Cuốn sách này là một công trình phục vụ cộng đồng do Tạp chí Văn Phong (Virginia) thực hiện nhân kỷ niệm 50 năm sống đời viễn xứ. Sách dày 810 trang, được in thành 2 tập – Tập 1 gồm 41 tác giả và Tập 2 gồm 45 tác giả. Như vậy, tổng cộng có 86 tác giả, trong đó có nhiều tác giả đã nổi tiếng từ trước 1975. Tám mươi sáu tác giả đến vùng đất này bằng những cách khác nhau, trình độ khác nhau, nghề nghiệp khác nhau nhưng có một điểm tất cả đều giống nhau. Đó là: Họ đã sống và viết bên dòng Potomac. (Sông Potomac dài 652 km, bắt nguồn từ tiểu bang West Virginia, chảy ngang qua thủ đô Washington, D.C., tiểu bang Virginia và tiểu bang Maryland. Khoảng 6 triệu người đang sống bên dòng sông Potomac, trong đó có khoảng 120 ngàn người Việt).
Đây không phải là một tuyển tập. Chỉ
là một tập hợp những khuôn măt văn nghệ trong vùng được lưu giữ như một ghi nhận
những đóng góp trên lĩnh vực văn học nghệ thuật của các tác giả trong cuốn
sách. Góp mặt vào cuốn sách còn có 12 tác giả ở Hòa Lan, Pháp, Canada và ở các
tiểu bang Texas, California, New Jersey, Ohio và Michigan.
Bài vở gồm thơ, truyện ngắn, hồi ký, tự
truyện, bút ký, biên khảo, nhận định và dịch thuật.
Về hội họa, có 28 tác giả có chân dung
do các họa sĩ vẽ. Ngoài ra, còn có các phụ bản và tranh minh họa của các họa sĩ
Võ Đình, Ngọc Dũng, Đinh Cường, Trương Vũ, Nguyễn Trọng Khôi, Đinh Hoàng Oanh,
Quốc Vũ, Đinh Trường Chinh.
Về bộ môn nhạc, tất cả các sheet nhạc
và các bài thơ (trong sách) đã được phổ nhạc đều có cài mã QR code. Người đọc
có thể nghe các bản nhạc bằng cách mở chế độ camera trên điện thoại và quét vào
mã QR code đó.
Các bài viết trong cuốn sách xoay
quanh các chủ đề sau:
1. Vượt biên tìm tự do.
2. Sông Potomac và lịch sử Hoa Kỳ.
3. Đời sống người Việt tha phương.
4.
Tình
cảm gia đình – Nỗi nhớ quê hương.
Trước hết, chúng ta đi vào phần 1: Vượt
biên tìm tự do.
Chuyện vượt biên tìm tự do của người
Việt Nam sau 1975 là một trong những câu chuyện bi thảm nhất trong lịch sử loài
người. Hàng trăm ngàn người Việt đã vùi thây trong lòng đại đương khi vượt biển.
Nhà văn kiêm họa sĩ Trương Vũ (Hiện đang sống ở Vienna, Virginia) là một trong
những người Việt Nam đầu tiên mạo hiểm dùng một chiếc thuyền rất nhỏ vượt biển
đến Philippines vào năm 1976. Ông đã kể lại câu chuyện của mình trong bài “Đêm
Đại Dương”:
“Cách đây 49 năm, tôi rời Việt Nam
trên một chiếc ghe đánh cá nhỏ, cùng với bốn bạn đồng hành khác. Chúng tôi thay
phiên nhau lái ghe, từ Nha Trang vượt đại dương nhắm hướng Manila, Phi Luật
Tân. Không một ai trong chúng tôi có kinh nghiệm hay hiểu biết về hải hành. Một
đêm, không trăng, sóng lớn, đang lái ghe tôi chợt nhớ đến một bài thơ của
Victor Hugo, bài Oceano Nox (Đêm Đại Dương), mở đầu bằng những câu tạm dịch như
thế này: "Có biết bao thủy thủ, có biết bao thuyền trưởng, vui vẻ hăm hở
lao mình vào các chuyến viễn du, có biết bao nhiêu người trong số đó, do định mệnh
nghiệt ngã, mất hút theo chân trời mờ nhạt, tan biến vào lòng đại dương không
đáy, trong một đêm không trăng..."
