Tiểu Sử.
Tên thật Vũ Quốc Châu. Sinh ngày 6 tháng 1 năm 1933 tại Hà Nội. Bắt đầu viết văn từ năm 1952. Vào Sài Gòn năm 1953. Cộng tác với nhiều tờ báo miền Nam. Làm việc tại Đài Phát Thanh Quốc Gia Sài Gòn (1960-1968). Sau 1975, đi tù trên 10 năm. Định cư Hoa Kỳ cuối năm 1999. Hiện đang sống tại tiểu bang Virginia.
Thành
lập Tủ Sách Tiếng Quê Hương vào đầu năm 2000 với tác phẩm đầu tiên phát hành
vào tháng 9 là tập truyện ngắn “Thân Phận Ma Trơi” của Nguyễn Thụy Long. Tới
nay Tiếng Quê Hương đã xuất bản trên 80 tác phẩm.
Đã xuất bản: – Những Con Cọp Cháy Móng (đăng trên Tạp Chí Sinh Lực – Sài Gòn từ 1959 đến 1961), – Trống Trận (đăng trên Nhật Báo Tin Sáng, 1964) – Trong Ánh Lửa Thù (tiểu thuyết dã sử, 1988) – Gươm Thiêng Trấn Quốc (tiểu thuyết dã sử, 1987) – Thơ Việt Hiện Đại 1900-1960 (phê bình văn học, Nxb Hồng Lĩnh – Sài Gòn, 1970) – Các Nhà Văn Nữ Việt Nam 1900-1970 (phê bình văn học, Nxb Nhân Chủ – Sài Gòn, 1973)– Không Tên (tuyển tập thơ, viết trong tù)
VÙNG ĐẤT TÌNH NHÂN
Tâm Bút
Trưa
13-9-1999, khi
máy bay bốc lên khỏi đường băng, tôi
nhìn qua ô kính cửa sổ. Mặt đất vụt chìm dần trong ánh nắng đã chuyển thành
khói sương nhòa nhạt.
Dưới
lớp khói sương đó là Sài Gòn.
Sài
Gòn chìm sâu, chìm sâu dần rồi mất hút giữa mặt phẳng bao la với những vệt đen
khổng lồ rải rác.
Khoảng
cách đã mở ra, giữa tôi với mặt đất, giữa tôi với Sài Gòn. Khoảng cách tăng
thêm mãi và cuối cùng, dưới mắt tôi chỉ còn một biển mây trắng muốt trải dài vô
tận.
Tôi
quay lại với mấy dòng chữ trên màn hình phía trước cho biết máy bay đang ở độ
cao 30 ngàn bộ trên biển Đông.
Sài
Gòn đang rời xa
và xa thẳm.
Điều
gì sẽ chờ tôi sau khi máy bay hạ cánh ở trạm cuối?
Chuyến
bay trù liệu hơn 40 giờ qua ba trạm Hong Kong, London, New York trước khi đưa
tôi tới vùng đất mới mà Hoàng Hải Thủy liên tục nhắc qua thư gửi về cho tôi với
cái tên “Vùng Đất Tình Nhân — Virginia’s for Lovers.”
Vùng
đất mang cái tên dịu ngọt gợi nhớ ngay các kỷ niệm khó phai, làm sống dậy các
tháng năm đẹp nhất đời người và cũng dễ dàng vỗ về các nỗi băn khoăn lo lắng.
Nhưng,
khoảng cách giữa tôi với Sài Gòn vẫn còn gần hơn so với nơi chuyến bay cuối sẽ
hạ cánh. Do đó, tôi đã quên ngay câu hỏi vừa nổi lên để quay về với Sài Gòn.
Thế
là đúng lúc đang bay giữa vùng trời rộng, tôi lại bắt gặp mình trong gian phòng
nhỏ giữa Sài Gòn: Phòng giam tập thể số 2, trại tù X15.
Trước
mắt tôi lúc này là một chiếc đầu hói gần như trọc với nước da láng bóng. Ngay
phút đầu bước vào phòng, tôi ngờ ngợ đây là một người quen từng gắn bó. Nhưng
vẻ e dè của ông khiến tôi không dám tin mình nghĩ đúng.
Thêm
nữa, tôi còn chưa quên các điều cấm dành cho tù nhân biệt giam nên im lặng ngồi
xuống một góc.
Khi
cửa phòng giam khóa lại và gã công an rời khỏi hành lang, ông chợt đổi hẳn thái
độ, thì thào hỏi “Bị lâu chưa?” Tôi nhìn và thấy rõ là một
người quen cũ nhưng gần 20 tháng biệt giam khiến tôi trì độn tới mức không cách
nào nhớ nổi là ai. Tôi đáp “Tháng Tám
75.”
Ông
tiếp:
– Tôi bị cách đây mười tháng.
Tôi
nói:
– Vậy là ông còn biết nhiều điều xảy
ra ở bên ngoài?
Ông
gật đầu và hỏi:
– Trước đây anh làm gì?
– Làm báo.
Giọng
ông bỗng nhuốm vẻ hào hứng:
– Làm báo hả?
Không
đợi tôi lên tiếng, ông hỏi tiếp:
– Anh làm báo, vậy có biết Uyên Thao không?
Tôi
khựng lại, chưa biết đáp ra sao. Đúng lúc đó, tôi bắt gặp một dòng chữ trên giỏ
đồ của ông ở góc phòng.
Dòng
chữ giúp tôi bật nhớ ra người ngồi trước mình là ai. Tôi nhớ ngay về các buổi chiều mùa hè 1965,
anh thường tới tòa báo Sài Thành số
66 Võ Tánh, ngồi trước bàn làm việc của tôi. Anh tới để bàn việc với các anh
Phan Huy Quát, Phan Trâm, Nguyễn Tiến Hỷ, Nguyễn Tất Ứng…
Anh
Ứng là người dắt anh lại trò
chuyện với tôi và không lâu sau, anh thường tới ngồi với tôi nhiều hơn, gần như
mỗi buổi chiều, sau khi rời khỏi sở làm của anh là một ngân hàng Pháp ở gần chợ
Bến Thành.
Nhớ
chắc là ai rồi, tôi bỗng nẩy ra ý nghĩ nói trệch đi coi sự việc thế nào. Tôi
gật gật đầu, ậm ừ:
– Uyên Thao hả? Tôi có nghe tên!
Anh
trợn mắt giơ ngón tay cái lên, giọng nghiêm trọng:
– Nó đang làm lớn lắm!
Bây
giờ thì kẻ bất ngờ là tôi. Tôi nhìn sững anh.
Trước cái
nhìn của tôi, anh giải thích:
– Anh không tin cũng đúng. Thằng đó vẫn được
gọi là thứ “chống Cộng đến chiều.” Nhưng sau 30 tháng Tư mới biết rõ nó là ai.
Tôi
băn khoăn thực sự: “Vậy là thế nào?”
Anh
kể:
– Lúc đầu nghe nói, tôi cũng không
tin. Cuối cùng chính Phan Trâm nhắc với tôi là có người nói đã thấy nó đi xe
hơi có hộ tống và có trụ sở ở góc đường Cao Thắng – Phan Đình Phùng. Trụ sở
của nó được canh gác nghiêm lắm. Bây giờ nó ở một villa lớn gần đó. Mấy tháng
trước khi bị bắt, tôi còn nghe nói nó đã tìm cách nâng đỡ cho Phan Trâm và
Nguyễn Tiến Hỷ rất nhiều. Có thể lúc này mấy tay đó không sao đâu, vì đã có điểm
tựa vững chắc. Nó vẫn gắn bó khăng khít với hai tay đó mười mấy năm rồi.
Giọng
anh trở nên sôi nổi.
Tôi
không muốn cắt ngang hứng thú kể một chuyện lạ nên tỏ vẻ lưu ý tới điều anh
đang kể. Và anh tiếp:
– Nó hoạt động cho Cộng Sản từ trước 1954,
trong ngành tình báo, thành ra thái độ chống Cộng quyết liệt chỉ là bộ vỏ che
đậy. Kể ra nó cũng tài thật. Không chỉ nhiều người chế độ cũ tin nó mà ngay đám
an ninh Sài Gòn cũng không phát giác nổi dấu hiệu nào về việc nó là một tên
Cộng Sản hoạt động trong bóng tối.
Anh
chấm dứt bằng một hơi thở dài.
Tôi
dựa lưng vào vách ngắm người vừa kể một huyền thoại về chính mình.
Lúc
này, anh thu người lại trong góc phòng và nhìn ra ngoài hàng song sắt với cặp
mắt đờ đẫn. Những đường nhăn trên trán và từ hai đuôi mắt kéo dài xuống má anh
khiến tôi thấy anh tiều tụy và gần như không còn chút hơi sức.
