản lãnh lắm òa ra khóc. Mấy đứa con
nhỏ đầu quăn tít thao láo những
cặp mắt sáng rực nhìn “kẻ độc ác” đang còng cái vòng
sắt ghê gớm nối liền hai cổ tay mẹ chúng. Thôi, đằng nào thì mẹ cũng
phải nằm ấp vài tháng, với bản án lưu xú muôn đời trong hồ sơ cá nhân, vào tù chơi rồi lại ra thôi, nhưng từ
nay thế là thân bại danh liệt với bà con bạn bè. Chị bật lên những tiếng khóc tức tưởi làm rung chuyển bộ ngực
vĩ đại. Rồi thì chị lên xe cảnh sát, xe rú lên từng hồi ghê rợn để làm khiếp đảm nhân tâm. Mấy đứa nhỏ
tội nghiệp nuốt hận leo lên xe theo lệnh anh cả chúng, một cậu lỏng khỏng với cặp giò dài lêu khêu...
Rồi thì còn mấy vụ nữa mà tôi chứng kiến, đến nay còn vang dội
trong đầu óc cái tiếng còi ma quái mỗi khi tôi đi ngang qua siêu thị thấy tấm bảng: “Everyone pays dearly for
shoplifting.”
Ông Cha Mỹ và bà da đen đối với tôi là những người ngoài. Nhưng còn
“người ăn cắp” hôm nay, một phụ
nữ Việt Nam da vàng, nhỏ thó, tóc đen, và mặc quần tây đen như tôi.
Những người Á đông trong siêu thị
này, hôm nay, cũng không ai mặc quần màu đen.
Thường là họ ưa màu sắc tươi sáng: một bà cụ Tàu mặc bộ áo quần gấm
màu tím, một cô đạo Hồi mặc áo
dài tương tự áo Việt Nam, màu xanh nước biển, và quần cũng đồng
màu.
Người đàn bà dần dần tỉnh lại, mở mắt lơ láo nhìn chung quanh, dáng
điệu an phận. Lo lắng, tôi hỏingười tính tiền:
“Bây giờ tính sao với bà ta?”
“Bà đừng lo.” Anh ta nhìn tôi một cách thông cảm. là khách hàng thường
trực của Giant Foods, tôi biết
anh ta là một sinh viên y khoa năm thứ hai, ngoài giờ đi học, đi làm
bán thời gian ở tiệm này.
Các thực phẩm chị đã mua vẫn còn nguyên trên xe đẩy, nổi bật là
lô thịt bò, nhiều đến mười tảng. Gọi là tảng vì đây là loại bíp-tết dày, không chiên theo lối quick-fry hoặc là
beef-steak thường, mà phải chiên theo lối Chateaubriand, dùng chảo sâu cho dầu ngập mà chiên, để cháy
bên ngoài mà thịt bên trong vẫn hồng đào.
Tôi nhìn người đồng hương, ái ngại. Trạc tứ tuần, nhưng chị không
trang điểm, nên trông già trước tuổi.Giờ đây thì tiều tụy, xác xơ: chị đã biết
bị phát giác với lô thịt
bò. Gian lận sao đây? Tôi vẫn đứng cạnh quầy tính tiền, chăm
chú theo dõi nội vụ. Sao mà anh bạn trẻ lại dám hứa “Bà đừng lo?” Tôi tin cậy lời anh ta, đã thường tỏ ra rất
đàng hoàng. Liền đó, anh ta nói với chị đồng hương của tôi:
“Người ta ở trên lầu nhìn vào máy thu hình ở trên đó đã thấy bà gỡ
giá tiền từ loại hai, ba đồng tráo qua loại bảy, tám đồng. Nhưng người ta quyết định lơ cho bà lần đầu, vì có
lẽ bà mới tới nước này nên chưa biết sự nghiêm trọng của shoplifting. Bà có hiểu lời tôi nói không?”
Thiếu phụ gật đầu, mí mắt rung động, ngỡ ngàng. Tôi đoán chị
không hiểu được hết, nhưng đã đoán
được. Người tính tiền nói tiếp:
“Bây giờ người ta lấy lô thịt bò này ra cân lại và dán giá tiền thật của
nó vào. Bà trả tiền y như vậy là xong.”
