Thứ Tư, 28 tháng 5, 2025

434 . Chuyên đề "VIẾT BÊN DÒNG POTOMAC (1975-2025)" Kỳ 14 : NGUYỄN MINH DIỄM (1943-2014) Đi lên phía Bắc...

                    

Tiểu sử

Nguyễn Minh Diễm là tên thật, còn có bút hiệu là Nguyễn An. Ông sinh năm 1943 ở Thái Bình, theo gia đình di cư vào Nam năm 1954. Trước 1975, ông dạy tại trường Võ Bị Đà Lạt và một số trường trung học ở Đà Lạt và Sài Gòn. Sang Mỹ định cư vào năm 1996 và giữ chức vụ Giám đóc Chương trình Việt Ngữ đài RFA. Ông qua đời vào ngày 23.7.2014.

                                                                         

GS Nguyễn Minh Diễm (1943-2014)

                                 


ĐI LÊN MIỀN BẮC NHỚ MỘT BÀI THƠ NHỚ MỘT ĐOẠN ĐỜI

Đi lên miền bắc, nhớ một bài thơ, nhớ một đoạn đời

Cuối tháng bẩy, trời miền đông Hoa Kỳ bỗng trở nóng, khiến tưởng như đang ở Sài Gòn. Có việc phải đi lên phía bắc, đêm lái xe một mình trên con đường tưởng như dài vô tận. Một chút nhạc trỗi lên, và lòng bỗng trùng xuống. Điệu Blue da diết, giọng kèn nức nở. Không còn phải là chuỗi âm thanh diễn tả lòng hoài hương và nỗi u uất của những người nô lệ da đen bị bắt xuống tầu, bứng khỏi quê hương, đem đến sống nhục nhằn nơi đất khách, mà chính là tâm sự ấy đã lấy âm thanh làm cầu, rót thẳng vào tim người nghe.

Trong tâm trạng bồi hồi ấy, chợt nghe đồng vọng lời thơ:

đêm đưa ta lên miền bắc

với những chấm đèn trong mưa

một đi bóng nhà xa khuất

còn nghe đôi giọng gió thu

khi ta đi lên miền bắc

nụ cười quên dưới trời xưa

trái tim đeo ngoài túi áo

như chuông trước cổ ngựa thổ

Mỗi câu thơ là một hình ảnh, và những hình ảnh đan kết với nhau, thành bức tranh toàn cảnh của những con người đã sinh sống, làm việc và chiến đấu tại miền Nam Việt Nam, thua trận, bị bắt đem ra miền Bắc trong những ngày mùa hè năm 1975, khi “điệu kèn hồng rúc lên”“những đốm lửa” “bay rực trời” trong “đêm những vùng xanh châu thổ”. Chính là không khí oi bức, điệu hoài hương nức nở và hướng bắc của cuộc hành trình đã tạo điều kiện cho những hình ảnh đớn đau hơn 20 năm trước tái hiện trong tôi, làm thành sinh cảnh hiện hình cho bài thơ “Điệu hoài hương xanh” của Nguyễn Xuân Thiệp (*).



Tôi biết Nguyễn Xuân Thiệp từ năm 1968, khi đời đưa đẩy lên làm việc tại Đà Lạt. Lúc bấy giờ, Thiệp đã là một sĩ quan quân đội, và cũng như tôi, anh dậy thêm tại trường Văn Học của anh Chử Bá Anh ở số 4 đường Hoàng Diệu. Lớn hơn tôi đâu khoảng 5, 7 tuổi, Thiệp có mái tóc bồng bềnh và dáng dấp thư sinh, ăn nói nhỏ nhẹ, và không có vẻ quân nhân chút nào. Trong bao nhiêu năm quen biết anh, thực tình tôi chỉ thấy anh mặc quân phục khoảng bốn, năm lần gì đó. Ngày ấy, chúng tôi gần chục bạn bè, tuổi tác chênh lệch nhau và đều đã có vợ con, nhưng thân thiết như những thanh niên mới lớn. Nguyễn Xuân Thiệp và Nguyễn Duy Diệm ngang tuổi nhau, rồi tới Thái Lãng, Âu Như Thuy, Hoàng Khởi Phong, Lê Khắc Hùng, Nguyễn Quang Tuyến và tôi tụ lại thành một nhóm bàn đủ thứ chuyện lấp biển vá trời, sách vở, thơ văn, báo chí, uống rượu..., nhưng chẳng có chuyện nào ra hồn, và cũng chẳng có chuyện nào “ra tiền” cả. Toàn thể không khí của cái thành phố mù sương Đà Lạt dường như cũng chỉ thích hợp với những sinh hoạt thế thôi. Hình như ngay cả Thanh Thuý, Lệ Thu, Khánh Ly hay vợ chồng Lê Uyên và Phương cũng chỉ “ăn gia làm nên” sau khi đã xuống núi, về Sài Gòn thì phải.

