Thứ Tư, 28 tháng 5, 2025

435 . Chuyên đề "VIẾT BÊN DÒNG POTOMAC (1975-2025)" Kỳ 15 : ĐẶNG ĐÌNH KHIẾT - Hai giờ với Học Giả Hoàng Văn Chí.


Tiểu sử.

Đặng Đình Khiết sinh năm 1948 tại Hà Nội. Di cư vào nam năm 1954. Nhập ngũ năm 1968 và là sĩ quan lái máy bay trực thăng. Sang Mỹ năm 1975, đi học lại tốt nghiệp Cao Học Giáo Dục và đi dạy trong hệ thống Arlington County School.

Huynh Trưởng cấp Tấn Gia Đình Phật Tử. Từ 1980 đã cùng các Huynh Trưởng thành lập Ái Hữu Vĩnh Nghiêm Hải Ngoại và là trưởng Chi Miền Đông Hoa Kỳ.

Sáng lập và là Chủ nhiệm Tập San Xác Định (tiếng nói của Thanh Niên Sinh Viên Ty Nạn) số đầu tiên phát hành tháng 3 năm 1983.

                                                                                  

Chân dung Đặng Đình Khiết
Tranh Trương Thị Thịnh
                                             

Hai Giờ Với Học Giả HOÀNG VĂN CHÍ

Lời Tòa soạn Tạp Chí Xác Định:

Xác Định số ra mắt được hân hạnh phỏng vấn học giả Hoàng Văn Chí. Danh tính của nhà học giả họ Hoàng không mấy xa lạ trong giới các nhà nghiên cứu thế giới, đặc biệt trong giới các nhà nghiên cứu về chủ thuyết cộng sản và sự áp dụng của nó tại các quốc gia như Tàu hoặc Bắc Việt Nam trong những thập niên 40, 50, và 60. Nhưng đối với người Việt Nam, đặc biệt giới thanh niên sinh viên, vẫn có nhiều người chưa được biết đến cụ và những công trình nghiên cứu của cụ. (Xin xem phần tiểu sử của cụ Hoàng Văn Chí).

Một trong những công trình nghiên cứu nổi tiếng của cụ là quyển “Từ Thực Dân Đến Cộng Sản”, dày ngót 400 trang, hoàn thành vào năm 1964 tại Ba-lê, thủ đô Pháp quốc, và được tái bản liên tiếp trong nhiều năm qua bằng hơn 15 thứ tiếng khác nhau. Quyển sách này đã giúp ích rất nhiều cho các nhà nghiên cứu Âu-Mỹ và một số các nhà lãnh đạo các quốc gia kém mở mang mới thu hồi nền độc lập của quốc gia họ trong khoảng thập niên 50. Nó trở thành như một kim chỉ nam để nhân loại hiểu được một cách rất cụ thể về các bước sách lược của phong trào cộng sản, từ lúc lợi dụng chiêu bài Dân tộc để dành Độc lập cho đến lúc tiến chiếm chính quyền của một quốc gia. Quyển sách này, cho đến nay, vẫn còn là một tài liệu quý giá cho những ai muốn tìm hiểu về cộng sản.

Trong cuộc phỏng vấn dài gần 2 giờ đồng hồ tại tư gia của cụ Hoàng Văn Chí tại một khu vực ngoại ô cách thành phố Hoa Thịnh Đốn gần 30 dặm, nhà học giả họ Hoàng, với mái tóc bạc trắng, đã phát biểu, trong dáng nét đầy suy tư, về quan điểm của cụ trên các vấn đề liên quan đến công cuộc đấu tranh hiện nay của Dân tộc, đến vai trò của người Việt ở hải ngoại liên hệ vào công cuộc đấu tranh này. Và, khi được hỏi về cảm nghĩ của cụ về vai trò của người thanh niên sinh viên Việt ở ngoài nước đối với dòng vận động Cứu Nước và Dựng Nước, cụ Hoàng Văn Chí, mặc dầu hơn 70 tuổi, đã say sưa nói với tuổi trẻ Việt ngày hôm nay về những công việc mà người thanh niên cần phải chuẩn bị, cần phải làm để sao cho Dân tộc sẽ phải có lại một “trang sử vẻ vang như ông cha ta đời Lý, đời Trần...."

Dưới đây là phần ghi lại cuộc phỏng vấn mà học giả Hoàng Văn Chí dành cho Xác Định.


XÁC ĐỊNH:

“Theo cụ thì cuộc đấu tranh hiện nay của Dân tộc đặt trên căn bản nào? Vai trò của người Việt hải ngoại trong tương quan liên hệ với cuộc đấu tranh ấy ra sao?”

CỤ CHÍ:

Lối mình nhìn hiện tại mà đoán tương lai rất khó vì rằng trong hiện tại đương có một số hiện tượng hay là những yếu tố, nhưng chưa chắc rằng trong tương lai những yếu tố hay hiện tượng đó sẽ có thể xảy ra giống như thế. Có thể nó phải mất một khoảng thời gian nữa mới thực sự xảy ra. Nhưng nói chung thì cái gì cũng vậy, có sự bắt đầu thì phải có sự chấm dứt. Chế độ cộng sản xuất hiện cách đây hơn 60 năm. Nó đã phát triển đến cao độ. Nó phải đi xuống.

