Thứ Tư, 1 tháng 10, 2025

539 - THÂN TRỌNG SƠN - TRẦN DẠ TỪ vài bài thơ dịch.

                                                                                                                          


 

Trần Dạ Từ sinh năm 1940, tên thật là Lê Hạ Vĩnh, sinh ra tại Hải Dương, miền Bắc Việt Nam. Ông là chồng của nhà văn, nhà thơ Nhã Ca (Trần Thị Thu Vân). Ông di cư vào Nam năm 1954 khi đất nước bắt đầu chia cắt, định cư tại Sài Gòn, nơi ông bắt đầu làm thơ và viết báo, trở thành một thi sĩ được yêu thích trong giới văn nghệ miền Nam. Đầu thập niên 1960 ông cộng tác với Nguyên Sa làm tờ Gió mới. Năm 1963 ông từng bị chính quyền Ngô Đình Diệm bắt giam vì bất đồng chính kiến.

Sau ngày 30/4/1975 vợ chồng Trần Dạ Từ bị chính quyền bắt giữ vì bị xem là “biệt kích văn hoá”. Ông bị giam cầm từ năm 1976 đến 1988. Thời gian này ông cho ra đời hàng loạt bài thơ, nổi tiếng nhất là Hòn đá làm ra lửa. Năm 1989, dưới sự bảo trợ đặc biệt của chính phủ Thuỵ Điển, gia đình ông được sang Thuỵ Điển sinh sống, đến năm 1992 sang quận Cam, miền Nam bang California, Hoa Kỳ. Tại đây cùng với Nhã Ca, ông xuất bản tờ Việt báo.

 Tác phẩm:

- Thuở làm thơ yêu em (Sài Gòn, 1960)

- Tỏ tình trong đêm (Sài Gòn, 1965)

-    Nụ cười trăm năm (chưa xuất bản)

 Nhà thơ Trần Dạ Từ là một trong những tên tuổi nổi bật của văn học miền Nam Việt Nam trước năm 1975, đồng thời là một gương mặt tiêu biểu của nền văn chương hải ngoại sau 1975. Giới văn chương trong và ngoài nước đánh giá ông khá cao về nhiều phương diện:

1. Nhà thơ của tình yêu và kháng cự

Trần Dạ Từ được biết đến như một nhà thơ tình sâu sắc, với giọng thơ vừa nồng nàn vừa buốt giá. Những bài thơ tình của ông, như Thơ tình gửi một người, mang âm điệu thiết tha, đầy hoài niệm, nhưng không bi lụy.

Bên cạnh đó, ông cũng là nhà thơ phản kháng, nhất là trong giai đoạn sau năm 1975 khi ông bị cầm tù và sau đó lưu vong. Thơ ông thể hiện sự dũng cảm, thái độ kiên cường trước bạo lực và đàn áp, nhưng vẫn giữ được vẻ đẹp trữ tình và nhân bản.

 2. Giọng thơ đặc trưng, giàu nhạc tính

Thơ Trần Dạ Từ mang phong cách tự nhiên, nhẹ nhàng, mà sâu xa, giàu nhạc điệu và hình ảnh. Giới phê bình đánh giá ông có khả năng chuyển những trải nghiệm cá nhân thành biểu tượng phổ quát, khiến người đọc dễ đồng cảm.

Ví dụ, bài thơ “Tháng Giêng trong núi” không chỉ là một đêm cô đơn, mà là ẩn dụ cho thân phận lưu đầy, cho cuộc sống bị chia lìa, cho nỗi nhớ quê nhà.

 3. Đóng góp lớn cho văn học hải ngoại

Sau khi rời Việt Nam, Trần Dạ Từ cùng vợ – nhà văn Nhã Ca – sáng lập và điều hành Tạp chí Việt Báo, một trong những diễn đàn văn chương lớn và nghiêm túc ở cộng đồng người Việt hải ngoại.

Với vai trò này, ông không chỉ tiếp tục viết, mà còn nuôi dưỡng, bảo vệ và phát triển đời sống văn học của người Việt xa xứ. Nhiều cây bút trẻ được ông dìu dắt và cổ vũ.
 4. Được kính trọng như một nhân chứng thời đại

Việc ông từng bị tù cải tạo 12 năm sau 1975 và sau đó viết về những trải nghiệm ấy không mang tinh thần hận thù, mà chan chứa nhân đạo, khiến ông được kính trọng không chỉ như một thi sĩ, mà còn như một nhân chứng lương tri.