Khi còn đi học, nét bi hùng của bài thơ gây cho tôi nhiều xúc động. Vào
lúc này, chơi vơi trên biển cả, không là thủy thủ, không là thuyền trưởng,
trong lo sợ, trong sự cảm nhận sâu sắc thân phận nhỏ nhoi mong manh của mình giữa
đại dương bao la, tôi càng xúc động hơn. May mắn, chúng tôi đến được Manila an
toàn. Ghe chúng tôi là một trong những chiếc đầu tiên đến được Manila sau 1975…
Năm mươi năm đã trôi qua từ ngày chiến tranh chấm dứt trên quê hương. Hồi tưởng
lại thảm kịch đó để thắp một nén nhang cho những người đã khuất, để nguyện cầu
sự siêu thoát cho những oan hồn trên biển Đông. Và, cũng là lúc để mỗi người Việt
Nam tự chiêm nghiệm về chính mình, về những gì đã làm, những gì đã không làm,
những gì lẽ ra không nên làm. Quan trọng hơn hết, để thực sự dấn mình vào những
nỗ lực của cá nhân và tập thể cần phải có cho thế hệ này, và cho những thế hệ kế
tiếp. Để xã hội nhân bản hơn, tôn trọng những quyền căn bản của con người hơn,
và để người dân có tự do, có cơ hội sống một đời có phẩm cách, như trong bao
nhiêu quốc gia tiến bộ khác. Chỉ có như thế, cái thảm kịch như từng xảy ra trên
biển Đông sau 1975 sẽ không còn xảy ra cho dân tộc Việt Nam trong tương lai nữa”.
Trong những người vượt biên tìm đến vùng đất này, có một trường hợp rất đặc biệt. Đó là nhà thơ Trần Anh Chương (Hiện đang sống ở Maryland). Ông vượt biên không phải từ Việt Nam, mà từ Tiệp Khắc. Trần Anh Chương là người Huế, sang Tiệp Khắc du học vào năm 1980. Năm 1989, khi chế độ Cộng sản Tiệp Khắc chưa sụp đổ, ông vượt biên bằng đường bộ, từ Tiệp Khắc băng rừng vượt núi đến được nước Ý. Sau đó, sang Canada và cuối cùng đến Mỹ định cư tại Maryland. Hiện nay, ông là Tiến sĩ Vật Lý, làm việc trong ngành bán dẫn. Ông có 3 bài thơ được in trong cuốn sách này. Một trong ba bài thơ đó có tựa đề là TỰ DO.
TỰ DO
Lúc anh mười tám tuổi
Tự Do là điều xa lạ
Anh sống trong căn nhà đầy bóng tối
Anh đi qua những con đường đá
Còn vương vệt máu và nỗi đau: Praha,
Budapest, Warszawa
Những mùa đông ảm đạm
Qua những quảng trường anh hùng
Đầy bóng hình những tay đao phủ
Nhiều đêm anh mất ngủ
Vượt biên, lưu đày, ngục tù anh sợ
Nhưng Tự Do, hãy cho anh khóc bằng mắt
em
Làm anh sống
Làm anh nhớ
Những ngày đáng sống
Những bông tuyết rơi
Những cuộc đời tơi tả
Tự Do đem cho anh những người xa lạ
Bỗng thành anh em bè bạn trong nhà
Nỗi đau làm anh thành người tử tế
Và như thế anh đi vào đời
Để yêu em! Tự Do
Chủ đề thứ hai của cuốn sách là Sông Potomac và lịch sử Hoa Kỳ.