Tôi
vừa được lôi ra từ đáy mộ, đang háo hức chờ nghe chuyện ngoài đời, nhưng câu
chuyện đầu tiên được nghe lại chẳng ra sao. Với người đang ngồi trước tôi, câu
chuyện còn như gáo nước lạnh tạt vào mặt làm bật ra một sự thực tương tự người
tận mắt thấy mình bị tình phụ. Tôi nhớ nhanh về các buổi chiều trò chuyện đầy
tin cậy giữa anh cùng anh Nguyễn Tất Ứng với tôi, nhất là những ngày anh Ứng
không bao giờ về nữa sau chuyến công du tai họa ra Quảng Ngãi.
Thấy
không nên để anh kéo dài nỗi cay đắng, lúc đèn hành lang bật sáng, tôi nhích
lại gần, khẽ gọi:
– Anh Hướng!
Anh
quay lại, nhíu mày có vẻ bất ngờ. Tôi hỏi:
– Anh quên tôi rồi sao?
Anh
nhìn tôi chăm chăm, vẫn không nhận ra. Tôi nói:
– Anh quên tôi, nhưng tôi vẫn nhận ra
anh là Nguyễn Văn Hướng, tổng thư ký Văn Phòng Phủ Tổng Thống và là cố vấn của
ông Thiệu. Trước đó anh là thứ trưởng Bộ Xây Dựng Dân Chủ của phó thủ tướng đặc
trách Xây Dựng Dân Chủ Nguyễn Tiến Hỷ, và là bạn của anh Nguyễn Tất Ứng, tổng
trưởng Xây Dựng Nông Thôn. Anh thấy tôi nhớ có đúng không? Làm sao anh lại tin
chuyện quỷ quái về tôi như vừa kể! Anh có nghe tin gì về bác sĩ Quát không? Tôi
và bác sĩ Quát bị bắt cùng đợt. Anh nhìn kỹ đi. Tôi là Uyên Thao đây!
Anh
xoay hẳn lại như muốn nhảy nhổm lên.
Rồi
vừa chụp cả hai tay tôi, anh vừa lắp bắp:
– Ô, Uyên Thao hả?... Làm sao… làm sao…?
Tôi
không nhớ
anh nói gì, nhưng mắt anh không còn đờ đẫn nữa…Từ đó qua cả năm sau, tại các
trại tù X15, K3 rồi Z.30A, anh luôn ở bên tôi cho tới khi anh rời trại Z.30A.
Anh
bị giải đi vào buổi sáng chúng tôi đang lao động ngoài rừng. Khi trở về, tôi
thấy đống mền gối bên cạnh tôi không còn nữa. Người trực phòng nói với tôi:
– Cụ Hướng chuyển trại rồi. Sáng sớm nay cụ ấy
được lệnh gom đồ qua bên “khung” làm việc rồi bị đưa đi luôn. Không biết cụ ấy
bị đưa đi đâu.
í
Ba
tháng sau, trong dịp thăm tôi, vợ tôi báo tin:
– Chị Hướng mới cho em hay là anh Hướng mất
rồi. Anh ấy bị giải về Chí Hòa và bị đứt mạch máu não. Chị ấy nói chúng nó đưa
anh ấy vô bệnh viện Vì Dân rồi chết ở đó.
Tôi
vẫn nhắc với các bạn tù một ý nghĩ là với phận tù chúng tôi thì cứ coi như ngày
mai bị đưa ra bắn hay cũng có thể sẽ được thả về. Mỗi ngày đều là ngày cuối nên
khỏi bận tâm về mọi sự, ngoài điều duy nhất là giữ sao cho đừng có một giây nào
hổ thẹn với chính mình. Nhưng cái tin anh Hướng không còn vẫn khiến tôi ngơ
ngẩn nhiều ngày.
Sau
đó, tôi lại nghe tin bác sĩ Phan Huy Quát đã trút hơi thở cuối ở Chí Hòa. Tôi
nhớ một lần gặp nhau trong khu nhà tắm ở trại X15, tôi hỏi về cái phòng thí
nghiệm của bác sĩ thì được nghe đáp bằng giọng buồn bã: “Đâu còn gì nữa, dù tôi không mong gì hơn là được làm công việc đó.”
Mong
muốn gặp lại người quen cũ càng lúc càng mãnh liệt hơn. Vì thế, ngay khi còn bị
quản chế, tôi đã liều đạp xe xuống khu trường đua Phú Thọ, tìm gặp anh Phan Trâm.
Căn
nhà quen thuộc thuở nào đổi khác nhiều nên tôi hơi lựng khựng khi một thiếu nữ
ra mở cửa. Tôi hỏi cô bé:
– Có phải đây là nhà ông Trâm không, cháu?
Cô
bé nhìn tôi, gật đầu. Tôi khấp khởi mừng hỏi tiếp:
– Ông Trâm có nhà không?
Cô
bé mở mắt lớn hơn, đáp nhỏ:
– Ba cháu mất lâu rồi.
Chị
Lệ xuất hiện và nhận ra tôi ngay.
Vừa
nhắc tôi vào nhà, chị vừa nói:
– Chú ốm quá. Có bệnh gì không?
Rồi
chỉ tấm hình trên bàn thờ, chị kể:
– Anh mất hơn một năm rồi, sau khi ra tù ít
lâu. Bây giờ chú về thì anh em không còn thấy nhau nữa.
Tôi
thắp nén nhang, nhìn cặp mắt trong hình người quá cố. Giây phút đó, tôi tự an
ủi còn cơ hội thắp nén nhang thế này, thay vì chỉ nghe nhắc như trường hợp anh
Hướng và bác sĩ Quát, dù nén nhang không thể nói với anh là tôi bị tù trước anh
nhiều tháng chứ không như câu chuyện anh đã nghe kể. Chị Lệ tiếp tục kể với
tôi:
– Những người khác đã đi hết, ở lại chỉ có anh Lập thì cũng mất
rồi. Chú còn nhớ anh Lập chứ?
Tôi
hỏi lại “Anh Trần Việt Sơn, phải không
chị?”
Chị
gật đầu, nhắc:
– Bây giờ chỉ còn anh Hỷ cũng vừa ra tù rồi. Nhưng tôi nghĩ
chú không nên gặp anh ấy. Gặp nhau lúc này chỉ biết nhìn nhau thôi trong khi lại có thể dẫn đến các tai họa.
Tôi
không muốn làm theo
lời chị Lệ, nhưng mỗi lần đi ngang căn nhà đóng cửa im ỉm bên nhà thờ Thị Nghè,
tôi đều không thể dừng lại.
Một
ngày bỗng dưng tôi nói với vợ:
– Sáng nay anh ghé thăm anh Hỷ một lát. Mười
mấy năm rồi, không được gặp ai cả.
Vợ
tôi tần ngần nhưng không cản.
Tôi
dắt xe ra cửa, đạp đi. Tới nơi, tôi thấy một đám đông tụ tập nên đạp chậm lại
thận trọng quan sát.
Đúng
lúc tôi đạp xe ngang cửa căn nhà quen thuộc thì từ trong nhà một người mặc đồ
tang bước ra, ôm tấm hình.
Hình bác sĩ Nguyễn Tiến Hỷ ! Đám tang vừa bắt đầu!
Thêm
một lần nữa, tôi lại hụt bước dù đã may hơn nhiều so với các lần khác.
Tôi
nhớ tới lời nhắc của chị Lệ và nghĩ nếu có chị ở bên, tôi sẽ nói: “Gặp
nhau thế này chắc không có gì nguy hại, phải không chị?”
Tôi dắt xe xuống cuối hàng người để được tiễn đưa anh một đoạn đường sau nhiều năm xa cách.
Dừng
lại bên vệ đường nhìn đám xe tang rời xa dần, tôi ngỡ mình trở thành chiếc bóng
chập chờn bên dòng người qua lại. Tôi không đếm số người quen đã khuất bóng
mười mấy năm qua mà chỉ thấy Sài Gòn trống vắng và xa lạ tới kinh hoàng. Từ
ngày đó, tôi sợ đi tìm gặp người quen cũ.
Cũng
từ ngày đó, tôi vẫn sống giữa Sài Gòn mà luôn có cảm giác đang ẩn thân ở một
vùng đất lạ. Lạ không vì thiếu người quen mà vì luôn lạc lõng với mọi chuyện
diễn ra.
Nhưng
vùng đất lạ đó bừng bừng sống lại nơi ký ức tôi suốt hơn 40 giờ bay đưa tôi rời
xa nó.
Từ
Sài Gòn tới Hong Kong, từ Hong Kong tới London, từ London tới New York, rồi từ
New York về Washington DC, tôi như quên hẳn Vùng
Đất Tình Nhân mà tôi đang tới. Lúc nào Sài Gòn cũng chập chờn khi là một hình ảnh, khi là một âm thanh, khi là
một hoạt cảnh, khi là một con người...
Tôi
vừa thấy mình đứng như trong mơ ở ngã tư Pasteur - Thống Nhất buổi trưa
30-4-1975, lại thấy mình đang ngồi ở chùa Pháp Hoa đối diện với Vũ Trọng Mục
một buổi tối cuối năm 1986. Tôi chỉ gặp Vũ Trọng Mục vài lần trước 1975 khi anh
là một trung tá tại Quân Đoàn 2 ở Pleiku.