 Nhận định tiêu biểu:

Nhà văn Nguyễn Hữu Nghĩa nhận định Trần Dạ Từ là “một trong những nhà thơ tình xuất sắc nhất của nền thi ca Việt Nam hiện đại”.                                                                            

Nhà văn Mai Thảo từng viết: Thơ Trần Dạ Từ có cái nhói đau của kẻ đi qua khổ nạn mà vẫn giữ nguyên hương vị của một nụ hôn đầu”.

 

Sau đây là một số bài thơ của Ông, kèm theo bản dịch tiếng Pháp và tiếng Anh:

 

THỦA LÀM THƠ YÊU EM

 Thủa làm thơ yêu em

Trời mưa chưa ướt áo
Hoa cúc vàng chân thềm
Gió mây lưng bờ dậu

Chiều sương đầy bốn phía
Lòng anh mấy cách xa
Tiếng đời đi rất nhẹ
Nhịp sầu lên thiết tha


Thủa làm thơ yêu em
Cả dòng sông thương nhớ
Cả
vai cầu tay nghiêng
Tương tư trời thành phố

Anh đi rồi lại đến

Bài thơ không hết lời
Bao nhiêu lần hò hẹn
Sớm chiều sao xa xôi

Mười bảy năm chợt thức
Bây giờ là bao giờ
Bàn tay trên mái tóc

Nghìn sau còn bâng quơ.

 

QUAND J’ ÉCRIVAIS DES POÈMES EN T’AIMANT


Quand j’écrivais des vers en t’aimant,

La pluie tombait sans mouiller ma chemise

Des chrysanthèmes dorés au seuil charmant

Nuages et vent frôlaient la clôture grise.

 

Le soir tombait, brume aux quatre vents,

Mon cœur lointain, comme absent.

La vie passait, si doucement,

Le chagrin battait tendrement le temps.

 

Quand j’écrivais des vers pour taimer,

Tout un fleuve portait mes pensées.

Ponts en biais, regards penchés,

La ville noyée dans ses nuées.

 

Je venais, je repartais en silence

Le poème n’ en finissait jamais.

Rendez-vous innombrables en absence

Matin, soir - si loin des feux d’hier

 

Dix-sept ans soudain se sont réveillés

Et maintenant, quel est ce délai ?

Ma main cherche encore tes cheveux,

Dans mille ans, ce geste reste brumeux

 

 

WHEN I WROTE POEMS LOVING YOU

 

When I wrote poems loving you,

The rain had yet to soak us through.

Gold chrysanthemums by the stair,

Clouds and winds drifted everywhere.

 

Evening mist spread far and wide,

My heart kept distance deep inside.

Life walked by with silent feet,

While sorrow pulsed in tender beat.

 

When I wrote poems in your name,

A river flowed with wistful flame.

Leaning bridges, tilted grace,

The city dreamed in a cloudy haze.

 

I came and went, again, again—

The poem had too much to contain.

How many times we tried to meet,

Yet dawns and dusks missed every beat.

 

Seventeen years now reappear—

And now? What time is drawing near?

My hand still seeks your wind-swept hair—

A thousand years may find it there.

NỤ HÔN ĐẦU

 

 

Lần đầu ta ghé môi hôn
Những con ve nhỏ hết hồn kêu vang
Vườn xanh, cỏ biếc, trưa vàng
Nghìn cây phượng vỹ huy hoàng trổ bông.
Trên môi ta, vạn đoá hồng
n em trời đất một lòng chứa chan
Tiếng cười đâu đó ròn tan
Nụ hôn ngày ấy miên man một đời
Hôm nay chợt nhớ thương người
Tiếng ve mùa cũ rụng rời vai anh
Trưa vàng, cỏ biếc, vườn xanh
i ai chín đỏ đầu cành phượng xưa.

 

PREMIER BAISER

 

La première fois que nos lèvres se frôlèrent,

Les cigales, surprises, crièrent en chœur.

Trêve d’été, gazon vert, midi en feu,

Les flamboyants fleuris dans les cieux lumineux.

 

Sur mes lèvres, mille roses en fête,

Je tembrassais le monde sarrêtait.

Quelque part, un rire éclata de joie,

Ce baiser dantan mhabite, tout droit.

 

Aujourdhui, un souvenir me revient :

Le cri des cigales tombe sur mon sein.

Midi doré, lherbe tendre, jardin d’été,

Ta bouche mûrissait au bout du passé.

 

 

FIRST KISS

 

The first time I kissed your lips so shy,

Cicadas startled, sang loud from the sky.

Green grass below, noon bathed in gold,

Flamboyant trees a thousand blossoms hold.

 

On my lips, roses bloomed in delight,

One kiss held the earth, the stars, the light.