Trong các nước cộng sản hiện nay trên thế giới thì không có nước nào đang gặp phải sự khó khăn như Cộng sản Việt Nam. Vừa đói lại vừa phải theo đuổi một cuộc chiến tranh ở Miên, Lào. Phía Bắc lại bị đe dọa thường trực bởi Trung Cộng. Như thế, nếu có một nước Cộng sản nào phải sụp đổ trước tiên thì nước đó sẽ có thể là Việt Nam.

Tình hình thế giới hiện nay do 3 cường quốc Mỹ, Nga, Tàu quyết định. Nga giúp đỡ Cộng sản Việt, Tàu thì chống Việt Cộng, Mỹ thì bây giờ chưa tỏ một ý muốn dính dáng gì cả; thật ra, sức lực chống Cộng của Mỹ cũng yếu lắm. Thế thì nhìn vào tình hình thế giới như vậy công cuộc đấu tranh của ta sẽ phải như thế nào?

Thứ nhất, Việt Nam cần có một Lê Lợi. Những Lê Lợi sau này cũng như Lê Lợi ngày xưa, người ở bên ngoài nước không làm được. Quá lắm thì ở bên ngoài có thể làm được Nguyễn Trãi là cùng. Ta phải nhớ như thế này, trong khi ở bên ngoài chúng ta đang học được nhiều bài học, kinh nghiệm mới có giá trị cho công cuộc tranh đấu hiện nay thì ở bên nhà, có khi dân chúng đang học được nhiều cái hay hơn ở đây vì họ đang có dịp trực tiếp tiếp xúc với Cộng sản.

Mình tin vào khả năng của dân tộc thì mình cũng phải tin rằng sẽ có một Lê Lợi, một Nguyễn Huệ, trong lòng dân mà ra. Ở ngoài, mình có thể giúp đỡ, hỗ trợ vì mình có điều kiện, có tầm mắt rộng, có hoàn cảnh theo dõi biến chuyển quốc tế. Mình còn có thể giúp được bên nhà về ý kiến khi có cơ hội xây dựng lại đất nước. Mình bây giờ cũng giống như dân Do Thái đi học hỏi những cái hay của các dân tộc khác, và đứng từ ngoài giúp đỡ cho bên trong phương tiện. Đến khi lấy lại được nước rồi, ta có cơ hội để trở về thì ta mang kiến thức, kinh nghiệm của ta ra mà giúp phục hồi, xây dựng lại đất nước.

XÁC ĐỊNH:

“Thưa cụ, vấn đề Việt Nam hiện nay và tương lai có hai bước, bước Cứu Nước và bước Dựng Nước. Người thanh niên sinh viên Việt ở ngoài nước, theo ý cụ, cần phải chuẩn bị cho mình một vai trò, một tâm thức nào để có thể đóng góp hòa nhịp vào hai bước vận động lịch sử ấy của Việt Nam?"

CỤ CHÍ:

"Cuộc đấu tranh hiện nay có hai việc: một là công việc khẩn trương, tức là công việc cứu quốc. Công việc cứu quốc là việc chính của những người trong nước, người bên ngoài giúp vào. Còn một công việc thứ hai là công việc lâu dài, tức là con đường xây dựng lại đất nước. Công việc xây kéo dài cả trăm năm. Một thế hệ làm không đủ, phải nhiều thế hệ. Người ở bên ngoài có thể giúp chuẩn bị công việc này. Mình phải bắt đầu từ bây giờ. Muốn đi con đường nghìn dặm thì phải bắt đầu từ dặm đầu tiên. Ấy thế mà vẫn có nhiều người quên, họ chỉ muốn đi một thoắt là đến cái dặm cuối cùng.

Hai công việc vừa kể là hai con đường khác nhau. Nguời nào có điều kiện, có khí tiết để sẵn sàng hy sinh thì cứ tham gia vào con đường cứu quốc. Trái lại, những người nào thấy chưa đủ khả năng, hay chưa đủ tuổi, đủ điều kiện thì hãy làm việc thứ hai. Vấn đề Việt Nam không phải là không có cơ hội mà là lâu nay không có người. Bấy giờ là cơ hội nghìn năm một thuở.