Mọi sự xảy ra nhanh chóng và bình thường, đến nỗi ngoài đương sự,
anh ta và tôi, không một ai chung
quanh biết chuyện gì đã xảy ra. Ban giám đốc thì hẳn là biết. Trong
khu hàng thịt, người cân thịt và dán nhãn hiệu tiền khác lên chắc cũng biết có đứa gian lận ở ngoài này.
Người ta mang thịt trở ra, và người đàn bà đã hoàn hồn mở ví, trả tiền
như mọi người, chỉ khác là khuôn
mặt chị cúi xuống, đôi vai hãy còn rung lên dưới lớp áo len màu nâu nhạt.
Thôi thế là tai qua nạn khỏi. Tôi mừng cho chị, mà cũng mừng cho
tôi. Nhưng tôi sẽ không thăm hỏi gì chị lúc này đâu, cũng như không xin địa chỉ và số
phone của chị, như tôi đã làm từ chín, mười năm qua ở đây. Chị về nghe,
và đừng tưởng rằng ở đây, khi ta vào một siêu thị hay tiệm hàng gì khác, rộng mênh mông với muôn ngàn thứ
hấp dẫn bày bán thì có thể lấy mà
không ai biết cả. Người ta nhìn chị từ trên lầu cao ở trong một chiếc
máy, và trông thấy hết dáng điệu bộ tịch của chị đó!
Hết tò mò rồi, tôi mới nhẩn nha đẩy chiếc xe đi vào hàng cá thịt là
món phải mua trước rồi mới kiếm rau cải thích hợp mua sau. Lụa được tảng thịt sườn ngon, tôi bấm chuông.
Anh chàng hàng thịt ló mặt ra nhận
lấy nó, mang vào để chặt thành từng miếng vuông nhỏ theo lời yêu cầu
của tôi. Anh ta quay lưng đi về phía bàn chặt thịt ở phía trong, khuất sau lớp kính mờ đục.
Tôi đứng chọn thứ khác trong khi chờ đợi. Hôm nay có những hộp bao tử
heo, tục gọi là tù hủ, mới bày ra,
trông cũng ngon mắt. Món này luộc mềm ăn với rau sống, rau thơm,
ngò, diếp cá, dưa leo, chấm với mắm ruốc chưng tỏi ớt cay xè thì ngon tuyệt. Chiều nay tôi đi
chợ là để mua sắm các thức cho
mâm cỗ cúng ngày mai. Chẳng là ngày mai nhà tôi có mời thầy đến
cúng, cúng trời đất qủy thần, và ăn mừng tân gia. Căn nhà chúng tôi mới mua cũng chỉ vừa xinh xắn, nhưng có vườn
nhỏ với đủ thứ rau gia vị như vừa
kể trên, nên bà cụ nhà tôi lấy làm vừa ý lắm. Cùng theo ý cụ, chúng
tôi đã mời thầy xem ngày để làm lễ ra mắt nơi định cư mới này với “chư vị trong đất trong đai.”
“Có như thế thì mới ăn nên làm ra, con ạ.” Cụ bảo thế, và chúng tôi
cũng không thấy có gì trở ngại để
làm vui lòng mẹ. Rồi thì chúng tôi cũng lấy đó làm nhân tiện, mời bạn
bè đến họp mặt chung vui.
Trong số bạn bè sẽ đến ngày mai có chị Quí, một người bạn thuở học
trò của tôi, tuần trước đã có đến
thăm nhà mới này, cùng với cậu em vừa từ trại tỵ nạn được vào nước Mỹ.
Khi nghe tôi ngỏ lời mời đến dự
buổi cúng mừng nhà mới, “cái bà lắm mồm này” đã nhíu mũi chế nhạo:
“Đã qua tới Mỹ mà còn bày đặt cúng với vái!”
“Ủa, đã cúng thì ở đâu cũng cúng, đã không cúng thì ở đâu cũng
không cúng. 'Ở Mỹ mà còn cúng' là cái nghĩa lý chi? Cúng là cúng. Cũng chẳng biết tài sao mà cúng. Bày đặt? Mọi
sự ở trên đời đều là bày đặt cả, bà lắm mồm ơi!”
