“Bà xã khỏe không?”. Phải hiểu là ông bạn vừa hỏi thăm vợ mình. Thường chúng ta trả lời: “Cám ơn bạn. Nhà tôi vẫn thường”. “Nhà tôi” có lẽ là một từ rất Việt. Riêng tôi chưa thấy có anh Mỹ nào gọi vợ là “my house” hoặc anh Tây nào dùng từ “ma maison” để chỉ bà vợ của họ. Họ có thể nhướng mắt hỏi lại: “How many houses do you have?”. Nếu hỏi ông nhà văn Văn Quang thì sẽ biết tài xây nhà của ổng. Ông nhà văn Hoàng Hải Thủy đã bật mí như sau: “Văn Quang là Trung Tá Giám đốc Đài Phát Thanh Quân Đội cho đến ngày tan hàng. Anh nhan sắc không hơn gì anh em chúng tôi bao nhiêu, nếu có gì hơn thì chỉ là anh hơn chúng tôi cái mác carihom Oméga bộ xương cứu chúa. Nhưng anh có cái số đào huê dễ nể. Anh có đến năm bà vợ – những bà cùng đương sự ăn ở công khai, chính thức vợ chồng với nhau, dù không cưới hỏi, không đãi ăn nhà hàng, trong thời gian dài ngắn không đều là một hai niên, ba bốn niên, tức là không kể những nhân tình, nhân bánh lâu lâu sáp lại nhấp nháy, tan hàng. Bà vợ nào của anh cũng nhan sắc trên mức trung bình”.
Hình như “bà xã” không phải là một từ
dùng để xưng hô mà là một danh xưng để nói về người thứ ba. Ít người gọi
người đầu ấp tay gối bằng “bà xã”. Ít nhưng không phải là không có. Tại Việt
Nam, giới trẻ có hiện tượng gọi bạn gái hay bạn học là “bà xã” và ngược lại là
“ông xã”. Có lẽ chuyện này rất phổ biến đến nỗi bước vào niên khóa 2024-2025, trường
Trung học cơ sở Trực Thuận tại Nam Định đã phải đưa ra một quy tắc ứng xử áp dụng
cho học sinh trong đó có ghi “không gọi
nhau bằng những từ chỉ quan hệ vợ chồng như con vợ, thằng chồng, ông xã, bà
xã”. Chuyện các học sinh cặp đôi, sinh hoạt như vợ chồng tại các nhà nghỉ tại
Việt Nam ngày nay không phải là chuyện cá biệt.
Thông thường vợ chồng trong các gia đình Việt gọi nhau bằng anh–em. Cách
xưng hô này coi bộ thân thiết, ngọt ngào, yên ấm, tình tứ. Tình hơn một chút, vợ
chồng gọi nhau là “mình”. Nghe như gắn bó, da diết, liền thịt liền da. Trên tờ
bán nguyệt san Phổ Thông trước đây tại Sài Gòn, nhà văn Nguyễn Vỹ có mục thường
xuyên “Mình Ơi!”. Nhạc sĩ Diệu Hương cũng có bản nhạc “Mình ơi”. “Đôi chim là chim ríu rít trên cành / Em yêu
là yêu tiếng gọi của Mình là Mình, Mình Ơi!”. Cho tới bây giờ tôi vẫn nhớ
bài hát nghêu ngao từ hồi còn nhỏ lít nhít: “Mình
ơi có đi Bờ Hồ / Cùng ta chén kem kẹo dừa / Xin mình đừng từ chối / Trong túi
tôi có mười đồng xanh / Mình cứ đi mình nhé / Cô mình ao ước cái chi / Nhẫn
vàng, giầy nhung, bít tất / Phin, ô đầm, giầy cườm”. Trong cuốn Hồi Ký của
Phạm Duy, ông cũng nhắc tới bài ca này: “Thời
đó, như tôi đã nói, trẻ thơ Việt Nam sống ở Hà Nội không có nhiều bài hát như
các nhi đồng trong những thập niên sau này. Chúng tôi chỉ có dăm ba câu ca lếu
láo như: “Tôi chờ cô tối qua / Suốt canh chầy chẳng thấy cô ra”. Hay là: “Mình
ơi có đi bờ hồ / Cùng tôi chén kem kẹo dừa”. Thời thơ ấu của thế hệ tôi, đi
Bờ Hồ có cái thú ăn kem Mụ Béo. Chắc còn nhiều thú khác ở Bờ Hồ nhưng chúng tôi
còn nhỏ quá nên không biết tới. Nói để các độc giả không biết Hà nội tỏ tường:
Bờ Hồ đây là chỉ khu vực quanh hồ Hoàn Kiếm, con tim của thành phố.