Lúc Pháp còn cai trị mình, dân tộc mình hết đợt này sang đợt khác, nào là Phan Đình Phùng, Vua Hàm Nghi, Vua Duy Tân, cụ Phan Bội Châu, ... rồi thì Nguyễn Thái Học, đánh mãi mà chưa thấy ăn thua gì hết. Rồi đột nhiên, đùng một hôm, sáng thức dậy thấy Nhật lật đổ Pháp, nó dán yết thị thông báo Việt Nam bây giờ độc lập rồi, bọn Pháp đã bị bỏ tù hết cả rồi. Nó tìm người để giao công việc thì không tìm được ai cả. Sau nó phải giao cho ông Trần Trọng Kim. Đến ông Trần Trọng Kim kiếm người cũng không được, chỉ kiếm được vài ông bác sĩ, luật sư mời vào mấy cái ghế Bộ trưởng là hết. Còn Quận trưởng, Tỉnh trưởng, Tri phủ, Tri huyện thì không có người. Phải giữ lại những đám cũ. Về sau cũng thế, lúc Mỹ tìm thì cũng chỉ đến Ngô Đình Diệm là hết. Thế rồi sau này là ông Thiệu, ông Kỳ. Mấy người ấy không làm được việc thì mình trách họ nhưng mà trách như thể cũng không hoàn toàn đúng. Mấy người ấy có được chuẩn bị, học hỏi gì đâu. Rồi ngoại quốc nó đi tìm người mình thì tìm sao cho ra được. Vấn đề Việt Nam là vấn đề Trồng Người. Trồng người là làm sao để mà có được một thế hệ mới, với đầu óc mới. Mới ở đây có nghĩa là khác với những thế hệ trước đây, và phải biết làm sao lấy lại được những giá trị cổ truyền của ông cha rồi lại phải làm sao cho nước tiến vào cùng thời đại với các nước khác. Như thế, Việt Nam mới có được một tương lai. Chứ nếu chỉ có lo chống Cộng, xuống đường thì lại đâu vào đấy cả. Có nước rồi thì cai trị thể nào? Ông nào bấy giờ cũng nói Dân chủ với Tự do, thế nhưng mà đến khi có chính quyền rồi thì có Dân chủ, Tự do không? Và, Dân chủ, Tự do là cái gì? Đến giới hạn nào?

Ngày xưa có chuyện ông Quản Trọng và vua Tề. Quản Trọng là Tể Tướng của triều đình, gần như chức Thủ tướng bây giờ. Mọi việc trong triều Quản Trọng đều quán xuyến hết. Một hôm vua Tề hỏi Quản Trọng "Làm vua thì phải làm gì?" Quản Trọng trả lời: "Vua có một việc rất quan hệ đó là chọn người cho đúng chỗ." Một hôm khác, vua Tề lại hỏi Quản Trọng: "Nếu muốn làm cho dân no đủ thì phải làm gì"? Quản Trọng trả lời: “Vua khuyến khích dân trồng lúa, gạo." Vua lại hỏi: "Thế nếu muốn làm dân phong phú, sung túc thì làm sao?" Trọng trả lời: “Vua khuyến khích dân trồng cây ăn quả, mất độ 10 năm." Sau cùng, vua Tề hỏi: “Nếu muốn làm cho dân giàu, nước mạnh thì thế nào?" Trọng trả lời: "Xin Vua Trồng Người. Mất độ 100 năm!" Đây là trường hợp nước Nhật. Tính từ ngày Nhật có cách mạng Minh trị đến ngày Nhật thành đại cường quốc thì được 100 năm. Nhưng phải nhớ rằng Nhật nó có cái tinh thần làm việc chết thôi, đầu óc lại sáng suốt không tin lảm nhảm. Thành thử ra, đối với các anh chị thanh niên ngày nay, các anh chị đang có cơ hội để học hỏi, mất độ 6, 8 năm chi đó thì có mảnh bằng cử nhân, cao học, hoặc tiến sĩ, nhưng cái học quan trọng nhất vẫn là cái học thành Nguời. Phải thành Người để mà gây dựng lại rường cột của quốc gia. Ta phải có đủ người, người nào làm công việc ấy thì nước mới khôi phục, khỏe mạnh trở lại được.

XÁC ĐỊNH:

“Là một người sống và nghiên cứu đã lâu năm ở nhiều quốc gia Âu Mỹ. Xin cụ cho những lời khuyên cụ thể đến với người thanh niên sinh viên Việt trong lúc sống tỵ nạn ở xứ người."

CỤ CHÍ:

"Tôi có năm điều muốn đề nghị với các anh chị thanh niên sinh viên:

1. Thanh niên sinh viên Việt Nam cần phấn đấu chống lại sự lệ thuộc của đầu óc vào máy móc

Duy lý (Rationalism) là một truyền thống lâu đời của Tây phương. Khoa học sở dĩ có được là nhờ dựa trên tinh thần duy lý. Khởi đầu của duy lý là "Chủ thuyết hoài nghỉ” (skepticism). Nhiều người cứ lầm tưởng cho rằng Cộng sản là duy lý, thực ra, Cộng sản không duy lý. Cộng sản là "vô lý" (Irrational). Vì thế, chủ thuyết Cộng sản không phải là chủ thuyết khoa học. Người Cộng sản có gán ghép cho chủ thuyết của họ là một chủ thuyết khoa học, đây chỉ là nhằm mục đích tuyên truyền. Marx là một ông thầy tu xuất chỉ học thuần triết học chứ không học khoa học. Marx, bắt đầu từ cái Tâm muốn tìm kiếm một sự thay đổi trong xã hội Anh lúc đang ở khoảng giao thời và có nhiều khủng hoảng, bất công do ảnh hưởng cuộc cách mạng kỹ nghệ tạo ra. Như thế, phải nói là "duy tâm" chứ sao là "duy vật" được. Nói chủ thuyết Cộng sản là "duy vật", là "khoa học" là nói láo, nói tuyên truyền.