Cậu em trai lập tức có phản ứng:
“Em xin phản đối hai chị. Đặc biệt là chị Quí nhà em. Đừng đi quá
xa trong sự đàm luận này. Chỉ cần
nhớ: Cúng là một thái độ của người quốc gia. Thế là
đủ. Nhân danh một kẻ đã suýt bỏ thây ngoài biển cả mới đến được bến
tự do và được vinh danh là dân tỵ
nạn cộng-sản-duy-vật-vô-thân, em rất hoan nghênh sự cúng vái trời đất
qủy thần của chị đó, chị Nguyên!”
Bà chị trố mắt nhìn cậu em mười năm xa cách:
“Trời đất ơi! Tôi đâu có ngờ thằng Cu Út nhà tôi bây giờ ăn nói
hay ho thế này, chính trị quá trời thế này...”
Tôi vừa đứng chọn thức ăn giữa la liệt những gà bò heo cừu tôm cá
làm sẵn gói thật đẹp, thật sạch dưới những lớp ny lông trong suốt, trong đầu vừa lẩn quẩn với những chuyện
vui vui như vậy, thì bỗng một bàn tay đàn ông thò tới cầm lấy một vĩ thịt bò gần tay tôi. Bàn tay sần sùi một
cách lạ, và da vàng, Á đông. Theo thói quen, tôi ngửng lên nhìn ông ta để chào hỏi:
“Ông là người Viêt Nam ạ?”
Bàn tay bỗng run lên lẩy bẩy, và người đàn ông tóc hoa râm không dấu
nổi vẻ hoảng hốt chạy khắp khuôn
mặt khắc khổ của ông ta. Một sự thất kinh hoảng sợ đến tột cùng, dầu
chỉ là thoáng qua. Người ấy thụt lùi, rút bàn tay lại, và không nói gì cả. Tôi đang phân vân chưa biết xử trí
ra sao thì người ấy đã gượng cười, khẽ nghiêng đầu chào tôi rồi quay đi tới chỗ chiếc xe thực phẩm của mình,
nương hai cánh tay vào nó mà đẩy đi.
Ông ấy đi vội vàng như không muốn bị tôi nhận diện. Tôi nhìn theo.
Người đàn ông, trong bộ Âu phục màu da bò cắt thật khéo, có lẽ đã mang theo được từ khi rời Việt Nam, chứng
tỏ xưa kia ông ta đã thuộc thành
phần khá giả.
Tôi nhìn theo. Người đàn ông phải tựa vào thành chiếc xe thực phẩm
mới bước vững. Hình như chân
ông cũng hơi run. Ôi! Người đàn ông này tôi đã gặp ở
đâu một lần rồi... Tôi sẽ gắng nhớ lại.
Anh hàng thịt da đen vui tính đã xuất hiện trở lại với gói thịt sườn
chặt thành miếng vuông rồi. Quen tôi quá nên anh lại hỏi thêm: “Hôm nay bà không hỏi mua món ox tail à? Nấu
nướng ra làm sao với cái món đuôi
bò ấy?”
Tôi lại đẩy xe trở ra phía hàng rau quả, để mua thêm dăm bảy thứ
chẳng đáng gì như cà chua, cà rốt,
hành tây, những món thực sự cần dùng hàng ngày
cũng như riêng cho hôm nay – cho mâm cỗ cúng nhà mới – thì tôi đã
phải mua ở chợ Việt Nam rồi: rau
thơm, rau húng, rau diếp cá, rau ngò, rau thì là, măng khô, măng tươi chả
lụa, chả cá, bào ngư, miến tàu,
bánh tráng để gói chả giò... Thức ăn cần thiết cho người Việt Nam và
Á đông nói riêng quả thực rất thiếu ở các chợ Mỹ. Tôi đang chọn vài quả chanh, thì một bà bên cạnh hỏi tôi
bằng tiếng Anh:
“Bà có biết quế ở dãy số mấy không?”
“À, quế à, để tôi nhớ xem nào. Quế nằm ở số 8, bà ạ. Ở chỗ muối
tiêu đường ớt đó.”
Bà ta đưa tay vỗ nhẹ lên trán: “Oh là là là là.”
“Bà là người Pháp?”