Thế
rồi anh bất ngờ xuất hiện tại chùa Pháp Hoa là nơi tôi đang bị quản chế. Thời
gian đó, mỗi ngày tôi đều phải trình diện Công An Phường lúc sáng sớm và chạng
vạng tối.
Sáng,
tôi phải đến khai mọi dự tính như sẽ đi đâu, gặp ai với mục đích gì… Tối, tôi
phải đến để báo đã làm các việc đó ra sao và nếu bỏ việc nào thì phải nêu rõ lý
do.
Buổi
tối hôm đó, tôi từ Phường Công An trở về, vừa vào chùa thì một người lao tới
ôm chầm lấy tôi. Tôi chỉ nhận ra nhờ anh tự xưng tên: “Mục đây! Vũ
Trọng Mục đây!”
Giọng
anh như nghẹn lại khiến tôi cũng rưng rưng.
Tôi
kéo anh về một góc
chùa, nơi bỏ mấy chiếc ghế gỗ.
Anh
kể về các điều anh trải qua sau khi rời trại tù.
Cuối
cùng anh khuyên tôi nên chọn cái việc mà anh đã tính làm là đi bán kem: “Cứ
đạp xe tới các trường học bán cho sắp nhỏ rồi tới các công viên nghỉ đỡ vào lúc
mệt quá.”
Anh
nêu rõ cách làm và bảo chẳng kiếm được bao nhiêu nhưng tương đối dễ chịu vì
không bị ai cai quản. Rồi anh nói tặng
tôi chiếc xe thùng cà-rem
vì anh không cần nó nữa.
Hôm
sau, tôi qua Phường Công An khai báo dự tính đi nhận chiếc xe đạp để sẽ bán cà-rem.
Gã
công an phụ trách an ninh trừng mắt:
– Ai cho phép anh làm việc
đó?
Tôi
giải thích:
– Vợ con tôi ở tận Cư Xá Thanh Đa đang lo nuôi
thân không nổi nên tôi phải lo tự kiếm sống hàng ngày. Tôi đã đi xin việc ở
nhiều nơi nhưng không nơi nào chịu nhận.
Giọng
y lạnh như băng:
– Cái ngữ như anh thì ma nào cần. Nhưng anh đi
bán cà-rem
thì ai để mắt tới anh suốt ngày được. Tôi không cho phép anh làm việc đó.
Tôi
đã một lần cố cãi với gã công an này khi mới rời trại tù. Đó là ngày tôi nhận
tin từ gia đình cho biết cha vợ tôi mất ở Đà Lạt. Tôi tới gặp y, xin phép về Đà
Lạt lo tang lễ.
Y lắc đầu ngay khi tôi chưa nói dứt, nhưng tôi không ngừng lại. Tôi trình bày
thêm là dù tôi về Đà Lạt thì cũng phải trình diện công an trên đó ngay khi tới
bến xe.
Tôi
nói sao, y cũng lắc đầu rồi kết luận:
– Anh bước ra khỏi ranh giới quận 3 này, tôi
sẽ bắt anh đưa trở lại trại giam tức khắc.
Tôi
thấy không thể nói gì hơn với y nên bỏ qua dự tính bán cà-rem, nêu một dự tính khác.
Trước
ngày gặp Vũ Trọng Mục, tôi đã gặp Mai Tuyết An và cô ấy cho biết sẵn sàng
nhường cho tôi chỗ ngồi bán vé số tại chợ Trương Minh Giảng.
Tôi
nghĩ việc này chắc được chấp thuận vì tôi sẽ ngồi ở nơi không xa phường Công
An. Tôi lại nhận lời phán:
– Tôi cấm anh làm việc đó. Anh coi chừng! Đừng
mưu mượn chuyện kiếm ăn để liên lạc với lũ đồng bọn của anh.
Tôi
thấy hết cách kiếm nổi hai bữa cơm nên nói với y:
– Vậy anh nghĩ giúp tôi sống bằng cách nào bây
giờ?
Y
xua tay ra dấu đuổi tôi đi, trong lúc buông thõng:
– Đừng giở cái giọng đó ra với tôi.
Thứ như anh tha bắn chết là may rồi, ở đấy mà yêu sách!
Tôi
gặp lại gương mặt kẻ bảo vệ pháp luật tại Việt Nam lúc ngồi trong một quán cà
phê ở phi
trường London và nhớ ngay đến
những người Pygmy.
Tôi
đang ở cuối thế kỷ 20 nhưng so với những ngày đầu thế kỷ thì người Pygmy rõ ràng
còn được thương xót hơn tôi dù thuở đó, người Anh vẫn nghĩ họ là một loài hoang
thú.
Ngay
lúc đó, tôi lại nhớ tới một hình ảnh khác.
Khoảng
40 giờ trước khi rời Sài Gòn, tôi ghé thăm cụ Nguyễn Văn Lực tại vùng Tân Định.
Khoảng
1964-1965, đã nhiều lần tờ báo của chúng tôi phản đối một số việc làm của các
nhân sĩ Thượng Hội Đồng Quốc Gia trong số có cụ Lực. Nhưng là bạn với các con của cụ gồm Nguyễn
Văn Năng, Nguyễn Văn Cử, Nguyễn Cái Thế nên lúc nào tôi cũng trọng cụ như bậc
cha chú.
Sau
khi ra tù, tôi tính tìm thăm cụ, nhưng một buổi tối cuối năm 1986, khi cùng
Nguyễn Văn Năng ghé chùa Pháp Hoa thăm tôi, Nguyễn Văn Cử đã dặn:
– Ông tuyệt đối đừng tới gặp ông cụ để tránh
mọi thứ không hay có thể xẩy ra.
Khi
biết tôi sắp xa Sài Gòn, Nguyễn Cái Thế nhắn tôi cố ghé lại, chậm nhất là vào
sáng Thứ Bảy.
Tôi
y hẹn, vì sáng sớm Thứ Hai đã ra đi.
Cụ
Lực đã qua tuổi 90 chỉ quẩn quanh trong gian phòng nhỏ vắng lặng. Tôi ngỡ ngàng
vì thân hình khẳng khiu và cảnh sống âm thầm cô độc của cụ.
Ngồi
xuống cạnh giường, nắm bàn tay chằng chịt gân xanh của cụ, tôi nhớ lại 40 năm
trước cùng cụ ẩn trốn tại chùa Sùng Đức ở Thủ Đức, thời đệ nhất Cộng Hòa.
Thuở
đó, cụ đang soạn một tham luận chính trị và luôn đưa ra bàn với tôi. Nhiều năm
về sau, tôi vẫn không quên ánh mắt với cái nhìn nghiêm khắc và nước da xạm nắng
dày dạn của cụ. Lúc này, trước mắt tôi là một người không còn đủ sức đứng vững,
nằm thu mình trên chiếc giường nhỏ.
Không
ai tránh nổi quy luật thời gian, nhưng tôi không nghĩ tới sức tàn phá của tháng
năm mà nhớ tới chuỗi tháng năm cụ đã theo đuổi ước vọng làm một điều tốt đẹp
cho quê hương. Ước vọng đó lúc này vẫn là ước vọng và con người dành trọn đời
theo đuổi ước vọng thì trở thành một ông già đang sống những ngày tàn trong
quên lãng.
Tránh
nhìn cụ, tôi ngó qua chiếc tủ kê sát đầu giường.
Đó
là khoảnh khắc tôi chết lặng trong cảm giác bàng hoàng trước một tấm hình. Tấm
hình treo trên mặt tủ bụi bặm với bình nhang lạnh ngắt không còn một cọng chân
nhang. Đây là tấm hình từng luôn được đặt
tại những nơi trang trọng nhất: Hình liệt
sĩ Nguyễn Thái Học.
Tôi
nhìn đôi lông mày rậm, khuôn cằm vuông của người dứt khoát từ chối ký đơn xin
ân xá, sẵn sàng nhận hình phạt chặt đầu để giữ vững hào khí đấu tranh của dân
tộc. Con người ấy chắc chắn không mong một đền đáp nào ngoài ước vọng góp một
điều tốt đẹp cho quê hương.
Ký
ức tôi chợt vang lên hai câu thơ của thi sĩ Đằng Phương, một bút danh
của anh Nguyễn Ngọc Huy:
Và tử thần kính cẩn đứng ghi tên
Các liệt sĩ vào bia người tuẫn quốc.
Thuở
còn cắp sách tới trường, tôi luôn có cảm giác gai người khi đọc hai câu thơ
này, hai câu thơ mà khi vào đời cầm bút, tôi thấy đạt giá trị diễn tả tuyệt vời
nhất về tính bi
tráng của những cái chết. Và, tôi liên tưởng tới hàng loạt người đã nằm xuống
suốt 30 năm
khói lửa triền miên.
Chắc
chắn không hẳn hàng loạt người đó đều là nạn nhân của các mua chuộc hay bị thúc ép mà không ít người
đã tự nguyện hiến dâng thân mình cho ước vọng làm đẹp quê hương, dù thuộc chiến
tuyến nào. Những cái chết mà tử thần phải kính cẩn chiêm ngưỡng kia còn mấy ai
tưởng nhớ và đã đem lại được gì cho người đang sống trên quê hương?