George Washington, người sáng lập Hiệp
Chủng Quốc Hoa Kỳ, đã được sinh ra và lớn lên bên dòng sông Potomac. Những cơ
quan quyền lực nhất của nước Mỹ như Quốc Hội, Tối Cao Pháp Viện, Tòa Bạch Ốc đều
năm bên dòng sông này.
Nhà báo kỳ cựu Đinh Từ Thức đã dành
cho cuốn sách này một bài viết nói về sự hình thành Tòa Bạch Ốc và sự thay đổi
các vị Tổng Thống qua các mốc thời gian quan trọng. Bài viết có nhắc đến vụ
Watergate khiến Tổng Thống Nixon phải từ chức vào năm 1974 và vụ Tổng Thống
Clinton bồ bịch với cô thư ký tập sự Lewinsky. Bài viết cho chúng ta biết những
vị Tổng Thống nào có công lao trong việc xây dựng đất nước, những Tổng Thống
nào dính bê bối trong lúc tại vị ở Tòa Bạch Ốc.
Trong cuộc Nội chiến Hoa Kỳ, Potomac từng
là ranh giới giữa miền Bắc và miền Nam, giống như sông Bến Hải của Việt Nam sau
1954. Sông Potomac đóng vai trò chiến lược
trong các trận đánh và di chuyển quân. Bài “Kể chuyện những dòng sông” của nhà
văn Lê Đức Luận sẽ giúp chúng ta biết những điều rất thú vị về dòng sông này và
cuộc Nội chiến Hoa Kỳ. Và đây là trích đoạn từ bài viết của Lê Đức Luận:
“Sông Potomac là một chứng nhân lịch sử
- từng in dấu chân của những Tổ Phụ lập quốc Hoa Kỳ. Nước của dòng sông này đã
từng hòa với máu của những anh hùng trong cuộc chiến giành độc lập từ đế quốc
Anh để đất nước Hoa Kỳ có ngày Độc lập: July 4, 1776. Và nó cũng từng là lằn
ranh sinh tử cuả những người lính Bắc- Nam trong cuộc nội chiến (1861- 1865).
Đôi khi tôi đọc những sử liệu viết về
cách giải quyết chiến tranh và các vấn đề hậu chiến trong cuộc nội chiến Hoa Kỳ
giữa những người quân tử - chỉ vài chi tiết nhỏ nhưng mang tính nhân văn, làm
tôi ngưỡng mộ.
“Khi tướng Robert Edward Lee, Tư lệnh
Liên quân miền Nam quyết định đầu hàng, ông viết lá thư riêng gởi cho tướng Grant,
Tư lệnh Liên quân miền Bắc, yêu cầu thu xếp cuộc họp mặt. Tướng Grant nhận được
thư hết sức vui mừng và bỗng nhiên thấy hết cơn bệnh nhức đầu kinh niên đã hành
hạ ông.
Trưa ngày 9 tháng 4 năm 1865, tướng
Lee cùng một đại tá tùy viên cỡi ngựa vượt qua phòng tuyến đến điểm hẹn tại
làng Appomattox Court House, Virginia. Tướng Lee đi qua đoàn quân nhạc của lính
miền Bắc thổi kèn chào đón.
Vị Tư lệnh miền Bắc thắng trận đã ra lệnh
nghiêm cấm các sĩ quan và binh sĩ trực thuộc không được vô lễ với vị tướng Tư lệnh
miền Nam bại trận. Và khi hay tin miền Nam đầu hàng, quân sĩ miền Bắc định bắn
đại bác chào mừng. Tướng Grant ra lệnh ngưng ngay và huấn thị: “Chiến tranh đã
kết thúc, giờ đây họ là đồng bào của chúng ta, chúng ta không nên reo mừng trên
nỗi đau khổ của họ. Hai bên không còn là kẻ thù.”
Tướng Grant lấy bút viết các điều thỏa
ước: “Quân lính miền Nam phải giải giới, tước bỏ khí giới và quân dụng; không bị
coi là phản quốc và được trở về nguyên quán sinh sống như ngưòi dân bình thường.”