A burst of laughter rang clear and free,

That kiss still lingers inside of me.

 

Today I recall you, soft and near,

Old cicada songs fall on my ear.

Golden noon, green grass, summers grace

Your ripened lips on the flame trees face.

 

 

BÀI RU

Mi sầu thôi khép đi em

Hồn anh rộng đã trăm miền không gian
Ngày vơi, cửa trống, thu tàn
Lá thưa cành nặng cây dàn quạnh hiu

Lối đi vừa chớm tiêu điều
Mùa nghiêng bóng nhỏ ngày xiêu cột dài
Phố chiều gió vọng bàn tay
Ru anh về với đôi ngày lãng quên.

 

BERCEUSE

 

Referme ta peine, dors, mon aimée,

Mon âme est vaste de cent cieux partagés.

Le jour se vide, la porte est déserte,

Lautomne s’éteint, les feuilles éparses pleurent.

 

Le sentier naît dans un souffle désert,

Lombre des saisons glisse au fil des heures.

Le vent du soir frôle la main oubliée,

Et me berce aux jours doubli murmurés.

 

 

LULLABY

 

Close your sorrowed eyes, my dear,

My soul has spread through a hundred spheres.

The day runs dry, the doorway bare,

Autumn fades in leaves stripped and spare.

 

The path just touched by a lonely sigh,

The season tilts its shadowed sky.

Evening winds call through my hand,

To lull me back to forgettings land.

 

 

MỘNG ĐẦU

 

Hoa và trái một đêm nào thức dậy,
Nghe mộng đời xao xuyến giấc xuân xanh.
Con đường đó một đêm nào trở lại
Cùng gió mưa phùn trên cánh tay anh.

Hoa bỗng nở và trái sầu bỗng chín
Tim xa xưa còn đó chút trông chờ
Màu thơ dại vẫn tươi màu kỷ niệm,

Bóng cây nào ôm mãi mắt hư vô.

Tháng giêng đó, anh mỉm cười bước tới,
Khi yêu em tay cũng mở như lòng.
Môi thần thánh biết gì đâu tội lỗi,
Lối đi nào ngây ngất bước song song?

Anh sẽ nhắc trong những tàn phai ấy,
Đê
m hoàng lan thơm đến ngọt vai mình,
Ai sẽ biểu trong một lần trở lại,
Hoàng lan xưa còn nức nở hồn anh.

Tháng giêng hết thôi giận hờn đã muộn,
Khi xa em, vai mới biết đau buồn,
Tơ gấm biếc nào nâng từng bước chậm
Trả giùm tôi về những dấu chân chim.

Hoa và trái đêm nay đây thức dậy
Ô
i mộng đời em hiểu chữ xuân xanh
Con đường đó đêm này đây trở lại;
Cùng gió mưa phùn buốt cánh tay anh...

 

PREMIER RÊVE

 

Fleurs et fruits, une nuit se sont levés,

Le rêve frémit dun printemps éveillé.

Ce même chemin revient à la volée,

Sous la pluie fine, ton bras sest réchauffé.

 

La fleur souvre, le fruit de peine mûrit,

Un vieux cœur bat dattente infinie.

Les souvenirs gardent leur tendre éclat,

Un arbre embrasse des yeux sans tracas.

 

Ce janvier-là, je tai souri, confiant,

Aimant tes mains, mon cœur en souvrant.

Les lèvres saintes ignoraient le péché,

Deux pas troublés, sur la voie mêlée.

 

Je dirai tout, même au creux du silence,

La nuit dylang au parfum dinnocence.

Qui ma laissé, ce soir-là, revenir?

Lylang dantan pleure encore le soupir.

 

Janvier sachève, trop tard pour les colères,

Loin de toi, l’épaule a goûté la misère.

Soie et velours ralentissent mes pas,

Ramène-moi les empreintes dautrefois.

 

Fleurs et fruits, en cette nuit s’éveillent,

Ô rêve humain que ton printemps révèle.

Ce chemin-là, ce soir, me reconduit

Sous la bruine froide, vers ton bras attendri.

 

 

FIRST DREAM

 

Flowers and fruit awoke one quiet night,

Dreams of spring stirred gently into light.

That same old path returned again to me,

With drizzling rain and your arm tenderly.

 

A bloom unfolded, and sorrow bore its fruit,

An ancient heart still waited, holding truth.

The hue of innocence still softly clings,

Beneath a tree that shadows distant things.

 

That January, I smiled and walked your way,

Loved with hands that opened like the day.

Your holy lips knew nothing yet of wrong,

Our steps in trance moved silently along.