Chủ thuyết duy lý xuất hiện từ Âu Châu, đặc biệt ở Pháp. Nó được ươm mầm trong thời kỳ "Phục hưng” (Renaissance) vào thế kỷ 16, 17. Thế mà bây giờ Pháp cũng đang mất dần cái đầu óc duy lý của mình. Pháp đang đi dần vào tinh thần “Câu Chấp Luật Lệ" (doctrinarism).

Mỹ trước đây 100 năm có tinh thần duy lý nhưng bây giờ thì hết rồi. Mỹ bây giờ tin vào "chủ thuyết được việc" (Pragmatism) Đợi cho có vấn đề (problems) rồi mới tìm cách giải quyết (problems solving). Vì thế, chỉ giải quyết đằng ngọn mà không tận gốc rễ, tức là cái căn nguyên của vấn đề. Từ chủ thuyết được việc đẻ ra một thứ triết lý giáo dục gọi là "Giáo dục Tiến bộ" (Progressive Education). Triết lý giáo dục này nhắm vào mục đích dạy cho người thanh niên Mỹ các khả năng chuyên môn (skills) để kiếm sống và đóng góp vào nền công nghệ của Mỹ. Cách giáo dục này giống như ta dạy cho một đứa trẻ tập đi xe đạp hoặc học bơi. Đầu óc thanh niên Mỹ vì thế đâm lười. Không dùng đến lý trí, không chịu khó suy tư nữa.

Càng lâu thì đầu óc trở nên thiếu cởi mở, chuộng kỹ thuật.

2. Thanh niên Việt cần có một đầu óc mới, cởi mở, không giáo điều:

Thanh niên Việt sang Hoa Kỳ và các nước khác chắc chắn phải học những tiến bộ của họ. Tuy ở Hoa Kỳ tỉnh thần duy lý đã chấm dứt nhưng Hoa Kỳ hiện cũng vẫn còn là một nước đứng đầu nhiều tiến bộ kỹ thuật và khoa học trên thế giới. Thanh niên Việt cần noi theo cái gương của thanh niên Nhật dưới thời Minh trị. Chính phủ Nhật đã sớm ý thức việc phải học cái tiến bộ kỹ thuật của Âu Mỹ nên đã khuyến khích thanh niên của họ đi ra các nước ngoài để học cái hay, cái giỏi của ngoại quốc. Họ đã hoàn tất việc xây dựng lại Nhật trong vòng 100 năm. Khi đi ra nước ngoài, thanh niên Nhật nhờ vào tinh thần cách mạng, cởi mở, không giáo điều, đã thực sự làm họ mở mang được đầu óc. So với thời này, thanh niên Iran (trước thời Khomeini) tuy cũng đã được chính phủ họ gửi đi ra nước ngoài học hỏi, lại được tiền trợ cấp của chính phủ họ dồi dào, nhưng không tiến bộ vì đầu óc chật hẹp và mắc bệnh "Giáo điều" (dogmatic).

Thanh niên Việt ngày nay cũng phải nhớ rằng đầu óc của ta cũng đã hỏng rồi từ mấy thế hệ trước đây. Nước ta bị gần 1,000 năm Tống Nho. Đầu óc ta một chiều. Nghĩa là ta tin sách và tin Thánh. Đến khi có trào lưu học thuyết Cộng sản thì cũng vì thế mà nhiều thanh niên, trí thức ùa vào tin sách và tin thánh cộng sản. Xét trong các nước trong Á Châu thì có Việt Nam và Tàu bị mắc bệnh này. Nhật thì không, vì họ có tinh thần Tam giáo, sau khi tiếp xúc với Tây phương thì có thêm Hoa giáo. Nhờ vậy, Nhật có đầu óc duy lý, không tin sách tin thánh bừa bãi. Họ biết lý luận, không u mê, không nhắm mắt tin càn.