Sau biến cố 30 tháng tư khoảng nửa tháng, một hôm Thiệp đến tôi, lúc bấy giờ đang ở tạm nhà bà chị trên đường Thoại Ngọc Hầu. Anh ăn mặc hơi cẩu thả, áo mầu gì không rõ bỏ ngoài quần và đi dép, tay cầm một gói giấy nhỏ. Lúc bấy giờ thì ai cũng ăn mặc xuềnh xoàng, như thể muốn hòa mình vào một cái xã hội mà trang phục và tác phong “lôi thôi, luộm thuộm” là một thứ “yêu cầu” để khỏi bị để ý, nói thẳng ra là để khỏi làm “ngứa mắt" những kẻ đương quyền. Anh nói, “Mình mua mấy cái quần đùi, ngày mai đi trình diện học tập một tháng cho xong, rồi về xây dựng lại cuộc sống mới”. Tôi không biết cái gì trong các thông cáo của chính quyền lúc bấy giờ đã khiến hầu hết sĩ quan, công chức lúc ấy cho rằng, thời gian xa nhà chỉ là một tháng, và trong thời gian một tháng ấy, tất cả sẽ học tập chính sách mới, theo nghĩa là tiếp thu kiến thức. Có lẽ là chi tiết nói rằng những ai đi học tập thì mang theo tư trang và lương thực đủ ăn trong một tháng chăng? Nếu nói như thế, và nếu cố ý muốn mọi người hiểu lầm, thì chính quyền bấy giờ đã thành công lớn.

“Một tháng” của anh là 7 năm.

Khi gặp lại năm 1982, tôi thấy tóc anh đã hoa râm, và mắt anh đã hơi lòng nhãn, nhưng ngôn từ vẫn hào sảng như xưa. Những khổ đau tinh thần và vật chất mà hai gia đình chúng tôi phải gánh chịu trong bẩy năm ròng, và còn tiếp tục chưa biết tới bao giờ khiến câu chuyện trao đổi trầm buồn hơn, chậm rãi hơn và cay đắng hơn. Anh hẹn sẽ dành một buổi để đọc cho tôi nghe những bài thơ anh làm trong 7 năm lao tù, nhục nhằn qua hàng chục trại giam khắp miền Bắc.

Bài thứ nhất anh đọc chính là “Điệu hoài hương xanh”. Anh vừa cất tiếng, tôi đã mừng vì thấy giọng anh vẫn mạnh và sôi nổi như xưa. Nhưng chỉ được vài đoạn, anh đã phải ngừng vì nghẹn ngào, và tôi cũng lặng người vì xúc động trong nỗi đồng cảm dâng trào.

Làm sao không xúc động khi thấy bạn mình, chính mình và bao nhiêu trang hảo hán khác bỗng chốc hóa thành

lưu thân đi trong trời đất
áo quần như gã hề điên
tóc râu dựng bờm cổ thụ
cõi người chợt lạ chợt quen

Lưu thân! Lưu thân! Nghe giống như lưu dân, nhưng lưu dân ngày xưa khi từ bỏ quê nghèo, ra đi tìm miền đất mới đã mang theo cả nỗi lòng hăm hở làm lại cuộc đời, còn “tấm thân lưu đầy” nằm trong tay người, trong hoàn cảnh – như cổ nhân từng ví, người là dao là thớt, còn mình là thịt là cá - thì tránh sao khỏi tủi lòng!

Làm sao không thổn thức khi cùng nhau chia xẻ những đêm thao thức trăn trở vì một ngàn mối ưu tư giống nhau - gọi là cùng nhau chia xẻ, vì tuy tôi và anh ở các trại khác nhau, nhưng thực ra thì trại tù nào miền Bắc dành cho miền Nam sau năm 75 cũng có những nét tương tự, bởi cùng được chỉ đạo tổ chức như nhau, và cùng được cai quản bởi những con người giống nhau.

có đêm sụp trời mưa lớn
nghe trăm cỗ ngựa qua cầu
tưởng như những loài nấm đỏ
mọc trên thớ gỗ mục sầu

-----------------------------

giữa khuya nằm nghe tiếng ếch
trôi về từ một bãi sông
gió thu thổi bùng liếp cửa
bên tai ngỡ giục trống đồng

Ôi, sao cái thân phận con người lại mỏng manh, bọt bèo đến thế!

khi ta đi lên miền bắc
nụ cười quên dưới trời mưa...
đi ta đi lên miền bắc
bóng ngày treo ngọn cây cao..
đi trên mùa thu đất bắc
nắng lên tưởng chín trái hồng..
-----------------------------
khi ta đi lên miền bắc
uống công ngậm ngải tìm trầm
-----------------------------
ôi những ngày trên đất bắc
nhớ mùi trái chín phương nam
.... nửa đêm đứt một dây đàn

-----------------------------

khi ta đi lên miền bắc
hồn đầy những sắc tạp âm
thổi chùm cỏ khô bay mất
ôi bóng ngày vui biệt tăm


Từ “miền bắc” được nhắc đi nhắc lại trong bài thơ như lời giáo đầu của những điệp khúc buồn, những tâm sự u uất, những phẫn hận khôn tả và những đoạn đời thê lương. Cả bài thơ như một khúc oán, như một trường ca điệu Blue. Nếu những oan khuất trăm năm của người da đen trên đất Mỹ đã kết tinh thành những giai điệu Jazz nức nở, thì có thể nói là những đớn đau của một đoạn-trong-đời của cả một lớp người cũng đọng lại phần nào trong những hình tượng và thanh âm của bài thơ “Điệu hoài hương xanh” chăng? Bây giờ thì chúng đã trở thành kỷ niệm đối với những ai còn sống sót trở về, hay nỗi tiếc thương đối với thân nhân những ai đứt đoạn nửa đường. Nhưng đó là những vết thương không lành trong lòng không phải riêng ai, là những vết hằn trong dòng lịch sử mà mỗi khi gợi nhớ, không ai tránh khỏi ngậm ngùi.

Ước gì những đớn đau như thế đừng xẩy ra! Nhưng vì chúng đã xẩy ra, nên mong rằng chúng sẽ không bao giờ tái diễn nữa!

NGUYỄN MINH DIỄM
Virginia, tháng 7, 1999
( Trích từ Tạp Chí Văn Phong số ra mắt tháng 8/1999)