Tôi
nhớ lại những cánh rừng mênh mông trụi lá, những dải đất bao la với các hố bom
mà từ trên cao nhìn xuống như những cụm pháo bông chi chít, những tòa nhà bị
phá sập bằng chất nổ với các mảnh vôi bết máu, những chiếc đầu bị mã tấu phạt
lìa khỏi cổ, những vành khăn tang, những gương mặt chan hòa nước mắt vì mất
người thân và những hàng áo quan san sát bên nhau trong nhiều ngôi chùa tại Huế
năm nào...
Trước những cái chết này, tử thần có lẽ không thể giữ nguyên thái độ kính cẩn
vì khó tránh nổi nghẹn ngào.
Từng
tấc đất Việt Nam suốt 30 năm
dài từ 1945 đã đẫm máu và nước mắt con dân luôn quằn quại đau đớn từng
giây từng phút. Thời
khắc đó qua chưa, dù đã ngưng tiếng súng?
Tôi
không tìm lời đáp mà quay lại với thân hình còm cõi của cụ Lực đang đờ đẫn nhìn
quanh. Tự nhiên tôi thấy mình bị bao nghẹt giữa nỗi u uất của cả người sống lẫn
người chết và ngộp thở vì chìm sâu mãi vào một vùng mù mịt tối tăm chỉ có tiếng
kêu la của những vong hồn uổng tử.
Tôi
rời gian phòng mà không rũ nổi cảm giác kinh hoàng, cảm giác quanh tôi cõi sống
đang hòa trộn với cõi chết và người cũng như ma đều lạc lõng bơ vơ.
Một
lần nữa, cảm giác đó lại trở về, khi tôi đã cách xa Sài Gòn sáu múi giờ và đang ngồi bình yên trong không
gian đầy ắp tiếng nhạc êm dịu tại một quán cà phê ấm áp. Quán cà phê mang
tên kịch tác gia lẫy lừng Shakespeare. Tôi nhớ lại các màn kịch thấm đẫm
nước mắt của người xưa và thấy tình người vẫn chan hòa ngay trong các màn bi
kịch đó.
Ý
nghĩ này khiến tôi nhận ra nguồn cỗi cảm giác lạc lõng của mình. Suốt mấy chục
năm qua, tôi luôn lạc lõng chỉ vì không tìm thấy sự có mặt của tình đồng loại.
Tất
nhiên, cái tình này không thể chết dù trên mảnh đất Việt Nam còn tiếp tục dãy
dụa giữa lớp lớp cơn đau vò xé.
Nhưng,
tôi và mọi người luôn thấy
thiếu tình đồng loại chỉ vì cái tình này cũng không ngừng bị đe dọa xé xác,
phanh thây nên luôn phải giấu mặt từng giây, từng phút.
Vào
giờ cuối chuyến bay, tôi bắt gặp mình giữa đoàn tù đang di chuyển qua một sườn
đồi. Chúng tôi đi thành hàng một kéo dài gần một trăm thước trước ba họng súng
ghìm ở phía sau. Công việc lúc đó của chúng tôi là tới một bìa rừng đốn cây,
đào đá để có thêm đất trồng trọt.
Mỗi
ngày chúng tôi đều di chuyển trên sườn đồi này.
Mọi
thứ xung quanh đã thành quen thuộc.
Từng
cụm cây, từng gò đá, từng mảng nắng sớm mai, thậm chí những cánh bướm chập chờn
trước mắt cũng đều trở nên nhàm chán. Chúng tôi bước đi trong dáng điệu cúi đầu
nhìn xuống chân mình mà tôi nghĩ chẳng ai nhìn thấy gì.
Nhưng
sáng hôm đó, chúng tôi đã gặp một điều khiến tất cả đều sửng sốt. Trước hết là
một ý nghĩ vừa chán ngán vừa mỉa mai rồi sau đó là một khoảng thời gian chết
sững.
Sự
việc diễn ra chỉ vài chục giây lúc chúng tôi ra khỏi một khúc quẹo. Từ phía
trước vang lên tiếng hợp ca của ba cô gái trẻ đang đi ngược về phía chúng tôi.
Ba
cô gái phủ trên mình các thứ áo quần
không khá hơn chúng tôi bao nhiêu, nắm tay nhau hát bài hát mà mỗi tối đám tù
đều phải ngồi quây lại hát một lần rồi mới được phép nằm xuống ngủ. Tôi ngán tới cổ cái điệp
khúc gào lớn liên hồi “Việt Nam, Hồ Chí
Minh…, Việt Nam, Hồ Chí Minh…”
Từ
ngày có mặt ở trại tù này, tôi chưa hề cất tiếng hát, dù hát là bắt buộc. Tôi luôn ngồi lọt giữa đám đông, thỉnh thoảng
nhấp môi làm bộ như hát cho tới một ngày một bạn tù bỗng lôi tôi ra chê là “thiếu thành khẩn” trong học tập vì không
bao giờ cất tiếng hát khiến quản giáo gọi tôi tới hỏi lý do. Tôi giải thích từ bé tôi
chưa từng hát nên lúc này dù muốn hát cũng khó bật ra tiếng.
Kết
quả, tôi phải viết kiểm điểm về việc không hát và bị xếp vào loại tù “thiếu an tâm tin tưởng.” Nhưng bù lại,
từ đó tôi có thể an tâm với việc không hát mà khỏi cần nhấp môi.
Khoảng
cách giữa chúng tôi với ba cô gái thu ngắn dần và tôi thấy bài hát sắp tới cái
điệp khúc nhàm chán.
Bỗng
dưng cả vùng đồi mông mênh lắng hẳn xuống.
Ba
cô gái đột ngột ngưng hát khi tới cách người đi đầu nhóm tù khoảng vài chục
bước. Tôi thấy các cô nhìn về hướng mấy công an võ trang ghìm súng ở phía sau
chúng tôi. Lúc này chúng tôi chỉ còn cách các cô chừng vài thước và các cô đưa
mắt nhìn nhau. Cùng lúc, tiếng hát lại cất lên.
Không
phải tiếng gào vừa rồi, cũng không phải bài hát vừa rồi. Các cô vẫn nhìn về
phía mấy công an và một cô cất tiếng hát như thì thầm bên tai chúng tôi khi các
cô dừng bên một gò đất để tránh lối.
Lúc
bước ngang, tôi nghe gần trọn một đoạn lời ca:
“Anh không chết đâu anh, người anh hùng mũ đỏ
tên Đương… Anh
vẫn sống hiên ngang trong lòng người biết thương đời lính…”
Giọng
ca nhẹ như hơi gió thoảng, run run trong nỗi nghẹn ngào như sắp khóc nhưng
không khác một luồng điện chạy suốt qua tim tôi. Tôi có cảm tưởng sáu chục cái
đầu trước và sau tôi đều cúi xuống.
Cúi
xuống không để nhìn những bàn chân trầy sát của mình mà để dằn cơn xúc động đột
ngột dâng lên.
Không
bao giờ tôi còn gặp lại ba cô gái và sẽ mãi mãi không biết các cô là ai. Các cô hiện ra và tan đi
như một ảo ảnh. Tôi chỉ có thể gặp lại cảnh buổi sáng trên ngọn đồi ướt đẫm hơi
sương năm đó qua hồi ức.
Nhưng
giây phút tình cờ kia đã trở thành giây phút thiên thu. Các cô đã tan đi như
một ảo ảnh và
là một ảo ảnh bất diệt kết nên bởi những nỗi niềm không thể bộc lộ cùng ai,
ngoài người đồng điệu. Như
người ta thường nhắc, chỉ những người tình mới thấu hiểu và chân thành chia xẻ
mọi nỗi niềm u uất trong tâm tư của nhau thì chúng tôi đã gặp người tình của
mình vào buổi sáng hôm đó.
Và,
cái tên Vùng Đất Tình Nhân mà Hoàng
Hải Thủy nhắc mãi, lúc này tôi lại muốn đem đặt cho một vùng đất khác, vùng đất
mà những người tình của đám tù thuở nào và của riêng tôi từng sống.
Lúc
bước vào vùng
ánh sáng chói chang ở phi
trường Reagan, gặp lại nụ cười thoải mái của những người bạn cũ đang chờ đón,
tôi vẫn nghe vẳng bên tai tiếng hát run rẩy thì thầm trên sườn đồi dưới chân
núi Chứa Chan năm nào.
Sài
Gòn đã xa thẳm nhưng bỗng vô cùng gần gũi, gần gũi hơn cả những ngày tôi ngơ
ngác giữa các đường phố thân quen.
Vì
ở đó vẫn chất ngất nỗi niềm u uất của những người tình chung thủy đang phải cắn
răng che đậy cho cái tình đồng loại thoát khỏi cảnh bị xé xác, phanh thây.
Làm
sao những người tình có thể vơi nỗi nhớ thương nhau!