Thế hệ mới của thanh niên Việt Nam cần phải sáng suốt. Đầu óc phải cách mạng, cởi mở. Muốn thế phải chịu khó suy tư. Rất tiếc, các anh cũng khó có thể học được các điều này ở trường học Mỹ. Xã hội Mỹ bây giờ máy móc quá nên con người và đầu óc cũng đâm ra máy móc. Ngày xưa có chuyện thầy Tử công đang đi dạo ở một vùng quê, thấy có một ông cụ già đang lom khom tưới cây ở đám ruộng bên đường. Ông cụ cầm một cái gàu nhỏ múc nước từ một cái giếng để tưới vào từng gốc cây. Cây thì nhiều và ruộng thì lớn quá. Lấy làm lạ, Tử công đến bên ông cụ và hỏi: “Này cụ, trông cụ làm việc vất vã quá mà bao giờ thì tưới hết ruộng này? Cụ không biết rằng bây giờ người ta có cái guồng đạp nước, chỉ cần đạp vài công giờ là xong việc Nhanh lắm, đỡ tốn thì giờ.". Ông cụ trả lời: "Ô, tôi có lạ gì cái máy đó, tôi không muốn dùng nó.". Tử công ngạc nhiên hỏi: "Sao không dùng?” Ông cụ đáp: “Hữu cơ sự tất hữu cơ tâm!" (có nghĩa là nếu anh dùng máy móc thể cái đầu anh thành máy móc). Đó là cái tinh thần ngày nay của Mỹ. Cả nước Mỹ chỉ cần vài anh suy nghĩ, sáng tạo. Đám đông còn lại thừa hưởng các sản phẩm đó. Đầu óc không cần suy nghĩ vì mọi thứ trong cái xã hội này đều sẵn sàng. Đầu óc không quen suy nghĩ sẽ trở nên giản dị, đơn sơ. Do thế con người sẽ đâm lười không muốn lý luận tìm tòi.

3. Thanh niên Việt cần gìn giữ tính Tinh khôn của Dân tộc.

Người Á Đông nói chung, người Việt ta nói riêng, đến từ những xã hội mà mọi thứ tiện nghi đều thiếu cả. Đầu óc vì thế hãy còn chịu khó tìm tòi, suy nghĩ, khiến cho nó trở nên tinh tế, bén nhạy, và tinh khôn. Về khía cạnh tinh khôn thì ta khôn hơn cả Tàu mặc dù Tây phương thường phục Tàu sát đất vì sự tinh khôn của họ. Ta chẳng những đã không phục Tàu mà lại còn chê Tàu nữa. Nếu không thế thì làm gì lại có câu "mặt cứ nghệt ra trông như chúa Tàu nghe kinh", câu này dùng để chế riễu anh nào mặt mũi trông có vẻ ngờ nghệch. Sang đây, người Việt Nam, nhất là các anh chị thanh niên, phải thường xuyên tranh đấu để giữ lấy cái tinh khôn, sắc sảo đó của Dân tộc.

Tôi nghĩ anh chị em thanh niên cần phải phát động ra một Phong trào gây nên cái ý thức trong cộng đồng người Việt tỵ nạn ở khắp nơi là làm thế nào để trong khi ta đang học cái hay của người mà vẫn giữ được nét tinh khôn riêng của dân mình. Như thế có hai cái lợi. Một là làm phong phú và giàu có thêm cái kiến thức, cái kinh nghiệm của ta. Hai là chính nhờ thế mà ta có thể tồn tại và phát triển được ở nơi xứ người. Hãy nhìn đến cái gương của các giống dân thiểu số khác như Tàu, Do Thái, Nhật ở nước Mỹ. Họ cũng vẫn sinh sống ở đấy hàng mấy thế hệ, thế mà họ vẫn khác Mỹ, vẫn giữ được nét tinh anh riêng của dân tộc họ.

Trong hoàn cảnh lưu vong hiện nay, theo kinh nghiệm của các đám dân lưu vong khác, ta thấy trước sau gì rồi người Việt tỵ nạn cũng bị dồn vào thế phải đoàn kết với nhau. Người Do Thái khi mới đến lập nghiệp xứ này cũng đánh đấm dành giựt lẫn nhau. Sau bị dồn vào cái thế phải đoàn kết để tự tôn, thế rồi nương vào đấy mà đâm ra phát triển, giàu có, và trở thành có uy thế chính trị nữa. Người Tàu cũng thế. Nhật cũng thế. Họ đã đoàn kết, đã tin tưởng nhau cho nên đã giúp đỡ lẫn nhau để sống sót, chẳng những thế lại còn nắm được các huyết mạch kinh tế tài chính của nước người. Ta phải tóm học cái kinh nghiệm đó của họ càng sớm càng tốt nếu không nguy hại lắm.

4. Phải gầy dựng lại truyền thống chữ Tín:

Dưới thời Pháp thuộc, Pháp nó không dạy mình làm Người. Ngày xưa, các cụ nhà Nho có, tuy họ có nhiều cái sai, cái cố chấp nhưng về phương diện đạo đức thì các cụ vẫn nêu được một cái gương sáng. Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín các cụ vẫn giữ đủ. Các giá trị ấy mất dần ở các thế hệ gần đây. Nhân còn rất ít, bất nhân rất nhiều. Nghĩa, là cái biết về nghĩa vụ của mình với gia đình, tổ quốc và xã hội; nghĩa mất nhiều trong xã hội Việt Nam cận đại. Lễ, so với các dân tộc khác thì ta còn nhiều. Trí, còn nhiều. Tín, gần như mất hẳn, không ai tin ai hết. Tôi muốn đề cập thêm về sự mất mát của chữ tín trong con người Việt Nam trong thời gian vừa qua và bây giờ, nhất là sự cần thiết của chữ tín trong đời sống của cộng đồng người Việt ở ngoài nước.