Tướng Grant trao cho tướng Lee xem điều
thỏa ước. Mặt tướng Lee tươi hẳn lên và phát biểu: “ Như vậy là tốt cho mọi người,
nhưng đề nghị thêm hai yêu cầu:
1. Cho phép binh lính miền Nam mang lừa,
ngựa về để sử dụng trong nông trại vì đây là tài sản riêng của họ đã mang theo
khi gia nhập quân đội.
2. Xin cung cấp lương thực cho hơn một
ngàn tù binh miền Bắc tôi đang giam giữ và các binh sĩ của tôi cũng đang đói.”
Tướng Grant đồng ý ngay và ra lệnh xuất
25 ngàn khẩu phần ăn. Tướng Grant hỏi: “Như vậy đủ chưa?” Tướng Lee trả lời:
“Thưa Đại tướng, như thế là quá đủ.”
Nói xong tướng Lee đứng dậy bắt tay tướng
Grant, chào mọi người rồi bước ra khỏi phòng họp. Bên ngoài các sĩ quan, binh
sĩ miền Bắc đứng nghiêm đưa tay chào kính cẩn.
Sau này, khi nói đến cuộc nội chiến Hoa Kỳ và bản thỏa
ước chấm dứt chiến tranh người ta thường bảo: “Văn bản đầu hàng là một thỏa hiệp
của những người quân tử - The Gentlement’s Agreement”
Đây là niềm hãnh diện cho con dân Hoa
Kỳ mỗi khi nhắc nhớ đến cách hành xử của cha ông họ trong cuộc nội chiến và là
bài học cho hậu thế cách làm người văn minh, quân tử”.
Bây giờ chúng ta bước sang chủ đề thứ
ba: Đời sống của người Việt tha phương..
Trong số 86 tác giả, chỉ có 2 người định
cư tại vùng đất này trước 1975. Đó là nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Dung và nhạc sĩ
Khê Kinh Kha. Phần lớn các tác giả còn lại đến đây bằng con đường di tản 30
tháng 4.1975 hoặc qua đường vượt biên.
Bỏ lại đằng sau tất cả, họ bắt đầu cuộc
sống tha phương với hai bàn tay trắng, với những khó khăn về ngôn ngữ và những
khó khăn về hội nhập văn hóa. Họ làm bất cứ công việc gì để có tiền trang trải
cho cuộc sống. Nhiều người chịu khó học hành để có được công việc tốt hơn. Nói
chung, ở quê người mọi thứ không dễ dàng nhưng rồi mọi người cũng quen dần, từng
bước vượt qua những khó khăn và tạo dựng cuộc sống mới. Chúng ta cùng đọc một
đoạn văn vui của nhà văn Hồng Thủy nói về cuộc sống của bà và chồng là Đại Tá
Bùi Cửu Viên trong thời gian đầu ở Mỹ:
“Nhờ có bà dì ruột đã ở sẵn bên Mỹ vì chồng bà làm cho tòa Đại Sứ VN ở Washington DC, chúng tôi được trưởng nam của bà là Nguyễn Hoàng Diệu có quốc tịch Mỹ bảo lãnh gia đình và cho chúng tôi được tá túc trong nhà bà trong thời gian đầu khi mới đặt chân lên đất Mỹ. Hai vợ chồng, 4 đứa con ở chung trong một phòng dưới basement nhà bà. Tuy chật chội nhưng ấm cúng tình gia đình, nên chúng tôi rất vui mừng.
