Nền văn học tự do hải ngoại sau cuộc đứt gãy lịch sử 1975
NGUỒN : Nhật báo
Người Việt September 24, 2025
Nguyễn
Vy Khanh
ONTARIO,
Canada (NV) –
Ngày 30 Tháng Tư là một biến cố lịch sử lớn đối với dân tộc, đưa đến việc hình
thành một cộng đồng người Việt hải ngoại, từ đó dẫn đến việc hình thành một
cộng đồng người Việt hải ngoại với những đặc tính riêng – tính tiếp nối và bảo
tồn truyền thống văn hiến Việt cũng như tinh thần quốc gia và dân tộc của miền
Nam trước 1975 và nước Việt trước đó: Nhân bản, tự do, và khai phóng.
Nửa
thế kỷ qua, cộng đồng hải ngoại đã xây dựng được nền văn học và báo chí tự do
sau cuộc đứt gãy lịch sử 1975. (Hình: Mạnh Kim)
Giai
đoạn Phôi Thai (1975-1980)
Hoạt
động báo chí và văn học bắt đầu ngay từ những trại tị nạn như đảo Guam và nơi
những vùng “quê hương thứ hai.” Một nền văn học không Cộng Sản tiếp nối nền văn
học miền Nam. Sau những hoảng hốt, bỡ ngỡ xa xứ lúc đầu, nền văn học lưu vong
được khởi dựng từ những bàn tay trắng, nhanh chóng trưởng thành, dựa vào “vốn
liếng” đồ sộ là vô số tấn thảm kịch riêng lẫn chung, những bi thảm và dư chấn
chiến tranh.
Một
cách tổng quát, nội dung các báo chí và sáng tác ở hải ngoại sau biến cố 30
Tháng Tư là đời sống lưu đày, lưu vong, hoài niệm cố hương, đối kháng, chiến
tranh…, với hai khuynh hướng – một bên tục lụy, hoài niệm; một bên cáo trạng,
phân biệt bạn thù.
Các
nhà văn Thanh Nam, Cao Tần Lê Tất Điều, Võ Phiến… đã có những tác phẩm về cuộc
sống mới và về một phần nhỏ cuộc chiến vừa kết thúc. Cùng Minh Đức Hoài Trinh ở
Pháp, các nhà văn này đã làm rõ đặc tính và đánh dấu những bước đầu di tản và
lưu vong của văn học hải ngoại.
Giai
đoạn Hình Thành (1980-1986)
Đến
những năm đầu thập niên 1980, văn học ở ngoài nước mới khởi sắc. Năm 1980 đánh
dấu sự tham gia sinh hoạt văn nghệ, báo chí của đợt thuyền nhân (boat people).
Cộng đồng nhà văn tị nạn ngày một đông đảo hơn. Đặc biệt các vị rời nước sau
này, họ đã có kinh nghiệm với Cộng Sản, đã là nạn nhân, đã nhìn thấy rõ diện
mạo trò đời. Nay vượt biển hoặc đoàn tụ gia đình, tha hương, họ bắt đầu viết
lại và bộ phận văn học hải ngoại nhờ đó súc tích và đa dạng hơn.
Các
nhà văn của giai đoạn này làm mạnh thêm tư cách tị nạn chính trị. Từ tâm thức
bị phản bội vào thời khắc 30 Tháng Tư, nay người Việt hải ngoại nhận chân chính
nghĩa luôn ở về phía người tị nạn, lưu vong. Viết về chiến tranh, đa phần vẫn
là cay đắng, buồn tức, tức “người” lẫn “ta.”
Giai
đoạn này có thêm những nhà văn thơ thuyền nhân và có những nhà văn viết vì phẫn
nộ. Đó là thời của những cây viết mới Nguyễn Ngọc Ngạn, Võ Kỳ Điền, Nguyễn Bá
Trạc, Nguyễn Ý Thuần, Thế Giang, Lê Thị Huệ, Trần Diệu Hằng, Phan Thị Trọng
Tuyến, Vũ Quỳnh Hương, Nguyễn Văn Ba, Bắc Phong, Phan Tấn Hải, Phạm Quốc Bảo,
Nguyễn Xuân Quang, Nguyễn Mạnh Trinh, Lâm Hảo Dũng, Phan Ni Tấn, Nguyễn Đức Bạt
Ngàn,… bên cạnh những nhà văn tị nạn từng hoạt động trước 1975 ở quê nhà. Những
nhà văn có tác phẩm nổi tiếng và phản ứng có tính chính trị thời này có Cao
Xuân Huy, Nguyễn Mộng Giác, Nhật Tiến và Duyên Anh. Khuynh hướng phục quốc rõ
nhất với Tưởng Năng Tiến, Võ Hoàng, Trùng Dương và Bắc Phong.