Vợ chồng còn xưng hô với nhau bằng biệt danh họ đặt cho nhau. Gọi kiểu
này có cái thú vị của sự riêng tư, “chỉ hai chúng mình thôi nhé / đừng cho hoa
lắng tai nghe”. Khi có con, vợ chồng có thể xưng hô: ba thằng Tèo, má con Tũn,
để tự hào là cuộc hôn nhân đã sanh trái rõ rành rành. Túi khôn của các cụ dạy vợ
chồng xưng hô với nhau cho tương kính, nhất là khi đã có con cái. Không nên gọi
nhau là “mày tao” chẳng hạn. Tôi có quen
một cặp vợ chồng xưng hô với nhau là “mày–tao”. Hồi nhỏ hai người là bạn lối
xóm, chơi với đám bạn trai gái khi chuyện giới tính chưa là chuyện bọn trẻ để ý
tới. Không biết có tắm truồng cả lũ không. Cứ mày-tao tuốt tuột. Lớn lên, hai đứa
yêu nhau, nên vợ nên chồng. Quen miệng từ
nhỏ nên vợ chồng cứ mày-tao thoải mái. Tới khi con cái lớn bộn lập gia đình, có
dâu có rể, có sui gia, hai vợ chồng vẫn chứng nào tật đó. Tới lúc con cái thấy
chướng quá mới yêu cầu hai người không được mày-tao. Họ phải nghe lời con cái.
Không biết có khi nào lỡ miệng lại không. Bữa nào gặp mặt chắc tôi phải hỏi hai
nhân vật lớn xác nhưng vẫn nhỏ hồn này coi!
Tại sao ông chồng chẳng xã xiếc chi mà bà vợ lại được gọi là bà xã, chuyện
có nguyên do cả. Xã là đơn vị hành chánh thấp nhất được cai quản bởi một ông xã
trưởng. Làng xã ngày xưa, tuy nhỏ bé nhưng oai quyền chẳng thua ai. Phép vua thua lệ làng! Vua oai phong lẫm
liệt như vậy vẫn bị cho đi chỗ khác chơi cho xã ta làm việc. Vậy xã là oai số một
trong làng. Tới thời tôi vẫn còn nghe các cụ be bờ làng xã khi thấy một con dân
trong làng lấy chồng lấy vợ ngoài làng bị dè bỉu là “lấy người thiên hạ”. Bò đồng nào ăn cỏ đồng đó, léng phéng
ra ngoài biên giới làng là dân mất gốc. Ông xã trưởng là nhân vật quan trọng nhất
làng nên các bà vợ tôn chồng mình lên gọi là “ông xã”. Vợ ông xã mặc nhiên được
dân gọi là “bà xã”. Các bà xã dĩ nhiên rất tự hào khi được gọi như vậy. Dân
chúng cũng thấy khoái nên các bà chẳng có chồng xã xiếc chi cũng gọi chồng là
ông xã cho oai. Chồng là ông xã thì vợ là bà xã. Khi mọi người đều là ông xã bà
xã hết, cách gọi này biến thành từ thân mật làm đậm thêm tình chồng vợ.
Ông xã, bà xã để chỉ chồng hay vợ là lối
nói của người miền Bắc, sau này mới du nhập vào miền Nam, có lẽ từ cuộc di cư
năm 1954. Nhà văn Nguyễn Lê Hồng Hưng, người nam rặt, quê ở tận Cà Mau, coi bộ
bị lậm từ “bà xã” nên dùng miết. “Hồi đầu mùa xuân bà xã đặt mua bên
Việt Nam mấy chiếc áo dài để dành mặc đi chùa. Chợt bị dịch Vũ
Hán, chùa đóng cửa, lễ Phật Đản chùa không có tổ chức nên hổng có
dịp mặc. Hy vọng tới Vu Lan hết dịch, nhưng mới đây có thông báo Vu
Lan năm nay chùa cũng hổng tổ chức, làm bà xã cụt hứng. Hôm ấy trời
nắng đẹp bà xã soạn áo dài ra bận thử, không ngờ mấy tháng bị
dịch, nằm nhà ăn ngủ riết rồi mập ra hồi nào không hay, nên bận áo
dài bị chật.”
Danh xưng “Bà Xã” bi chừ nhộn nhịp
trong thơ văn. Ông nhà thơ Quan Dương, người Ninh Hòa, người rất hào hùng tự nhận
nịnh vợ nhất trần gian, có mấy câu thơ nịnh:
Tạ ơn bà xã rất cừ
Gặp ta không chút
ngần ngừ trao thân
Tay em nắm chiếc đũa thần
Biến ta thành gã tiểu đồng đi theo
Nhà thơ Hồ Chí
Bửu, dân Tây Ninh, cũng ăn thua với ông Quan Dương, nịnh “bà xã” như ai.