Hiện bây giờ có nhiều tổ chức cứ hô hào phải bảo tồn văn hóa Việt Nam. Nói như thế hình như cho rằng tất cả những cái giá trị cổ truyền đó vẫn còn, nên bây giờ phải làm sao để giữ cho nó khỏi mất. Tôi thấy không những ta phải bảo vệ những gì ta còn mà còn phải khôi phục, gầy lại những gì tốt đẹp mà ta đã mất rồi. Thí dụ như, ta vẫn hãnh diện là con cháu Trần Hưng Đạo, rồi lấy cái sự vẻ vang của đời Lý, đời Trần mà tuyên dương. Hãy tự hỏi nếu đời Trần có tinh thần Hội Nghị Diên Hồng thì tại sao năm 1975, trước khi bỏ chạy, ta không có được một Hội Nghị Diên Hồng? Như thế, trong thực tế ta đã mất cái tinh thần Diên Hồng của Dân tộc rồi. Bây giờ muốn có cái tinh thần Diên Hồng ấy thì phải lập lại chứ có còn đâu để mà bảo vệ. Mấy thế hệ vừa qua đã mất cái tinh thần ấy rồi. Cho nên thế hệ các anh phải làm lại.

Nếu anh em dự định làm báo, làm diễn đàn thanh niên sinh viên thì cái vấn đề cứu vãn những giá trị đạo đức, những truyền thống tốt đẹp của Tổ tiên phải là việc làm cấp thiết. Thế hệ các anh và tương lai phải có lại những trang sử vẻ vang như ông cha ta đời Lý, Trần. Hãy bắt đầu bằng việc gây dựng lại chữ Tín, vì nếu không làm lại được thì đừng nói gì đến công việc giải phóng đất nước hay cứu giúp được dân tộc. Cứ nói về hiện trạng của chúng ta ở đây thì hiện thời ta đang thua kém người Tàu, Nhật, Cao ly, mà cả Phi Luật Tân nữa. Vấn đề nằm ở tại chỗ không ai tin nhau hết. Không tin nhau mà kêu gọi đoàn kết thế nào được. Tây nó đã phá cái tinh thần tin nhau – tức là cái căn bản của sự đoàn kết của Dán tộc. Tôi còn nhớ sau các vụ cách mạng năm 1930, chỗ nào Tây nó cũng gài lính kín, mật vụ để làm người ta sợ hãi, ngờ vực, rồi sinh ra tố giác lẫn nhau. Kể từ lúc đó ta mất chữ tín trong xã hội Việt Nam. Cái đó nhất định phải lập lại. Những người lớn tuổi trong thế hệ chúng tôi hoặc dưới một chút đã mất cái truyền thống chữ tín rồi thì không thể nào bảo họ phải trở lại tin nhau được. Tôi tin rằng chỉ có lớp thanh niên bây giờ mới có thể làm lại được, vì anh em chưa có nhiều quyền lợi bị đụng chạm. Hãy phát động một phong trào rộng rãi để gây dựng lại chữ tín ở trong tầng lớp anh em trẻ. Hãy hy sinh và kiên nhẫn. Việc làm này mất thời gian và không giản dị nhưng các anh thanh niên phải làm.

5. Hãy gầy ý thức về sự khôi phục lại một nền Quốc học:

Đã từ lâu dân tộc bị mất đi cái nền Quốc học của mình. Bắt đầu từ khi nhà Minh bên Tàu nó sang. Bao nhiêu sách vỡ, sáng tác của dân tộc, nhất là dưới đời nhà Trần, bọn Tàu phần phá huỷ, phần vơ vét mang về Bắc kinh hết. Rồi nó mang sách nó sang bắt sĩ phu của mình học. Lâu dần thành thói quen, các sĩ tử đi thì chỉ học toàn sách Tàu. Nền Quốc học của ta vì thế mất dần. Tệ nhất là đến đời nhà Nguyễn rồi tới đời Pháp. Pháp nó muốn dạy mình cái gì thì dạy, mình không có quyền chi cả.

Các thế hệ trước lại ít chú trọng đến việc đào tạo các nhà học giả, các chuyên viên nghiên cứu. Trong Nam có một vài vị nhưng công việc thì đa đoan quá, sức người có hạn, thành thử cũng chưa đến đâu. Ngoài Bắc thì có đặt vấn đề nghiên cứu những mà nội dung thì bị vặn vẹo hết cả. Cái gì cũng phải lái sang chủ nghĩa Marxist. Nói tóm lại, lãnh vực nghiên cứu hãy còn là một chỗ trống rất lớn. Các thế hệ sau này phải làm, phải kiên tâm mà làm. Phải có đông người và chia nhau ra mà làm lại, làm gần như từ đâu.

Mình có nước có dân thì mới thực sự có Quốc học được. Thế nhưng ở đây thì mình cũng cần vạch ra một chương trình tổng quát, cứ coi như mình đang có nước, mình dạy dỗ lẫn nhau.