Thể
loại hồi ký, bút ký chiếm một phần quan trọng từ 1980 đến khoảng năm 2000, sau
đó thưa thớt hơn. Đây là chứng giám của tấn bi kịch chung – do đó mang thêm
tính tập thể, cộng đồng, trong đó có nhiều cuốn có giá trị văn chương đặc biệt.
Nguyễn Tường Bách, lúc đó còn sống ở Trung Quốc, là người có hồi ký xuất bản
đầu tiên ở hải ngoại, với cuốn “Việt Nam Những Ngày Lịch Sử” (1981).
Trần
Huỳnh Châu là người đầu tiên xuất bản hồi ký “cải tạo” với “Những Năm Cải Tạo Ở
Bắc Việt” (1981). Nhưng nhà văn đánh mốc cho giai đoạn này là Hà Thúc Sinh với
“Đại Học Máu” (1985) – một cáo trạng đanh thép chống chế độ lao tù với mỹ từ
“học tập/cải tạo.” Sau sửng sốt của “Đại Học Máu” là hồi ký lao tù của những sĩ
quan tâm lý chiến như Phạm Quang Giai với “Trại Cải Tạo,” Tạ Tỵ với “Đáy Địa
Ngục” khởi viết từ trại tị nạn Mã Lai…
Giai
đoạn Trưởng Thành (1987-1991)
Sau
1987, sự thay đổi của chính trị thế giới và Việt Nam đã ảnh hưởng đến giới văn
học trong cũng như ngoài nước. Chủ nghĩa “thần thánh” và “đỉnh cao trí tuệ” bắt
đầu suy yếu rồi biến dạng ở nhiều thành trì. Những lý tưởng mơ hồ, vô vọng phải
nhường chỗ cho cái sống thực và hợp nhu cầu cũng như ý nguyện của người hôm
nay. Văn chương vẫn lưu đày, hoài niệm nhưng tự do hơn.
Đến
cuối năm 1989, bức tường Bá Linh bị phá đổ. Loạt chế độ Cộng Sản ở Đông Âu và
Liên Xô lui vào quá khứ. Đã có những hy vọng lóe lên trong văn chương nhưng cái
u hoài vẫn còn đó. Đợt H.O. làm sống chính trị trở lại, có khi thật to tiếng;
tuy nhiên đa số tỏ ra trầm thống hơn, thấm thía hơn, từ những con người trở về
chốn địa ngục, những “xác” tàn tìm lại cảm giác sống sót và tình người.
Thời
này, mỗi năm có khoảng 100-200 tựa sách mới, nổi trội là hồi ký, tiểu thuyết.
Thời điểm 1990-1991 là hai năm thịnh nhất. Đáng kể là sự xuất hiện của những
nhà văn thơ trẻ hoặc mới, như Trần Vũ, Trân Sa, Nguyễn Thị Hoàng Bắc, Trần Mộng
Tú, Nguyễn Hoàng Nam, Thế Giang, Ngô Nguyên Dũng, Hồ Đình Nghiêm, Đỗ Kh., Cung
Vũ, Phạm Chi Lan, Phùng Nguyễn, Ngu Yên, Trần Long Hồ, Nguyễn Ý Thuần, Chân
Phương…
Họ
có vẻ ít bị dĩ vãng đè nặng trong suy nghĩ; chiến tranh cũng bắt đầu xa, loãng;
dẫn đến việc mở đầu thời tranh luận “hòa hợp hòa giải” và giao thiệp văn hóa –
với những tạp chí như Trăm Con ở Canada cũng như Thế Kỷ 21, Đối Thoại, Hợp Lưu
ở Hoa Kỳ.