UYÊN THAO
Virginia, 19.12.1999
l Virginia
19-12-1999
Tên thật Vũ Quốc Châu. - Sinh ngày
06.01. năm 1933 tại Hà Nội.
Bắt đầu viết văn từ năm 1952. Vào Saigon năm 1953. - Cộng tác với nhiều tờ báo miền Nam. Làm việc tại Đài Phát Thanh
Quốc Gia Sài Gòn (1960-1968). - Sau 1975, đi tù trên 10 năm. - Định cư Hoa Kỳ cuối năm 1999.
Ngay từ khi đặt chân lên đất Mỹ vào cuối năm 1999: Thành lập Tủ Sách Tiếng Quê Hương vào đầu năm 2000 với tác phẩm
đầu tiên phát hành vào tháng 9 là tập truyện ngắn “Thân Phận Ma Trơi” của
Nguyễn Thụy Long. Tới nay đã xuất bản trên 80 tác phẩm.
Tác phẩm của Uyên Thao
– Những Con Cọp Cháy Móng (đăng trên
Tạp Chí Sinh Lực – Sài Gòn từ 1959 đến 1961), – Trống
Trận (đăng trên Nhật Báo Tin Sáng, 1964) – Trong
Ánh Lửa Thù (tiểu thuyết dã sử, 1988) – Gươm
Thiêng Trấn Quốc (tiểu thuyết dã sử, 1987) – Thơ Việt Hiện Đại 1900-1960 (phê bình văn học,
Nxb Hồng Lĩnh – Sài Gòn, 1970) – Các Nhà Văn Nữ Việt Nam
1900-1970 (phê bình văn học, Nxb Nhân Chủ – Sài Gòn, 1973)– Không
Tên (tuyển tập thơ, viết trong tù )
VÙNG ĐẤT
TÌNH NHÂN
Tâm Bút * UYÊN THAO
Trưa
13-9-1999, khi
máy bay bốc lên khỏi đường băng, tôi
nhìn qua ô kính cửa sổ. Mặt đất vụt chìm dần trong ánh nắng đã chuyển thành
khói sương nhòa nhạt.
Dưới
lớp khói sương đó là Sài Gòn.
Sài
Gòn chìm sâu, chìm sâu dần rồi mất hút giữa mặt phẳng bao la với những vệt đen
khổng lồ rải rác.
Khoảng
cách đã mở ra, giữa tôi với mặt đất, giữa tôi với Sài Gòn. Khoảng cách tăng
thêm mãi và cuối cùng, dưới mắt tôi chỉ còn một biển mây trắng muốt trải dài vô
tận.
Tôi
quay lại với mấy dòng chữ trên màn hình phía trước cho biết máy bay đang ở độ
cao 30 ngàn bộ trên biển Đông.
Sài
Gòn đang rời xa
và xa thẳm.
Điều
gì sẽ chờ tôi sau khi máy bay hạ cánh ở trạm cuối?
Chuyến
bay trù liệu hơn 40 giờ qua ba trạm Hong Kong, London, New York trước khi đưa
tôi tới vùng đất mới mà Hoàng Hải Thủy liên tục nhắc qua thư gửi về cho tôi với
cái tên “Vùng Đất Tình Nhân — Virginia’s for Lovers.”
Vùng
đất mang cái tên dịu ngọt gợi nhớ ngay các kỷ niệm khó phai, làm sống dậy các
tháng năm đẹp nhất đời người và cũng dễ dàng vỗ về các nỗi băn khoăn lo lắng.
Nhưng,
khoảng cách giữa tôi với Sài Gòn vẫn còn gần hơn so với nơi chuyến bay cuối sẽ
hạ cánh. Do đó, tôi đã quên ngay câu hỏi vừa nổi lên để quay về với Sài Gòn.
Thế
là đúng lúc đang bay giữa vùng trời rộng, tôi lại bắt gặp mình trong gian phòng
nhỏ giữa Sài Gòn: Phòng giam tập thể số 2, trại tù X15.
Trước
mắt tôi lúc này là một chiếc đầu hói gần như trọc với nước da láng bóng. Ngay
phút đầu bước vào phòng, tôi ngờ ngợ đây là một người quen từng gắn bó. Nhưng
vẻ e dè của ông khiến tôi không dám tin mình nghĩ đúng.
Thêm
nữa, tôi còn chưa quên các điều cấm dành cho tù nhân biệt giam nên im lặng ngồi
xuống một góc.
Khi
cửa phòng giam khóa lại và gã công an rời khỏi hành lang, ông chợt đổi hẳn thái
độ, thì thào hỏi “Bị lâu chưa?” Tôi nhìn và thấy rõ là một
người quen cũ nhưng gần 20 tháng biệt giam khiến tôi trì độn tới mức không cách
nào nhớ nổi là ai. Tôi đáp “Tháng Tám
75.”
Ông
tiếp:
– Tôi bị cách đây mười tháng.
Tôi
nói:
– Vậy là ông còn biết nhiều điều xảy
ra ở bên ngoài?
Ông
gật đầu và hỏi:
– Trước đây anh làm gì?
– Làm báo.
Giọng
ông bỗng nhuốm vẻ hào hứng:
– Làm báo hả?
Không
đợi tôi lên tiếng, ông hỏi tiếp:
– Anh làm báo, vậy có biết Uyên Thao không?
Tôi
khựng lại, chưa biết đáp ra sao. Đúng lúc đó, tôi bắt gặp một dòng chữ trên giỏ
đồ của ông ở góc phòng.
Dòng
chữ giúp tôi bật nhớ ra người ngồi trước mình là ai. Tôi nhớ ngay về các buổi chiều mùa hè 1965,
anh thường tới tòa báo Sài Thành số
66 Võ Tánh, ngồi trước bàn làm việc của tôi. Anh tới để bàn việc với các anh
Phan Huy Quát, Phan Trâm, Nguyễn Tiến Hỷ, Nguyễn Tất Ứng…
Anh
Ứng là người dắt anh lại trò
chuyện với tôi và không lâu sau, anh thường tới ngồi với tôi nhiều hơn, gần như
mỗi buổi chiều, sau khi rời khỏi sở làm của anh là một ngân hàng Pháp ở gần chợ
Bến Thành.
Nhớ
chắc là ai rồi, tôi bỗng nẩy ra ý nghĩ nói trệch đi coi sự việc thế nào. Tôi
gật gật đầu, ậm ừ:
– Uyên Thao hả? Tôi có nghe tên!
Anh
trợn mắt giơ ngón tay cái lên, giọng nghiêm trọng:
– Nó đang làm lớn lắm!
Bây
giờ thì kẻ bất ngờ là tôi. Tôi nhìn sững anh.
Trước cái
nhìn của tôi, anh giải thích:
– Anh không tin cũng đúng. Thằng đó vẫn được
gọi là thứ “chống Cộng đến chiều.” Nhưng sau 30 tháng Tư mới biết rõ nó là ai.
Tôi
băn khoăn thực sự: “Vậy là thế nào?”
Anh
kể:
– Lúc đầu nghe nói, tôi cũng không
tin. Cuối cùng chính Phan Trâm nhắc với tôi là có người nói đã thấy nó đi xe
hơi có hộ tống và có trụ sở ở góc đường Cao Thắng – Phan Đình Phùng. Trụ sở
của nó được canh gác nghiêm lắm. Bây giờ nó ở một villa lớn gần đó. Mấy tháng
trước khi bị bắt, tôi còn nghe nói nó đã tìm cách nâng đỡ cho Phan Trâm và
Nguyễn Tiến Hỷ rất nhiều. Có thể lúc này mấy tay đó không sao đâu, vì đã có điểm
tựa vững chắc. Nó vẫn gắn bó khăng khít với hai tay đó mười mấy năm rồi.
Giọng
anh trở nên sôi nổi.
Tôi
không muốn cắt ngang hứng thú kể một chuyện lạ nên tỏ vẻ lưu ý tới điều anh
đang kể. Và anh tiếp:
– Nó hoạt động cho Cộng Sản từ trước 1954,
trong ngành tình báo, thành ra thái độ chống Cộng quyết liệt chỉ là bộ vỏ che
đậy. Kể ra nó cũng tài thật. Không chỉ nhiều người chế độ cũ tin nó mà ngay đám
an ninh Sài Gòn cũng không phát giác nổi dấu hiệu nào về việc nó là một tên
Cộng Sản hoạt động trong bóng tối.
Anh
chấm dứt bằng một hơi thở dài.
Tôi
dựa lưng vào vách ngắm người vừa kể một huyền thoại về chính mình.
Lúc
này, anh thu người lại trong góc phòng và nhìn ra ngoài hàng song sắt với cặp
mắt đờ đẫn. Những đường nhăn trên trán và từ hai đuôi mắt kéo dài xuống má anh
khiến tôi thấy anh tiều tụy và gần như không còn chút hơi sức.