“Và bà cũng nói tiếng Pháp? Bà từ đâu tới đây?”
“Tôi là người Việt Nam.”
Bà đứng ngay lại, nhận diện tôi với vẻ thích thú, có thể nói là từ đầu
đến chân, nhưng một cách thật kín
đáo, rồi đề nghị:
“Ta hãy nói chuyện ở đây một lát. Bà là người Việt Nam, một quốc gia
bây giờ đã thực sự nổi tiếng khắp
thế giới. Tôi gần đây hay đọc sách nói về Việt Nam, về những thuyền
nhân, về những trại cải tạo, nhưng chưa bao giờ đã thực sự gặp mặt một người Việt Nam bằng xương bằng thịt.
Tôi không nghĩ môt người Việt Nam
lại như bà.”
“Như tôi? Nghĩa là sao, thưa bà?”
“Đó là cảm tưởng đầu tiên của tôi. Có lẽ vì tôi không nghĩ rằng một
người Việt Nam mới tới Mỹ lại
biết nói tiếng Pháp. Nói tiếng Pháp, đó là điều tuyệt
diệu đối với tôi.”
“Tôi đến đây đã 9 năm rồi, chứ không phải là mới tới. Còn... người
Việt Nam lớp tuổi của tôi thì rành
tiếng Pháp hơn là tiếng Anh. Trong những người rành
đó thì tôi là người tệ nhất.”
“Thật vậy sao? Tại sao người Việt Nam lại có dịp biết tiếng Pháp?”
Tôi cười buồn:
“Chắc bà đinh ninh người Việt Nam chúng tôi nghèo nàn lắm về
của cải cũng như về tinh thần, kiến thức? Không đến nỗi thế đâu. Dân tộc chúng tôi đã từng có một nền
văn minh đáng kể, đã từng tiếp xúc
sâu đậm với nhiều nền văn minh văn hóa lớn trên thế giới: Trung Hoa,
Pháp, Nhật, Mỹ, và cả Nga Xô nữa,
hiện nay ở bên nhà... Còn bây giờ thì tản mác khắp năm châu, chúng
tôi may mắn được tiếp xúc nhiều,
học hỏi nhiều. Nhưng hiện nay, quê hương tôi đang là một nước bất hạnh,
bất hạnh...”
“Quê hương tôi cũng là một quốc gia bất hạnh. Tôi là người Do Thái,
hiện đang dạy Pháp văn tại đại học
G...”
Lòng đang vui vẻ, tôi không ngần ngại nói cho bà biết hôm nay tôi
đi chợ mua thức ăn để làm mâm cỗ
cúng mừng nhà mới của tôi. Bà tỏ ra rất hiểu ý nghĩa
của sự cúng vái này:
“Tuần trước tôi cũng vừa đi dự tiệc cúng tân gia nhà giáo sư Wong,
người Trung Hoa.”
Bà nói thế, rồi một cách trân trọng, bà nói thêm mấy câu chúc lành
cho nhà mới của tôi, chúc thêm
quê hương tôi sớm thoát khỏi màn đêm u tối, hưởng
hạnh phúc dưới ánh mặt trời...
Sau khi trao đổi tên tuổi và số điện thoại, chúng tôi từ biệt nhau bằng
hai tiếng au revoir đầy thông cảm.
Tôi nhìn đồng hồ thì thấy đã bốn giờ chiều. Chưa bao giờ một buổi
đi chợ lại kéo dài như hôm nay. Nôn nả, tôi quơ vội vàng mấy thứ còn thiếu, đến quầy trả tiền, rồi đẩy xe
đi qua cái cửa tự động ra ngoài. Gió mát lạnh thật dễ chịu. Năm nay trời không ngập tuyết cho đến hết mùa
đông, sang mùa xuân. Tự nhiên, tôi
cảm thấy hân hoan phơi phới trong lòng. Cuộc đời vẫn có thể đẹp lắm,
chứ sao không?
Nhưng, tôi lại trông thấy người đàn ông hồi nãy.
Hình như ông đang đợi ai. Liền khi đó, cụ Phùng cũng vừa đỗ xe bước xuống
sắp vào chợ. Cụ Phùng tóc bạc
phơ là người nổi tiếng biết nhiều chuyện. Không cầm nén được tò mò,
tôi tiến tới hỏi nhỏ:
“Thưa, cụ có biết người đàn ông đó là ai không?”