Bộ
phận hồi ký “cải tạo” được tiếp tục với những cựu tù mới qua theo các diện H.O.
và ODP. Các hồi ký xuất bản sau này có thêm ít nhất hai điểm lợi: Có thể viết
rõ hơn về người mà không sợ nguy cho họ và hận thù cũng lắng xuống để có những
cái nhìn nhân bản và thật lòng hơn. Khác với hồi ký những kẻ chạy trước kể công
lao, hồi ký cải tạo viết ra như vết sẹo coi như lành nhưng vẫn đau mỗi khi đụng
tới.
Giai đoạn Hoài Niệm (1992-2000)
Năm
1992 kinh tế toàn cầu suy thoái, ảnh hưởng đến tình hình xuất bản hải ngoại.
Rồi đến những vụ lằn ranh Quốc-Cộng, khiến văn nghệ sĩ thêm chia rẽ, đối đầu,
thậm chí có khi xem nhau như kẻ thù, “tay sai” của trong nước… Sinh hoạt văn
học bắt đầu yếu.
Các
tác phẩm xuất bản vào giai đoạn này tiếp tục nhớ về thời xưa quê cũ và làm rõ
tâm thức hoài niệm. Đề tài và nội dung của nhiều tác phẩm thời này song hành
với ý hướng nhìn về trong nước. Tác giả mới trong thời này: Cao Đông Khánh,
Phạm Ngũ Yên, Nguyễn Chí Kham, Hoàng Mai Đạt, Thường Quán, Hoàng Nga, Khánh Hà,
Quan Dương, Yên Sơn, Trần Yên Hòa, Dương Như Nguyện…
Không
khí chiến tranh vẫn hiện diện trong các tác phẩm giai đoạn này. Bắt đầu có
những cây bút can đảm nói thật những suy nghĩ riêng tư dù có thể gây phiền
những người quá khích một chiều, cả hai phía. Người viết lịch sử sau này cần
biết đến những nhân chứng này – Phan Nhật Nam, Thảo Trường, Trần Hoài Thư, Vĩnh
Hảo, Nguyễn Bửu Thoại, Ngô Thế Vinh…
Giai
đoạn Lão Hóa và Chuyển Động Thế Kỷ (2001-2015)
Đến
đầu thiên niên kỷ thứ ba và thế kỷ mới 21, sinh mệnh văn học hải ngoại bước vào
một giai đoạn mới, chuyển động thế kỷ và lão hóa theo lẽ tự nhiên, trong bối
cảnh ngày càng thêm nhân tố từ trong nước ra nhập vào cộng đồng hải ngoại. Nhân
tố này có phần khác hẳn với lớp cũ. Tuy nhiên đa số sinh hoạt vẫn là của tập
thể tị nạn cùng con cháu họ mang cùng tâm thức.
Sinh
hoạt văn chương hải ngoại trở nên trầm lắng, rất ít biến cố và tác phẩm đáng
kể. Những nhà văn thơ nổi tiếng từ trước 1975 lần lượt ngưng viết hoặc qua đời.
Lớp tiếp theo cũng thay nhau buông bút. Dù vậy, cũng có nhiều người tiếp tục
sáng tác dù không gây tiếng vang. Vào những năm cuối giai đoạn này và kéo dài
đến nay 2025, xuất hiện “hiện tượng” nhà văn thơ dễ dàng và dễ dãi, xuất bản
qua không gian Internet.
Thời
này, thơ vẫn mạnh về số lượng nhưng không nhiều mới lạ có thể thôi thúc người
đọc khám phá và chưa đủ để làm sống động sinh hoạt văn học như trước. Thơ vẫn
là bộ môn có nhiều ấn phẩm nhất nhưng phần lớn để tặng bạn bè và gia đình hoặc
các nhà giới thiệu nhau qua lại. Một số tác phẩm được in ấn trong nước.