Tôi
vừa được lôi ra từ đáy mộ, đang háo hức chờ nghe chuyện ngoài đời, nhưng câu
chuyện đầu tiên được nghe lại chẳng ra sao. Với người đang ngồi trước tôi, câu
chuyện còn như gáo nước lạnh tạt vào mặt làm bật ra một sự thực tương tự người
tận mắt thấy mình bị tình phụ. Tôi nhớ nhanh về các buổi chiều trò chuyện đầy
tin cậy giữa anh cùng anh Nguyễn Tất Ứng với tôi, nhất là những ngày anh Ứng
không bao giờ về nữa sau chuyến công du tai họa ra Quảng Ngãi.
Thấy
không nên để anh kéo dài nỗi cay đắng, lúc đèn hành lang bật sáng, tôi nhích
lại gần, khẽ gọi:
– Anh Hướng!
Anh
quay lại, nhíu mày có vẻ bất ngờ. Tôi hỏi:
– Anh quên tôi rồi sao?
Anh
nhìn tôi chăm chăm, vẫn không nhận ra. Tôi nói:
– Anh quên tôi, nhưng tôi vẫn nhận ra
anh là Nguyễn Văn Hướng, tổng thư ký Văn Phòng Phủ Tổng Thống và là cố vấn của
ông Thiệu. Trước đó anh là thứ trưởng Bộ Xây Dựng Dân Chủ của phó thủ tướng đặc
trách Xây Dựng Dân Chủ Nguyễn Tiến Hỷ, và là bạn của anh Nguyễn Tất Ứng, tổng
trưởng Xây Dựng Nông Thôn. Anh thấy tôi nhớ có đúng không? Làm sao anh lại tin
chuyện quỷ quái về tôi như vừa kể! Anh có nghe tin gì về bác sĩ Quát không? Tôi
và bác sĩ Quát bị bắt cùng đợt. Anh nhìn kỹ đi. Tôi là Uyên Thao đây!
Anh
xoay hẳn lại như muốn nhảy nhổm lên.
Rồi
vừa chụp cả hai tay tôi, anh vừa lắp bắp:
– Ô, Uyên Thao hả?... Làm sao… làm sao…?
Tôi
không nhớ
anh nói gì, nhưng mắt anh không còn đờ đẫn nữa…Từ đó qua cả năm sau, tại các
trại tù X15, K3 rồi Z.30A, anh luôn ở bên tôi cho tới khi anh rời trại Z.30A.
Anh
bị giải đi vào buổi sáng chúng tôi đang lao động ngoài rừng. Khi trở về, tôi
thấy đống mền gối bên cạnh tôi không còn nữa. Người trực phòng nói với tôi:
– Cụ Hướng chuyển trại rồi. Sáng sớm nay cụ ấy
được lệnh gom đồ qua bên “khung” làm việc rồi bị đưa đi luôn. Không biết cụ ấy
bị đưa đi đâu.
í
Ba
tháng sau, trong dịp thăm tôi, vợ tôi báo tin:
– Chị Hướng mới cho em hay là anh Hướng mất
rồi. Anh ấy bị giải về Chí Hòa và bị đứt mạch máu não. Chị ấy nói chúng nó đưa
anh ấy vô bệnh viện Vì Dân rồi chết ở đó.
Tôi
vẫn nhắc với các bạn tù một ý nghĩ là với phận tù chúng tôi thì cứ coi như ngày
mai bị đưa ra bắn hay cũng có thể sẽ được thả về. Mỗi ngày đều là ngày cuối nên
khỏi bận tâm về mọi sự, ngoài điều duy nhất là giữ sao cho đừng có một giây nào
hổ thẹn với chính mình. Nhưng cái tin anh Hướng không còn vẫn khiến tôi ngơ
ngẩn nhiều ngày.
Sau
đó, tôi lại nghe tin bác sĩ Phan Huy Quát đã trút hơi thở cuối ở Chí Hòa. Tôi
nhớ một lần gặp nhau trong khu nhà tắm ở trại X15, tôi hỏi về cái phòng thí
nghiệm của bác sĩ thì được nghe đáp bằng giọng buồn bã: “Đâu còn gì nữa, dù tôi không mong gì hơn là được làm công việc đó.”
Mong
muốn gặp lại người quen cũ càng lúc càng mãnh liệt hơn. Vì thế, ngay khi còn bị
quản chế, tôi đã liều đạp xe xuống khu trường đua Phú Thọ, tìm gặp anh Phan Trâm.
Căn
nhà quen thuộc thuở nào đổi khác nhiều nên tôi hơi lựng khựng khi một thiếu nữ
ra mở cửa. Tôi hỏi cô bé:
– Có phải đây là nhà ông Trâm không, cháu?
Cô
bé nhìn tôi, gật đầu. Tôi khấp khởi mừng hỏi tiếp:
– Ông Trâm có nhà không?
Cô
bé mở mắt lớn hơn, đáp nhỏ:
– Ba cháu mất lâu rồi.
Chị
Lệ xuất hiện và nhận ra tôi ngay.
Vừa
nhắc tôi vào nhà, chị vừa nói:
– Chú ốm quá. Có bệnh gì không?
Rồi
chỉ tấm hình trên bàn thờ, chị kể:
– Anh mất hơn một năm rồi, sau khi ra tù ít
lâu. Bây giờ chú về thì anh em không còn thấy nhau nữa.
Tôi
thắp nén nhang, nhìn cặp mắt trong hình người quá cố. Giây phút đó, tôi tự an
ủi còn cơ hội thắp nén nhang thế này, thay vì chỉ nghe nhắc như trường hợp anh
Hướng và bác sĩ Quát, dù nén nhang không thể nói với anh là tôi bị tù trước anh
nhiều tháng chứ không như câu chuyện anh đã nghe kể. Chị Lệ tiếp tục kể với
tôi:
– Những người khác đã đi hết, ở lại chỉ có anh Lập thì cũng mất
rồi. Chú còn nhớ anh Lập chứ?
Tôi
hỏi lại “Anh Trần Việt Sơn, phải không
chị?”
Chị
gật đầu, nhắc:
– Bây giờ chỉ còn anh Hỷ cũng vừa ra tù rồi. Nhưng tôi nghĩ
chú không nên gặp anh ấy. Gặp nhau lúc này chỉ biết nhìn nhau thôi trong khi lại có thể dẫn đến các tai họa.
Tôi
không muốn làm theo
lời chị Lệ, nhưng mỗi lần đi ngang căn nhà đóng cửa im ỉm bên nhà thờ Thị Nghè,
tôi đều không thể dừng lại.
Một
ngày bỗng dưng tôi nói với vợ:
– Sáng nay anh ghé thăm anh Hỷ một lát. Mười
mấy năm rồi, không được gặp ai cả.
Vợ
tôi tần ngần nhưng không cản.
Tôi
dắt xe ra cửa, đạp đi. Tới nơi, tôi thấy một đám đông tụ tập nên đạp chậm lại
thận trọng quan sát.
Đúng
lúc tôi đạp xe ngang cửa căn nhà quen thuộc thì từ trong nhà một người mặc đồ
tang bước ra, ôm tấm hình.
Hình bác sĩ Nguyễn Tiến Hỷ ! Đám tang vừa bắt đầu!
Thêm
một lần nữa, tôi lại hụt bước dù đã may hơn nhiều so với các lần khác.
Tôi
nhớ tới lời nhắc của chị Lệ và nghĩ nếu có chị ở bên, tôi sẽ nói: “Gặp
nhau thế này chắc không có gì nguy hại, phải không chị?”
Tôi
dắt xe xuống cuối hàng người để được tiễn đưa anh một đoạn đường sau nhiều năm
xa cách.
í
Dừng
lại bên vệ đường nhìn đám xe tang rời xa dần, tôi ngỡ mình trở thành chiếc bóng
chập chờn bên dòng người qua lại. Tôi không đếm số người quen đã khuất bóng
mười mấy năm qua mà chỉ thấy Sài Gòn trống vắng và xa lạ tới kinh hoàng. Từ
ngày đó, tôi sợ đi tìm gặp người quen cũ.
Cũng
từ ngày đó, tôi vẫn sống giữa Sài Gòn mà luôn có cảm giác đang ẩn thân ở một
vùng đất lạ. Lạ không vì thiếu người quen mà vì luôn lạc lõng với mọi chuyện
diễn ra.
Nhưng
vùng đất lạ đó bừng bừng sống lại nơi ký ức tôi suốt hơn 40 giờ bay đưa tôi rời
xa nó.
Từ
Sài Gòn tới Hong Kong, từ Hong Kong tới London, từ London tới New York, rồi từ
New York về Washington DC, tôi như quên hẳn Vùng
Đất Tình Nhân mà tôi đang tới. Lúc nào Sài Gòn cũng chập chờn khi là một hình ảnh, khi là một âm thanh, khi là
một hoạt cảnh, khi là một con người...
Tôi
vừa thấy mình đứng như trong mơ ở ngã tư Pasteur - Thống Nhất buổi trưa
30-4-1975, lại thấy mình đang ngồi ở chùa Pháp Hoa đối diện với Vũ Trọng Mục
một buổi tối cuối năm 1986. Tôi chỉ gặp Vũ Trọng Mục vài lần trước 1975 khi anh
là một trung tá tại Quân Đoàn 2 ở Pleiku.