Ban ngày 2 vợ chồng lo đi lao động. Vợ
đi làm bồi cho một coffee shop. Chồng làm cashier cho một tiệm ăn Hy Lạp. Cả 2
vợ chồng về đến nhà là mệt nhoài, lo cho 4 đứa con và cũng phải phụ lo cơm nước
với bà dì. Tối đến vợ chồng con cái 6 mạng chui vào phòng ngủ chung, “làm ăn”
gì nổi cơ chứ, và “làm ăn” cách nào, khi 4 đứa con với 8 con mắt tinh như ma ở
xung quanh trong 1 cái phòng chả rộng rãi gì cho lắm. Lúc đó chúng tôi còn trẻ,
vợ 34 tuổi, chồng mới có 43. Vậy mà cuộc sống bận rộn khiến chúng tôi chả nghĩ
gì đến những chuyện “trần tục” đó, và quả thật cũng không thấy cần thiết nữa.
Sau khi dành dụm được 1 số tiền nhỏ,
chúng tôi mới dọn ra riêng. Chồng tôi là một người cha thương con và lo cho con
vô cùng. Cả 2 vợ chồng tôi đều coi việc lo cho các con là ưu tiên số 1. Hồi ở
VN, cả 4 đứa con tôi đều học đàn piano. Cuộc di tản làm việc học đàn của các
cháu gián đoạn gần hai năm trời. Sửa soạn
ra ở riêng, chồng tôi nghĩ ngay đến việc phải cho các cháu được tiếp tục học
đàn vì gián đoạn lâu quá sợ các cháu sẽ quên hết. Vì việc học đàn của các con,
chúng tôi phải thuê nhà riêng để ở thay vì có thể ở apartment, mỗi tháng tiền
thuê rẻ bằng nửa tiền thuê nhà, nhưng họ không cho phép đánh đàn vì sợ ồn làm
phiền hàng xóm”.
Song song với đời sống vật chất ngày càng khá hơn, nhiều tờ báo Việt ngữ ra đời để phục vụ đời sống tinh thần của bà con người Việt. Chuyện làm báo cũng gian nan vất vả, nhiều tờ báo ra đời chỉ được một thời gian ngắn đã phải đóng cửa. Tờ báo Việt Chiến của Giang Hữu Tuyện, Ngô Vương Toại và Nguyễn Đình Hùng là một trong những tờ báo Việt ngữ đầu tiên đến với người đọc. Chúng ta cùng đọc bài thơ “Trời mưa đi phát báo” của Giang Hữu Tuyên để nhớ lại những ngày đầu người làm báo phải gian khổ như thế nào.
TRỜI
MƯA ĐI PHÁT BÁO
Chiều ngã năm đường năm bẩy ngã
Ngã nào cũng ướt giọt mưa rơi
Bao mùa mưa đã im giông bão
Sao nước trường giang vẫn khứ hồi
Mười mấy năm làm tên phát báo
Lòng buồn theo thành quách xa xưa
Những trang tin dội từ quá khứ
Rớt ngập ngừng cùng những hạt mưa
Mưa lót ngót, đời loi ngoi mãi
Sáng chưa đi, chiều lại mưa về
Mưa ngã năm từ năm bẩy ngã
Ngã nào cũng mưa và mưa thôi
Xấp báo trên tay vừa ướt hết
Vậy mà cứ đứng dưới mưa bay
Hình như những mùa mưa thuở trước
Đang về làm ướt trái tim ai. *
Xoay quanh chuyện làm báo, nhà văn Nguyễn Minh
Nữu đã kể lại câu chuyện rất thú vị khi ông bắt đầu làm báo:
“Một kỷ niệm sẽ không quên được về làm báo. Đó là thời điểm
chuẩn bị để xuất bản. Một số bạn bè trong vùng chân tình khuyên nhủ là suy nghĩ
lại. Làm báo là con đường dễ chết, vì thiếu bài, vì thiếu người, vì không đủ
tài chính nuôi tờ báo và còn vì sự đánh phá từ nhiều phía như bạn cùng nghề,
các thế lực chính trị không cùng quan điểm, vì... và vì... Sau đó, một buổi gặp
gỡ với bạn bè, tất cả các câu hỏi về năng lực, về ý tưởng, lòng kỳ vọng, mọi
người đều khuyên nên nghĩ lại. Khi quay về nhà, một mình trong đêm vắng, trằn
trọc suy nghĩ và quyết định. Tự nhiên chợt nhớ đến một trận đánh trong truyện
Tây Hán Chí. Trận đánh giữa quân của Tây Sở Bá Vương Hạng Võ và Phá Sở Nguyên
Nhung Hàn Tín.