Giai
đoạn “Không Gian Mạng” toàn cầu (2015-2025)
Đây
là giai đoạn khó khăn cho những ai muốn theo dõi sinh hoạt và ấn phẩm văn
chương. Những sinh hoạt theo nhóm, địa phương hoặc đoàn thể nay bắt đầu được
“toàn cầu hóa.” Thời đại mới, phương tiện xuất bản cũng cập nhật với hệ thống
bán sách giấy và số hóa qua các công ty quốc tế như amazon.com, lulu.com…
Những
nhà xuất bản như Nhân Ảnh, Người Việt, Sống…, một số cá nhân và tác giả tự xuất
bản đã phát hành khá nhiều tựa sách. Với cách xuất bản này, biên giới
trong-ngoài của văn học Việt Nam dần thay đổi, có thể nói biên giới đã bị xóa
nhòa, dù con người và chế độ muốn hay không. Tuy nhiên, cần nói thêm, phương
tiện phát hành tự do của thời xuất bản book-on-demand “hậu hiện đại” này lại
làm nảy sinh vấn đề nội dung và giá trị văn chương thật sự của các ấn phẩm.
***
Văn
học hải ngoại đã có những thành tựu cách tân về các thể loại thơ và tiểu
thuyết: Trường thiên với Nguyễn Mộng Giác, Hoàng Khởi Phong; truyện và tiểu
thuyết của Lâm Chương, Đặng Thơ Thơ, Trần Vũ, Trịnh Y Thư…, truyện thật ngắn
của Võ Phiến, Hà Thúc Sinh; thơ của Du Tử Lê, Nguyễn Xuân Thiệp, Khế Iêm,
Nguyễn Đăng Thường… Một hiện tượng đáng kể là sự tham gia của các nhà văn nữ
trội bật lên xuống theo giai đoạn.
Đa
số người viết ở hải ngoại viết để giải tỏa, viết vì không thể không viết, viết
để tỏ thái độ chính trị. Tính phản kháng như vậy đã nằm trong đặc tính chính
trị của nền văn học này. Nói chung, chủ đề tư tưởng của văn học lưu vong tị nạn
không phải là khía cạnh đi tìm sự giải phóng cho chính bản thân mà là giải
phóng cho tập thể.
Nhìn
lại, có thể thấy 50 năm văn học hải ngoại có một đặc điểm có yếu tố bao trùm là
“tính chính trị” – vừa là động cơ, là lý do tồn tại, hiện hữu, vừa là mục đích.
Qua văn chương, người ta muốn tranh đấu tiêu diệt chủ nghĩa Cộng Sản và những
thế lực làm kiệt quệ đất nước. Qua chữ nghĩa, người ta vận động cho tự do dân
chủ và quyền làm người.
Nửa
thế kỷ qua, thế giới đã nhìn thấy sự hình thành của một tập thể lưu vong mang
tên “Việt Nam.” Và một nền văn học từ tình cảnh đó phát sinh và lớn mạnh. Đã có
nhiều thế hệ văn học hải ngoại nối tiếp nhau.
Điều
đọng lại đáng nói nhất của văn học hải ngoại là tính cách dân tộc, khai phóng,
nhân bản; và sau đó là hội nhập. Nói chung, chúng ta đã và sẽ sống với ngôn ngữ
của mình khi không còn lãnh thổ. Hành trình văn học hải ngoại là hành trình của
người Việt nói chung, đi từ việc kiếm tìm nguồn cội đến các giá trị nhân bản
của thời hiện đại; từ cái lõi chung dân tộc đến yếu tố phổ quát của văn hóa
nhân loại. [qd]
Tác
giả Nguyễn Vy Khanh tốt nghiệp Sư Phạm Việt Hán Sài Gòn 1974; cử nhân giáo khoa
1973 và cao học Triết Tây 1975; Master of Library Sciences, Montréal, Canada
1978.
Một số tác phẩm của ông: “Khung Cửa” (thơ, Sài Gòn, 1972); “Lỗ Tấn Và Truyện Xưa Viết Lại” (Xuân Thu, 1997); “Bốn Mươi Năm Văn Học Chiến Tranh 1957-1997” (Đại Nam, 1997; tái bản 2000); “Văn Học Và Thời Gian” (Văn Nghệ, 2000); “Văn Học Việt Nam Thế Kỷ 20 – Một Số Hiện Tượng Và Thể Loại” (Đại Nam 2004); “Nhà Văn Việt Nam Hải Ngoại” (Nhân Ảnh 2020)…