Cảm ơn em – cảm ơn bà xã
Đẹp não nùng như mới hai mươi
Cứ e thẹn như còn xa lạ
Làm ta nhìn muốn nổ con ngươi.
Ông nhà thơ Luân Hoán, người xứ Quảng, có bà vợ nấu mì Quảng rất tới.
Tôi đã có dịp được cho ăn (hình như lâu lắm rồi!). Tới chừ vẫn chưa thấy…tái bản.
mì Quảng bà xã Lý
ăn nhức lưỡi nhức
răng
ngỡ như nuốt ánh
trăng
vàng ửng lá tre
biếc
ăn hoài không thấy
quen
mỗi bận mỗi lần
tuyệt
Ông này viết gọn “bà xã Lý” tưởng ngày
xưa ông vừa làm anh xã vừa làm cụ Lý. Nhưng không phải. Lý là tên cúng cơm của
bà Luân Hoán. Nhưng chuyện này cũng làm tôi chợt nhớ tới hai “ngài” Lý Toét Xã
Xệ trên báo chí Hà Nội ngày xưa. Sự xuất hiện của hai nhân vật mang tính cách
hài hước này làm “ông xã bà xã”, ngoài tính cách thân mật, còn mang thêm sắc
thái bỡn cợt.
Nhân vật Lý Toét, một anh nhà quê ra tỉnh,
là con đẻ của họa sĩ Đông Sơn, tức nhà văn Nhất Linh, ra đời trên báo Phong Hóa
vào đầu thập niên 1930. Cho tới thời thơ ấu của thế hệ chúng tôi, cuối thập
niên 1940, hai nhân vật Lý Toét Xã Xệ vẫn còn xuất hiện nhiều trên các mặt báo.
Chuyện xuất hiện như đùa của hai nhân vật này đã có ảnh hưởng lớn tới nếp sống
xã hội thời đó.
Thoạt đầu chỉ có hình vẽ rất tếu một
anh nhà quê ra tỉnh mà chưa có tên. Nhất Linh vẽ chơi chơi hình một anh nhà quê
rồi vứt vào ngăn kéo, chẳng biết có dùng vào việc chi được không. Bà chủ nhiệm
báo Phụ Nữ Thời Đàm vô tình thấy và đưa tấm hình này ra ánh sáng. Trong bài “Đi
Tìm Gốc Gác Lý Toét, Xã Xệ”, tác giả Phạm Thảo Nguyên viết: “Trên
bức hình đó Lý Toét trẻ hơn sau này nhiều, đã được mặc áo dài khăn đóng, như mọi
cụ già thời đó. Lại có đủ cả râu ria, búi tóc, cụ xách thêm đôi dép da gia định
và cắp cái ô đen: Cá tính được định hình. Cụ thường xách dép lên, đi đất, vì ngại
chóng hỏng đôi dép cũ. Cái ô cũng ít khi mở ra, cụ để dành đánh chó và đeo lên
vai cho oai. Nhưng chúng cũng làm khổ cụ, vì cứ bị tụi trộm nhỏ nhít đặt vào tầm
ngắm, quấy phá luôn luôn. Nào dép, nào ô, nào khăn cứ bị trộm rình!”.
Phải hai
năm sau, trên báo Phong Hóa số 14, ra ngày 2/9/1932, mới cho đi bức hình ông cụ
nhà quê ra tình này, khi đó vẫn chưa có tên. Người đặt cho nhân vật này cái tên “Lý
Toét” chính là Tú Mỡ, một nhà thơ trào phúng nổi danh thời đó. Nhân vật Lý Toét
rất ăn khách nhưng có vẻ cô độc. Vậy là trên báo Phong Hóa số 89, ra ngày
16/3/1934, nhân vật Xã Xệ ra đời. Người tạo ra Xã Xệ không phải là Đông Sơn Nhất
Linh, mà là hoạ sĩ Bút Sơn, người Sài Gòn gửi ra cho báo Phong Hóa ngoài Hà Nội.
Xã Xệ béo ịt, thấp lè tè, đầu trọc lông lốc, còn độc một sợi tóc quăn xoắn ốc
trên đỉnh đầu. Hình dáng hoàn toàn đối chọi với Lý Toét.