Trận đánh quyết liệt đó, Hàn Tín lập một trận thế kỳ lạ
ngược hoàn toàn với các binh pháp cổ xưa, đó là đằng sau thế trận là một bờ
sông lớn, nghĩa là tạo cho quân sĩ một tâm thế chỉ có một đường là đánh chứ
không có đường lui. Tự xét về hoàn cảnh thực tế của mình, và nóng
bỏng khao khát muốn được sống và làm việc bằng khả năng mà mình còn có được
giữa xứ người, tôi bật dậy, dùng bút đen nét lớn viết trên bức tường ngay trước
mặt bàn làm việc của mình ba chữ thật lớn: BỐI THỦY TRẬN. Vâng, đó là một trận
thế mà sau lưng không có đường rút chạy.”
Ở chủ đề
thứ ba này, một số tác giả viết về cuộc sống gia đình, về việc nuôi dạy con cái
ở quê người. Câu chuyện “Thiên Thần Gãy Cánh” của Cung Thị Lan là một câu chuyện
cảm động với thông điệp: “Hãy ngay lập tức cứu các em trước khi các em ngã gục!”
và “Xin hãy chia sẻ nỗi buồn của mình với cha mẹ với ghi nhớ: Cha mẹ lúc nào
cũng thương yêu các con!” Tác giả kể lại chuyện mình la mắng đứa con và kết
quả như sau:
Tôi lại
xuống bếp rồi lên phòng ăn đem thêm những món cuối. Khi ngồi vào bàn, tôi không
thấy thằng bé vừa bị la, gọi nó ra ăn cơm thì chồng tôi bảo nó vừa ra khỏi nhà,
không biết đi đâu rồi. Tôi thảng thốt, nhớ lại những lời mình vừa càu nhàu.
Linh tính chuyện gì không ổn, tôi lấy chìa khóa xe rồi tuôn ra khỏi nhà ngay.
Trời lúc này tối đen. Ba con đường vắng ở góc nhà chúng tôi heo hắt những ánh
đèn đường buồn bã. Không một người nào trên đường bộ hành và cũng không có chiếc
xe nào qua lại trên những con đường nhựa. Tôi không biết tìm thằng bé hướng
nào, rồ máy, tôi đạp ga trên những con đường thường đi làm theo quán tính. Đến
một con đường hẹp tối đen, tôi bỗng giật mình, hãm tốc độ vì một bóng người
trong y phục tối sẫm đang đi giữa đường. Bấm còi người ấy cũng không chịu bước
vào lề. Tôi chiếu đèn soi rõ, nhận ra người ấy là con mình. Tôi dừng xe, bấm
còi rồi kéo kính xe xuống, gọi tên nó. Thằng bé giật mình, dừng bước, đứng im
nhưng không quay lại. Tôi gọi tên nó, bảo nó hãy lên xe. Nó quay lại nhìn xe tôi,
ngần ngừ một lúc rất lâu rồi từ từ bước đến xe tôi. Đợi nó lên xe xong, tôi
không nói gì, chở nó đi vòng vòng những con đường trong xóm. Xe chạy lòng vòng
trên những con đường tối và vắng khoảng hơn mười lăm phút mà chúng tôi không ai
nói với ai lời nào. Khi tôi lái xe vòng về nhà.”