Thế
rồi anh bất ngờ xuất hiện tại chùa Pháp Hoa là nơi tôi đang bị quản chế. Thời
gian đó, mỗi ngày tôi đều phải trình diện Công An Phường lúc sáng sớm và chạng
vạng tối.
Sáng,
tôi phải đến khai mọi dự tính như sẽ đi đâu, gặp ai với mục đích gì… Tối, tôi
phải đến để báo đã làm các việc đó ra sao và nếu bỏ việc nào thì phải nêu rõ lý
do.
Buổi
tối hôm đó, tôi từ Phường Công An trở về, vừa vào chùa thì một người lao tới
ôm chầm lấy tôi. Tôi chỉ nhận ra nhờ anh tự xưng tên: “Mục đây! Vũ
Trọng Mục đây!”
Giọng
anh như nghẹn lại khiến tôi cũng rưng rưng.
Tôi
kéo anh về một góc
chùa, nơi bỏ mấy chiếc ghế gỗ.
Anh
kể về các điều anh trải qua sau khi rời trại tù.
Cuối
cùng anh khuyên tôi nên chọn cái việc mà anh đã tính làm là đi bán kem: “Cứ
đạp xe tới các trường học bán cho sắp nhỏ rồi tới các công viên nghỉ đỡ vào lúc
mệt quá.”
Anh
nêu rõ cách làm và bảo chẳng kiếm được bao nhiêu nhưng tương đối dễ chịu vì
không bị ai cai quản. Rồi anh nói tặng
tôi chiếc xe thùng cà-rem
vì anh không cần nó nữa.
Hôm
sau, tôi qua Phường Công An khai báo dự tính đi nhận chiếc xe đạp để sẽ bán cà-rem.
Gã
công an phụ trách an ninh trừng mắt:
– Ai cho phép anh làm việc
đó?
Tôi
giải thích:
– Vợ con tôi ở tận Cư Xá Thanh Đa đang lo nuôi
thân không nổi nên tôi phải lo tự kiếm sống hàng ngày. Tôi đã đi xin việc ở
nhiều nơi nhưng không nơi nào chịu nhận.
Giọng
y lạnh như băng:
– Cái ngữ như anh thì ma nào cần. Nhưng anh đi
bán cà-rem
thì ai để mắt tới anh suốt ngày được. Tôi không cho phép anh làm việc đó.
Tôi
đã một lần cố cãi với gã công an này khi mới rời trại tù. Đó là ngày tôi nhận
tin từ gia đình cho biết cha vợ tôi mất ở Đà Lạt. Tôi tới gặp y, xin phép về Đà
Lạt lo tang lễ.
Y lắc đầu ngay khi tôi chưa nói dứt, nhưng tôi không ngừng lại. Tôi trình bày
thêm là dù tôi về Đà Lạt thì cũng phải trình diện công an trên đó ngay khi tới
bến xe.
Tôi
nói sao, y cũng lắc đầu rồi kết luận:
– Anh bước ra khỏi ranh giới quận 3 này, tôi
sẽ bắt anh đưa trở lại trại giam tức khắc.
Tôi
thấy không thể nói gì hơn với y nên bỏ qua dự tính bán cà-rem, nêu một dự tính khác.
Trước
ngày gặp Vũ Trọng Mục, tôi đã gặp Mai Tuyết An và cô ấy cho biết sẵn sàng
nhường cho tôi chỗ ngồi bán vé số tại chợ Trương Minh Giảng.
Tôi
nghĩ việc này chắc được chấp thuận vì tôi sẽ ngồi ở nơi không xa phường Công
An. Tôi lại nhận lời phán:
– Tôi cấm anh làm việc đó. Anh coi chừng! Đừng
mưu mượn chuyện kiếm ăn để liên lạc với lũ đồng bọn của anh.
Tôi
thấy hết cách kiếm nổi hai bữa cơm nên nói với y:
– Vậy anh nghĩ giúp tôi sống bằng cách nào bây
giờ?
Y
xua tay ra dấu đuổi tôi đi, trong lúc buông thõng:
– Đừng giở cái giọng đó ra với tôi.
Thứ như anh tha bắn chết là may rồi, ở đấy mà yêu sách!
Tôi
gặp lại gương mặt kẻ bảo vệ pháp luật tại Việt Nam lúc ngồi trong một quán cà
phê ở phi
trường London và nhớ ngay đến
những người Pygmy.
Tôi
đang ở cuối thế kỷ 20 nhưng so với những ngày đầu thế kỷ thì người Pygmy rõ ràng
còn được thương xót hơn tôi dù thuở đó, người Anh vẫn nghĩ họ là một loài hoang
thú.
Ngay
lúc đó, tôi lại nhớ tới một hình ảnh khác.
Khoảng
40 giờ trước khi rời Sài Gòn, tôi ghé thăm cụ Nguyễn Văn Lực tại vùng Tân Định.
Khoảng
1964-1965, đã nhiều lần tờ báo của chúng tôi phản đối một số việc làm của các
nhân sĩ Thượng Hội Đồng Quốc Gia trong số có cụ Lực. Nhưng là bạn với các con của cụ gồm Nguyễn
Văn Năng, Nguyễn Văn Cử, Nguyễn Cái Thế nên lúc nào tôi cũng trọng cụ như bậc
cha chú.
Sau
khi ra tù, tôi tính tìm thăm cụ, nhưng một buổi tối cuối năm 1986, khi cùng
Nguyễn Văn Năng ghé chùa Pháp Hoa thăm tôi, Nguyễn Văn Cử đã dặn:
– Ông tuyệt đối đừng tới gặp ông cụ để tránh
mọi thứ không hay có thể xẩy ra.
Khi
biết tôi sắp xa Sài Gòn, Nguyễn Cái Thế nhắn tôi cố ghé lại, chậm nhất là vào
sáng Thứ Bảy.
Tôi
y hẹn, vì sáng sớm Thứ Hai đã ra đi.
Cụ
Lực đã qua tuổi 90 chỉ quẩn quanh trong gian phòng nhỏ vắng lặng. Tôi ngỡ ngàng
vì thân hình khẳng khiu và cảnh sống âm thầm cô độc của cụ.
Ngồi
xuống cạnh giường, nắm bàn tay chằng chịt gân xanh của cụ, tôi nhớ lại 40 năm
trước cùng cụ ẩn trốn tại chùa Sùng Đức ở Thủ Đức, thời đệ nhất Cộng Hòa.
Thuở
đó, cụ đang soạn một tham luận chính trị và luôn đưa ra bàn với tôi. Nhiều năm
về sau, tôi vẫn không quên ánh mắt với cái nhìn nghiêm khắc và nước da xạm nắng
dày dạn của cụ. Lúc này, trước mắt tôi là một người không còn đủ sức đứng vững,
nằm thu mình trên chiếc giường nhỏ.
Không
ai tránh nổi quy luật thời gian, nhưng tôi không nghĩ tới sức tàn phá của tháng
năm mà nhớ tới chuỗi tháng năm cụ đã theo đuổi ước vọng làm một điều tốt đẹp
cho quê hương. Ước vọng đó lúc này vẫn là ước vọng và con người dành trọn đời
theo đuổi ước vọng thì trở thành một ông già đang sống những ngày tàn trong
quên lãng.
Tránh
nhìn cụ, tôi ngó qua chiếc tủ kê sát đầu giường.
Đó
là khoảnh khắc tôi chết lặng trong cảm giác bàng hoàng trước một tấm hình. Tấm
hình treo trên mặt tủ bụi bặm với bình nhang lạnh ngắt không còn một cọng chân
nhang. Đây là tấm hình từng luôn được đặt
tại những nơi trang trọng nhất: Hình liệt
sĩ Nguyễn Thái Học.
Tôi
nhìn đôi lông mày rậm, khuôn cằm vuông của người dứt khoát từ chối ký đơn xin
ân xá, sẵn sàng nhận hình phạt chặt đầu để giữ vững hào khí đấu tranh của dân
tộc. Con người ấy chắc chắn không mong một đền đáp nào ngoài ước vọng góp một
điều tốt đẹp cho quê hương.
Ký
ức tôi chợt vang lên hai câu thơ của thi sĩ Đằng Phương, một bút danh
của anh Nguyễn Ngọc Huy:
Và tử thần kính cẩn đứng ghi tên
Các liệt sĩ vào bia người tuẫn quốc.
Thuở
còn cắp sách tới trường, tôi luôn có cảm giác gai người khi đọc hai câu thơ
này, hai câu thơ mà khi vào đời cầm bút, tôi thấy đạt giá trị diễn tả tuyệt vời
nhất về tính bi
tráng của những cái chết. Và, tôi liên tưởng tới hàng loạt người đã nằm xuống
suốt 30 năm
khói lửa triền miên.
Chắc
chắn không hẳn hàng loạt người đó đều là nạn nhân của các mua chuộc hay bị thúc ép mà không ít người
đã tự nguyện hiến dâng thân mình cho ước vọng làm đẹp quê hương, dù thuộc chiến
tuyến nào. Những cái chết mà tử thần phải kính cẩn chiêm ngưỡng kia còn mấy ai
tưởng nhớ và đã đem lại được gì cho người đang sống trên quê hương?