“Đó là ông X.” Cụ trả lời không suy nghĩ. “Một người từ ngày qua
đây vẫn chủ trương sống biệt lập kín đáo riêng rẽ. Ông là một nhân vật bị tình nghi dính
dáng đến vụ bắn chết Tổng thống Diệm và ông Ngô Đình Nhu năm xưa.
Người ta nói rằng bàn tay ông lúc
nào cũng run lên...”
Nhìn về phía người đàn ông, cụ lại nói nhỏ vào tai tôi:
“Nhưng, ông ấy bị ngờ oan! Oan khiên. Trải qua cuộc chiến tranh
dài, nhiều người Việt Nam bị ngờ
oan.”
Tôi không biết lời cụ Phùng nói hôm nay đúng được mấy phần
trăm, hay là hoàn toàn sai, vì cụ tuy biết nhiều chuyện, cũng đã tới tuổi lẫn. Nhưng tôi đã
thấy tận mắt bàn tay ấy. Bàn tay run bần bật, và một cái rùng mình chạy
khắp cơ thể một người Việt Nam,
chiều nay, trong siêu thị này.
Gió mát lạnh thật dễ chịu. Nước Mỹ thật thanh bình. Một buổi
chiều đi chợ đầy ý nghĩa, nhiều biến cố cảm động. Nhưng cái bàn tay run lẩy bẩy rồi sẽ ám ảnh
tôi suốt đêm nay, cùng với hình ảnh người đàn bà tội nghiệp đã ăn cắp.
À, mà người đàn bà tôi đã gặp trong siêu thị chiều nay, cho đến giờ phút này, chưa có gì đích xác chứng tỏ
chị là người Việt Nam cả! Một người Phi Luật Tân cũng có thể như thế, Thái Lan, Đại Hàn, Lào, hay
Campuchia thì cũng tương tự. Không có gì khác biệt lắm giữa những người da vàng khi họ cùng
mặc Âu phục như nhau.
Chẳng qua là tôi, từ ngày xa quê hương, sống giữa nước Mỹ mênh mông
rộng lớn này, luôn luôn nhớ rằng
mình là người Việt Nam, luôn luôn hãy còn mừng rỡ khi gặp được một
người đồng hương lạc loài giữa rừng người tứ xứ, nên đã vội nghĩ rằng chị là người Việt Nam đó thôi.
Dầu sao thì cái bàn tay run bần bật và cái rùng mình chạy khắp cơ
thể một người Việt Nam, chiều nay,
cũng còn ám ảnh tôi lâu lắm. Tôi ý thức “cuộc chiến bất tận” của quê
hương còn đeo đuổi tôi cho đến trọn đời, mãn kiếp. Giờ này đây và còn nữa về sau, có biết bao nhiêu người sẽ
phải sống âm thầm một cuộc đời
biệt lập, cô đơn, trốn tránh, với đôi bàn tay run rẩy như thế, chỉ vì đã
trót một lần có dính líu đến biến cố chính trị nào đó của quê hương. Cuộc chiến tranh này chưa giải quyết
xong, nó còn tiếp diễn – nó thiên hình vạn trạng – từ bên nhà sang tận bên đây, thì còn chia rẽ, hận thù, nghi
kỵ, oan khiên!
Gió mát lạnh thật dễ chịu. Tôi đưa mặt ra, nghe mát lịm thắm căng
da. Tôi yêu đời, và muốn yêu
thương tất cả mọi người tôi quen biết mười năm qua ở
đây. Những buổi họp mặt linh đình, đã cùng nhau cười nói vui vẻ, thân
mật, cởi mở. Ước mơ thật giản dị,
nhưng tôi biết rằng không dễ gì thực hiện.
Một buổi chiều đi chợ Mỹ như chiều nay vậy mà đã có ít nhiều thông
cảm đầy ắp tình người, khiến cho tôi cảm thấy gió mát càng thêm mát, khiến cho tôi bản tính yêu đời càng
thêm yêu đời... dầu chỉ là trong một thoáng qua...
12/1984