Phải có thái độ thành khẩn ở đây mới được. Không tự ái, không câu chấp. Thế rồi những người có chút khả năng, chút hiểu biết phải làm cái công việc nghiên cứu, tìm hiểu. Các công trình ấy phải được phổ biến và truyền bá giữa những người Việt trong cộng đồng.

Thêm một vấn nạn nữa cho mình là các sách cũ viết sai nhiều quá. Các cụ ngày xưa đã nói: "Ôn cố tri tân,”, nghĩa là học lại cái cũ để biết được cái mới. Nhưng mà nhiều sách viết sai quá thành ra có học lại lại cũng loay hoay. Chẳng lẽ học mấy cái sai chăng? Bây giờ các anh cứ giở một quyển sách triết học Đông phương, bắt cứ của ai, bất cứ viết bằng tiếng Việt, Tàu, hay tiếng Anh, các anh đọc và ngắt ra nhiều câu thì thấy ngay cái sai. Sai là vì do tam sao thất bổn, tức là khi người chép lại chép không đúng, không đủ, hoặc cũng có khi là ngụy tạo nữa. Trước đây Tàu nó định làm lại công việc xét định lại cái sai cái đúng của sách nó, gọi là huấn hỗ. Người định làm công việc ấy là ông Hồ Thích nhưng chưa làm được bao nhiêu thì nước Tàu bị chiến tranh, sau khi ông ta chết thì công việc đều bỏ dở. Sách của mình về Nho giáo, Lão giáo, Phật giáo cũng có nhiều cái sai trầm trọng. Vì thế, các thế hệ tương lai phải học lại, nghiên cứu lại tận gốc thì mới tìm được sự thật của nó. Mà khi ra được sự thật rồi, tức là nắm được cái cốt tủy của nó, thì vấn đề chẳng còn gì là bí hiểm nữa. Có người than Đạo Đức Kinh học bí hiểm qua. Sự thật đâu có phải vậy, tại chép sai, giải thích sai thành ra nó bí hiểm; và cái anh làm công việc giải thích sai cứ tưởng là mình đang làm đúng.

Còn nhiều cái nữa mà ta phải học lại vì cái học là học tất cả. Tư tưởng là một bộ môn của văn hóa. Văn hóa là sự vay mượn lẫn của nhau. Chẳng có một dân tộc nào tự sản sinh ra cái văn hóa cả. Chỉ có anh Tàu, vì tự cho mình là cái rốn của vũ trụ nên nói phét cho rằng văn hóa Á đông là sản phẩm thuần túy của Trung Quốc. Nền văn hóa của ta là sự vay mượn, sự tổng hợp của nhiều nền văn hóa khác nhau như của Tàu, Ấn, của Mã Lai... cho nên cái học văn hóa là cái học văn hóa toàn diện của nhân loại. Học như thế để theo dõi được sự tiến hóa và sự trao đổi văn hóa của nhân loại. Thí dụ, bây giờ, sử gia ngày sau nếu không biết rằng có chuyện người Việt mình di cư sang Mỹ thì làm sao lại có thể giải thích về vài đặc điểm trong đời sống Mỹ có phần giống người Việt Nam được. Mỗi lần di dân như thế trong lịch sử loài người thì con người mang theo văn hóa của mình. Đến một nơi nào đó, con người lại trao đổi, pha trộn với cái văn hóa ở địa phương mà họ dừng chân. Do đó, khi học về văn hóa không thể là một sự học về thứ văn hóa đóng khung. Càng học được nhiều nền văn hóa càng tốt, càng mở mang hiểu biết.

Cái mà tôi khuyên các anh chị thanh niên, nếu cho phép tôi khuyên anh chị em, khi học ở đại học để kiếm một cái nghề sinh sống với mảnh bằng Cao học hay Tiến sĩ chi đó, thì cũng nên chịu khó theo dõi những phát minh mới của khoa học. Tôi biết thì giờ rất eo hẹp, nhưng không làm thế không được, nếu các anh chị còn muốn trong tương lai đóng góp cho đất nước, dân tộc. Một điều nữa tôi muốn nhấn mạnh là khi học hỏi phải học hỏi bằng một đầu óc mới cởi mở, tươi mát.

XÁC ĐỊNH:

“Xin cụ cho lời phát biểu chót để đúc kết phần phỏng vấn mà cụ dành cho Xác Định nói riêng, và anh chị em thanh niên sinh viên Việt Nam ở hải ngoại nói chung."