Tôi
nhớ lại những cánh rừng mênh mông trụi lá, những dải đất bao la với các hố bom
mà từ trên cao nhìn xuống như những cụm pháo bông chi chít, những tòa nhà bị
phá sập bằng chất nổ với các mảnh vôi bết máu, những chiếc đầu bị mã tấu phạt
lìa khỏi cổ, những vành khăn tang, những gương mặt chan hòa nước mắt vì mất
người thân và những hàng áo quan san sát bên nhau trong nhiều ngôi chùa tại Huế
năm nào...
Trước những cái chết này, tử thần có lẽ không thể giữ nguyên thái độ kính cẩn
vì khó tránh nổi nghẹn ngào.
Từng
tấc đất Việt Nam suốt 30 năm
dài từ 1945 đã đẫm máu và nước mắt con dân luôn quằn quại đau đớn từng
giây từng phút. Thời
khắc đó qua chưa, dù đã ngưng tiếng súng?
Tôi
không tìm lời đáp mà quay lại với thân hình còm cõi của cụ Lực đang đờ đẫn nhìn
quanh. Tự nhiên tôi thấy mình bị bao nghẹt giữa nỗi u uất của cả người sống lẫn
người chết và ngộp thở vì chìm sâu mãi vào một vùng mù mịt tối tăm chỉ có tiếng
kêu la của những vong hồn uổng tử.
Tôi
rời gian phòng mà không rũ nổi cảm giác kinh hoàng, cảm giác quanh tôi cõi sống
đang hòa trộn với cõi chết và người cũng như ma đều lạc lõng bơ vơ.
Một
lần nữa, cảm giác đó lại trở về, khi tôi đã cách xa Sài Gòn sáu múi giờ và đang ngồi bình yên trong không
gian đầy ắp tiếng nhạc êm dịu tại một quán cà phê ấm áp. Quán cà phê mang
tên kịch tác gia lẫy lừng Shakespeare. Tôi nhớ lại các màn kịch thấm đẫm
nước mắt của người xưa và thấy tình người vẫn chan hòa ngay trong các màn bi
kịch đó.
Ý
nghĩ này khiến tôi nhận ra nguồn cỗi cảm giác lạc lõng của mình. Suốt mấy chục
năm qua, tôi luôn lạc lõng chỉ vì không tìm thấy sự có mặt của tình đồng loại.
Tất
nhiên, cái tình này không thể chết dù trên mảnh đất Việt Nam còn tiếp tục dãy
dụa giữa lớp lớp cơn đau vò xé.
Nhưng,
tôi và mọi người luôn thấy
thiếu tình đồng loại chỉ vì cái tình này cũng không ngừng bị đe dọa xé xác,
phanh thây nên luôn phải giấu mặt từng giây, từng phút.
Vào
giờ cuối chuyến bay, tôi bắt gặp mình giữa đoàn tù đang di chuyển qua một sườn
đồi. Chúng tôi đi thành hàng một kéo dài gần một trăm thước trước ba họng súng
ghìm ở phía sau. Công việc lúc đó của chúng tôi là tới một bìa rừng đốn cây,
đào đá để có thêm đất trồng trọt.
Mỗi
ngày chúng tôi đều di chuyển trên sườn đồi này.
Mọi
thứ xung quanh đã thành quen thuộc.
Từng
cụm cây, từng gò đá, từng mảng nắng sớm mai, thậm chí những cánh bướm chập chờn
trước mắt cũng đều trở nên nhàm chán. Chúng tôi bước đi trong dáng điệu cúi đầu
nhìn xuống chân mình mà tôi nghĩ chẳng ai nhìn thấy gì.
Nhưng
sáng hôm đó, chúng tôi đã gặp một điều khiến tất cả đều sửng sốt. Trước hết là
một ý nghĩ vừa chán ngán vừa mỉa mai rồi sau đó là một khoảng thời gian chết
sững.
Sự
việc diễn ra chỉ vài chục giây lúc chúng tôi ra khỏi một khúc quẹo. Từ phía
trước vang lên tiếng hợp ca của ba cô gái trẻ đang đi ngược về phía chúng tôi.
Ba
cô gái phủ trên mình các thứ áo quần
không khá hơn chúng tôi bao nhiêu, nắm tay nhau hát bài hát mà mỗi tối đám tù
đều phải ngồi quây lại hát một lần rồi mới được phép nằm xuống ngủ. Tôi ngán tới cổ cái điệp
khúc gào lớn liên hồi “Việt Nam, Hồ Chí
Minh…, Việt Nam, Hồ Chí Minh…”
Từ
ngày có mặt ở trại tù này, tôi chưa hề cất tiếng hát, dù hát là bắt buộc. Tôi luôn ngồi lọt giữa đám đông, thỉnh thoảng
nhấp môi làm bộ như hát cho tới một ngày một bạn tù bỗng lôi tôi ra chê là “thiếu thành khẩn” trong học tập vì không
bao giờ cất tiếng hát khiến quản giáo gọi tôi tới hỏi lý do. Tôi giải thích từ bé tôi
chưa từng hát nên lúc này dù muốn hát cũng khó bật ra tiếng.
Kết
quả, tôi phải viết kiểm điểm về việc không hát và bị xếp vào loại tù “thiếu an tâm tin tưởng.” Nhưng bù lại,
từ đó tôi có thể an tâm với việc không hát mà khỏi cần nhấp môi.
Khoảng
cách giữa chúng tôi với ba cô gái thu ngắn dần và tôi thấy bài hát sắp tới cái
điệp khúc nhàm chán.
Bỗng
dưng cả vùng đồi mông mênh lắng hẳn xuống.
Ba
cô gái đột ngột ngưng hát khi tới cách người đi đầu nhóm tù khoảng vài chục
bước. Tôi thấy các cô nhìn về hướng mấy công an võ trang ghìm súng ở phía sau
chúng tôi. Lúc này chúng tôi chỉ còn cách các cô chừng vài thước và các cô đưa
mắt nhìn nhau. Cùng lúc, tiếng hát lại cất lên.
Không
phải tiếng gào vừa rồi, cũng không phải bài hát vừa rồi. Các cô vẫn nhìn về
phía mấy công an và một cô cất tiếng hát như thì thầm bên tai chúng tôi khi các
cô dừng bên một gò đất để tránh lối.
Lúc
bước ngang, tôi nghe gần trọn một đoạn lời ca:
“Anh không chết đâu anh, người anh hùng mũ đỏ
tên Đương… Anh
vẫn sống hiên ngang trong lòng người biết thương đời lính…”
Giọng
ca nhẹ như hơi gió thoảng, run run trong nỗi nghẹn ngào như sắp khóc nhưng
không khác một luồng điện chạy suốt qua tim tôi. Tôi có cảm tưởng sáu chục cái
đầu trước và sau tôi đều cúi xuống.
Cúi
xuống không để nhìn những bàn chân trầy sát của mình mà để dằn cơn xúc động đột
ngột dâng lên.
Không
bao giờ tôi còn gặp lại ba cô gái và sẽ mãi mãi không biết các cô là ai. Các cô hiện ra và tan đi
như một ảo ảnh. Tôi chỉ có thể gặp lại cảnh buổi sáng trên ngọn đồi ướt đẫm hơi
sương năm đó qua hồi ức.
Nhưng
giây phút tình cờ kia đã trở thành giây phút thiên thu. Các cô đã tan đi như
một ảo ảnh và
là một ảo ảnh bất diệt kết nên bởi những nỗi niềm không thể bộc lộ cùng ai,
ngoài người đồng điệu. Như
người ta thường nhắc, chỉ những người tình mới thấu hiểu và chân thành chia xẻ
mọi nỗi niềm u uất trong tâm tư của nhau thì chúng tôi đã gặp người tình của
mình vào buổi sáng hôm đó.
Và,
cái tên Vùng Đất Tình Nhân mà Hoàng
Hải Thủy nhắc mãi, lúc này tôi lại muốn đem đặt cho một vùng đất khác, vùng đất
mà những người tình của đám tù thuở nào và của riêng tôi từng sống.
Lúc
bước vào vùng
ánh sáng chói chang ở phi
trường Reagan, gặp lại nụ cười thoải mái của những người bạn cũ đang chờ đón,
tôi vẫn nghe vẳng bên tai tiếng hát run rẩy thì thầm trên sườn đồi dưới chân
núi Chứa Chan năm nào.
Sài
Gòn đã xa thẳm nhưng bỗng vô cùng gần gũi, gần gũi hơn cả những ngày tôi ngơ
ngác giữa các đường phố thân quen.
Vì
ở đó vẫn chất ngất nỗi niềm u uất của những người tình chung thủy đang phải cắn
răng che đậy cho cái tình đồng loại thoát khỏi cảnh bị xé xác, phanh thây.
Làm
sao những người tình có thể vơi nỗi nhớ thương nhau!
UYÊN THAO
Virginia, 19.12.1999