Chủ đề
thứ tư trong cuốn sách là “Tình cảm gia đình và Nỗi nhớ quê hương”. Phảng phất trong mỗi bài viết là nỗi nhớ về một
quê hương đã mịt mù bên kia nửa vòng trái đất. Thương cha, nhớ mẹ, thương anh, thương
chị, nhớ em. Căn nhà xưa. Góc phố cũ. Tất cả chỉ còn trong hoài niệm. Truyền thống
của người Việt là hiếu thảo với cha mẹ. Mỗi đêm con thắp đèn trời. Cầu cho
cha mẹ sống đời với con. Trong chiến tranh, nhiều gia đình ly tán. Sau chiến
tranh, tiếp tục những cuộc chia lìa. Lưu
lạc ở quê người, con cái không thể ở gần cha mẹ để chăm sóc. Bài thơ “Mẹ ơi,
vĩnh biệt” của Lãm Thúy là tiếng khóc của người con khi nghe tin mẹ hấp hối, vội
vàng về Việt Nam nhưng khi đến nơi thì mẹ đã nhắm mắt xuôi tay.
Mẹ ơi, con về
không kịp
Giấc dài mẹ đã
hôn mê
Đôi mắt thân yêu
đã khép
Mẹ đâu hay biết
con về!
Con đi đầu non,
cuối bể
Mấy mươi năm, mẹ
vẫn chờ
Giờ sao lạnh lùng
quá thể
Gọi hoài, mẹ vẫn
trơ trơ!
Mẹ ơi, lòng đau
như cắt
Chuyến phà đêm chở
xác về
Có một tinh cầu vừa
tắt
Lạnh lùng sông chảy
dòng khuya…
Sáng nay, người
ta khâm liệm
Áo quan đóng nắp
lại rồi
Từ đây muôn đời,
vĩnh viễn
Đâu còn thấy nữa,
Mẹ ơi!
Thân xác vùi
trong lòng đất
Mẹ nằm giữa một đồi
hoa
Mẹ ơi, mộ vừa mới
lấp
Từ đây đất lạnh
là nhà!
86 tác giả. 86 câu chuyện khác nhau. Nguyễn Tường Giang kể chuyện “Cái ấm đất và bộ chén trà Nguyễn Tuân tặng Thạch Lam”, Nguyễn Manh Hùng dịch truyện ngắn “Ngoài kia trời đang mưa” của nhà văn Tiệp Khắc Ivan Klima, Nguyễn Thị Ngọc Dung kể chuyện “Xin Thượng Đế”, Nguyễn Tường Nhung kể chuyện “Bắt đầu cuộc sống mới”, Đặng Đình Khiết phỏng vấn giáo sư Hoàng Văn Chí, Đinh Từ Bích Thúy viết về nhiếp ảnh gia nổi tiếng Eddie Adams, Nguyễn Thị Thanh Bình viết về kỷ niệm với nhà văn Mai Thảo, Phạm Thành Châu kể chuyện “Bão tuyết ở Virginia”, Uyên Thao kể chuyện “Vùng đất tình nhân”, Vũ Thất kể chuyện “Ngôi sao Sài Gòn”, Lê Thị Ý kể chuyện “Pleiku và tôi”, Lê Thị Nhị kể chuyện “Sóng thời gian”, Hoàng Thị Bích Ti kể chuyện “Đường Mười Sáu”…
Để kết thúc bài viết này, chúng ta cùng đọc bài thơ “Khi dừng lại bên dòng Potomac” của Phạm Cao Hoàng. Bài thơ như một lời tri ân gửi đến dòng sông này và vùng đất này.
khi dừng lại bên
dòng Potomac
em bên tôi vẫn rất dịu dàng
gió lồng lộng cả một trời Đông Bắc
tóc em bay trong nắng thu vàng
và như thế mình đi và đã đến
mình đã tìm và gặp được dòng sông
tôi ngồi xuống để nghe sông hát
và đứng lên ôm lấy mặt trời hồng
và như thế mình đi và đã đến
đã bên nhau thủy tận sơn cùng
tôi nằm xuống để nghe đất thở
tạ ơn đời độ lượng bao dung
khi dừng lại bên dòng Potomac
tôi và em nhìn lại quê nhà
buồn hiu hắt thương về chốn cũ
phía chân trời đã mịt mù xa