CỤ CHÍ:

"Theo Phật giáo Việt Nam thì Phật giáo có thuyết luân hồi, nghĩa là khi một người sắp chết thì linh hồn của người ấy vượt ra khỏi xác để nhập vào một thể xác một đứa trẻ sơ sinh. Tôi xin nói rằng đây là thuyết luân hồi của Ấn độ giáo, được Kỳ-na-giáo chấp nhận nhưng Phật Thích Ca lại không đồng quan điểm. Theo Đức Phật, Phật ví con người như cái đèn dầu và linh hồn như ngọn đèn. Khi người chết thì linh hồn cũng biến mất không khác gì ngọn lửa biển đi khi đèn hết dầu. Theo Đức Phật thì chỉ có truyền kiếp chứ không có luân hồi. Có nghĩa là bố mẹ sinh ra con cái thì truyền cho chúng "cái sống của mình". Nó cũng có thể được hình dung như ta dùng một ngọn đèn đương cháy để châm sáng một ngọn đèn khác. Hiểu một nghĩa rộng thì truyền kiếp còn là sự truyền cả cái kiến thức, kinh nghiệm từ đời này sang đời khác. Vì thế cho nên văn hóa nhân loại nó bất diệt. Đó là ý nghĩa của sự trả lời của tôi dành cho Xác Định và cho anh chị em thanh niên sinh viên Việt Nam ở ngoài nước.

Tôi nghĩ rằng tôi biết được cái gì – tuy không biết được nhiều, vì tôi sống ở thời loạn nên không được học nhiều – tôi sẵn sàng truyền lại cho các anh em thanh niên. Trong 70 năm, từ lúc tôi sinh ra đời trong một làng xóm Việt Nam lúc hãy còn chưa có một tí dấu vết nào gọi là của văn hóa Tây phương mang tới - xà phòng chưa có, tông-đơ (tondeux) cắt tóc chưa có, xe đạp chưa có - thế nhưng dần dần tôi chứng kiến thấy những sự đổi thay về xã hội, chính trị, kỹ thuật nên tôi có nhiều cơ hội nhận xét, suy gẫm và theo dõi. Đến khi rời Việt Nam cách đây độ hơn 20 năm và đến sống ở Mỹ, tôi có dịp suy nghĩ, chứng nghiệm thêm. Giờ đây nếu tôi có phát huy được cái gì, tôi sẵn sàng để chuyển lại cho các anh, chuyển lại đời sau. Không chắc những cái tôi nhận xét và phát biểu đã là đúng, thế nhưng nó là những nhận xét, những ý kiến để mà các anh sẽ có những nhận xét và bổ khuyết thêm. Cứ mỗi một thế hệ như thế đi qua thì sau này cái kho tàng kiến thức của mình nó tích lũy lại, nó trở nên phong phú hơn.

ĐẶNG ĐÌNH KHIẾT

TIỂU SỬ CỤ HOÀNG VĂN CHÍ

Cụ Hoàng vân Chí sanh ngày mùng 1 tháng 10 năm 1915 tại một nông trại tỉnh Thanh Hóa, Việt Nam. Xuất thân từ một gia đình Nho gia, cụ đã theo học các trường Lycee Albert Sarraut (1928-35) và đại học Universite de L'Indochinese (1935-40), đậu cử nhân Toán, Vật lý, Hóa học và Vạn vật.

Tiếp nối truyền thống đấu tranh chống thực dân của cha ông, cụ Chí tích cực tham gia các phong trào kháng Pháp đặc biệt phong trào Việt Minh 1936 - 39. Khi Pháp trở lại Việt Nam năm 1945, cụ Chí tham dự chính phủ Hồ Chí Minh và giúp chính phủ kháng chiến với chức vụ một chuyên viên, phụ trách đúc tiền, làm giấy in bạc, chế tạo hóa chất cho Quốc phòng. Mặc dầu được Hồ Chí Minh tuyên dương công trạng trong toàn quốc năm 1948, cụ Chí quyết tâm rời bỏ Bắc Việt để vào Nam năm 1955 khi Cộng sản chiếm chính quyền miền Bắc. Sau đó, nhận thấy chính quyền trong Nam đi dần vào chuyên chế và tự do báo chí bị hạn chế, cụ Chí quyết định xuất ngoại để có thể viết lại những kinh nghiệm của mình. Cụ đi Ấn Độ, giữ chức phó Lãnh sự tại New Dehli năm 1959-60, sau đó tình nguyện sang Âu Châu, lưu trú tại Paris từ năm 1960 - 65 nơi mà cụ viết cuốn “Từ Thực Dân Đến Cộng Sản", năm 1964, xuất bản cùng lúc ở New Dehli, Luân đôn và Nữu Ước. Năm 1965, cụ qua Hoa Kỳ viết cho đài VOA từ năm 1965 đến năm 1969 và sau đó làm giảng viên văn hóa và triết học cho Cơ quan Phát triển Quốc tế, Viện Ngoại Vụ, và một số đại học.

Một trong những công trình của cụ là nghiên cứu và lập thuyết tiến hóa văn hóa (đơn phương, đa phương, tuần hoàn) để giải thích sự tiến hóa tâm lý xã hội, chính trị, kinh tế và lịch sử.

Năm 1940, ông Chí lập gia đính với bà Phan Lệ Hằng. Ông Bà có ba người con, một trai, Việt Dũng, hai gái, Ngọc Anh và Minh Thơ.