 

I will recall, even as things fade away,

The ylang night that sweetened shoulders stay.

Who told me then I might return once more?

The ylang cries through my memorys core.

 

Now January ends — and wrath comes too late,

Far from you, my shoulder felt the weight.

Blue silken threads slowed every wistful tread,

Return to me the steps that birds once led.

 

Flowers and fruit awaken here tonight,

You know the dream — that green springs light.

That path returns again beneath the rain,

And finds your arm — through mist and dream — again.

 

 

KHI EM MƯỜI SÁU

 

Cho tôi xin nửa bóng trăng ngoài
Với nửa mùa thu trong mắt ai
Lá rụng bao nhiêu hè phố cũ
Sao nghe lòng rưng rưng nhớ người


Đê
m biếc cành soan, thơm giấc mơ
Đầu hiên hoa trắng nở bao giờ
Em mười sáu tuổi trăng mười sáu
Á
o lụa phơi buồn sân gió xưa

Tôi dối lòng tôi đêm sắp tàn
Đê
m tàn để lạnh giấc mơ em
Để
bàn tay gối sầu trên ngực
Và gió thu đầy trong mắt trăng

Tôi dối lòng tôi trăng sắp mờ
Trăng mờ em sẽ thấy bơ vơ
Sẽ thương cho những con đường cũ
Và nhớ bao nhiêu lối hẹn hò

Nhưng hẳn là em không nhớ đâu

Giấc mơ còn mát ánh trăng sầu
Hoa còn thơm tuổi đời trên má
M
ùi áo còn say muôn kiếp sau

Lòng nhớ lòng thương lòng ngại ngùng
Bây giờ tôi cách núi xa sông
Bài thơ từ thủa trăng mười sáu
Mười sáu trăng chờ em biết không

Tôi dối lòng tôi bao nhiêu lần
Bao nhiêu lần trăng vẫn là trăng
Lòng nhớ lòng thương lòng sắp khóc
Đê
m chưa tàn đâu đừng nói năng.

 

QUAND TU AVAIS SEIZE ANS

 

Donne-moi la moitié dun clair de lune,

Et lautomne entier dans tes yeux bruns.

Combien de feuilles sur trottoirs dantan

Mon cœur s’émeut en pensant à quelquun.

 

Nuits dindigo, lilas en fleur,

Le rêve embaumé dune douce heure.

Seize ans pour toi, seize ans la lune,

Robe de soie dans lancien vent dune dune.

 

Je mens à mon cœur quand la nuit décline,

Elle finit en gelant ton doux matin.

Ma main repose, chagrin sur la poitrine,

Et lautomne pleure dans les yeux du destin.

 

Je mens à mon cœur quand la lune pâlit,

Tu seras perdue, seule, dans loubli.

Tu pleureras les ruelles familières,

Et les rendez-vous damour, éphémères…

 

Mais sans doute tu ne te souviendras pas

Tes rêves sont pleins dun clair de lune las.

Tes joues parfument l’âge tendre et pur,

Et ton parfum vivra dans les temps futurs.

 

Cœur à cœur, timide et nostalgique,

Me voilà loin, par monts et fleuves antiques.

Ce poème né de ta lune seize fois claire,

Attend ton retour, sais-tu quil espère ?

 

Je mens à mon cœur mille et une fois,

Mais la lune est toujours la même, tu vois…

Cœur à cœur, tristesse sur les lèvres,

La nuit nest pas finietais-toi, ne dis guère.

 

 

WHEN YOU WERE SIXTEEN

 

Lend me half the moonlight in the skies,

And the autumns glow in your gentle eyes.

So many leaves on old streets fall,

Why does my heart remember it all?

 

A lilac night, a dreams perfume,

White blossoms lit the porch in bloom.

Sixteen your age, and the moon sixteen,

Silk sleeves fluttered in winds once seen.

 

I lie to myself as the night slips through,

It ends and leaves cold dreams of you.

My hand lies heavy upon my chest,

While autumn clouds fill moonlights nest.

 

I lie to myself as the moon turns thin,

Youll feel alone when dusk seeps in.

Youll mourn those paths where we once met,

And all the vows we cant forget.

 

But maybe you wont recall, not yet —

Your dreams still hold moonlights regret.

Your cheeks still bloom with youths bright flame,

Your scent may live through lifetimesname.

 

Heart to heart, with shy retreat,

Now Im afar where rivers meet.

This poem born of your moonlights glow

Still waits for you — do you even know?

 

I lie to myself time after time,

But the moon remains in silent rhyme.

Heart to heart, tears close behind —

The nights not over… speak not, be kind.