Nhất Linh và báo Phong Hóa không biết
Bút Sơn là ai. Cho tới khi Nhất Linh mất, cuốn di cảo “Đời Làm Báo” của ông được
xuất bản, trong đó vẫn còn tin nhắn như sau: “Bút Sơn ở Sài Gòn (người đẻ ra Xã
Xệ) tên thật chưa biết. Xin ông Bút Sơn (nếu ông còn sống) hoặc các bạn, cho biết
tên thật”. Tác giả Phạm Thảo Nguyên tiết lộ như sau: “Hiện nay
chúng tôi được biết tên thật họa sĩ Bút Sơn là Lê Minh Đức. "Theo nhà báo
nhà thơ trào phúng Tú Kềnh viết trên Báo Bình Minh Xuân Mậu Thân 1968 xuất bản
ở Saigon thì: Vào năm 1936 báo Phong Hóa, nhóm Tự Lực Văn Ðoàn, ở Hà Nội, có tổ
chức cuộc thi vẽ tranh hài hước, họa sĩ chuyên vẽ tranh hài hước Bút Sơn Lê
Minh Ðức ở Sài Gòn vẽ một bức tranh gửi ra Bắc dự thi"
Cặp bài trùng Lý Toét – Xã Xệ từ đó làm
mưa làm gió trên hai tờ báo Phong Hóa và Ngày Nay. Trong cái khôi hài, kệch cỡm
của hai nhân vật này nhóm Tự Lực Văn Đoàn còn gài vào tinh thần yêu nước trong
thời đất nước đang oằn oại dưới chế độ thực dân bảo hộ. Tác giả Phạm Thảo
Nguyên luận như sau: “Trong những
bức tranh nhỏ Lý Xã, các ý tưởng được đào sâu dần, nói lên được nhiều điều muốn
nói. Người đọc ngày một thấm thía về thân phận người dân nhược tiểu mất nước,
khi đa số dân chúng còn chưa được giáo dục, vô kỷ luật, hay sợ hãi, mê tín, và
cam chịu tủi nhục dưới ách nô lệ của Pháp. Những bức tranh hý họa nhẹ nhàng hóm
hỉnh đó phơi bầy dần dần những thói hư tật xấu của dân ta. Có người cho rằng
báo Phong Hóa Ngày Nay đã bôi xấu người nhà quê! Không! ta phải hiểu rằng nếu
dân ta còn nghèo đói, vô học, sống khổ sở như thế, chịu bao nhiêu bóc lột đè nén
như thế, thì lẽ dĩ nhiên hủ lậu mê tín phải sinh ra tham lam, ích kỷ, ...Nhưng
tới đó thì chúng ta phải tự hỏi: "Phải làm gì đây?". Đó là chủ ý của
Tự Lực Văn Đoàn: dùng văn chương, báo chí để vận động cải tạo xã hội”.
Thời của biếm họa Lý Toét – Xã Xệ qua đi nhưng đó
có lẽ là khởi đầu của một loạt tranh biếm họa với những nhân vật điển hình sau
này. Đó là những Vá – Vếu, Cậu Ấm - Cô Chiêu trước năm 1945, những Tám Sạc Ne,
Bé Ngôn - Bé Luận trên báo chí Sài Gòn sau này.
Thế hệ tôi chắc nhiều người còn thuộc bài hát “Lý
Toét – Xã Xệ”, bài hát mà cho tới tận bây giờ, đầu bạc răng long, vẫn chưa nhòa
đi mỗi khi hân hoan nhớ lại thời nhỏ nhít xưa, thời bất diệt của một đời người.
Ông Lý Toét mà cắp cái ô
Đi ra phố gặp lúc mưa to
Có bác Xã Xệ mà muốn đi nhờ
Tay thì vời vời miệng thét bô bô;
- Này bác Lý, thủng nhĩ hay sao?
Gọi như thế mà chẳng coi sao
Giá có cút rượu thì đến chơi liền
Đi nhờ một tí mặt cứ vênh vênh!
- Này bác Xã thật rõ lôi thôi
Còn non nước còn bác với tôi,
Ô tôi năng cụp mà bất năng xòe
Năng dựa đầu hè mà bất năng che!
Ngẫm lại thấy có một chi tiết vui vui.
Xã Xệ là nhân vật của miền Nam, con đẻ của họa sĩ Bút Sơn ở Sài Gòn, sống cặp
kè với Lý Toét ở ngoài Bắc bao nhiêu năm trời. Vậy mà “bà Xã” phải chờ tới năm
1954, khi người Bắc di cư mới mang lại trả cho miền Nam để các ông Hồ Chí Bửu,
Quan Dương, Luân Hoán, Nguyễn Lê Hồng Hưng, rặt Trung kỳ và Nam kỳ, dùng trong
thơ văn. Kể cũng vất vả, vất vả như biển dâu mà dân ta trải qua chỉ trong ít chục
năm, một cái chớp mắt của lịch sử.
04/2025
Website: www.songthao.com