Trần Dạ Từ sinh năm 1940, tên thật là Lê Hạ Vĩnh, sinh ra tại Hải
Dương, miền Bắc Việt Nam. Ông là chồng của nhà văn, nhà thơ Nhã Ca (Trần Thị Thu
Vân). Ông di cư vào Nam năm 1954 khi đất nước bắt đầu chia cắt, định cư tại Sài
Gòn, nơi ông bắt đầu làm thơ và viết báo, trở thành một thi sĩ được yêu thích
trong giới văn nghệ miền Nam. Đầu thập niên 1960 ông cộng tác với Nguyên Sa làm
tờ Gió mới. Năm 1963 ông từng bị chính quyền Ngô Đình Diệm bắt giam vì bất đồng
chính kiến.
Sau ngày 30/4/1975 vợ chồng Trần Dạ Từ bị chính quyền bắt giữ vì
bị xem là “biệt kích văn hoá”. Ông bị giam cầm từ năm 1976 đến 1988.
Thời gian này ông cho ra đời hàng loạt bài thơ, nổi tiếng nhất là Hòn đá làm ra
lửa. Năm 1989, dưới sự bảo trợ đặc biệt của chính phủ Thuỵ Điển,
gia đình ông được sang Thuỵ Điển sinh sống, đến năm 1992 sang quận Cam, miền
Nam bang California, Hoa Kỳ. Tại đây cùng với Nhã Ca, ông xuất bản tờ Việt
báo.
- Thuở làm thơ yêu em (Sài Gòn, 1960)
- Tỏ tình trong đêm (Sài Gòn, 1965)
-
Nụ cười trăm năm (chưa xuất bản)
1. Nhà thơ của tình yêu và kháng cự
Trần Dạ Từ được biết đến như một nhà thơ tình sâu sắc, với giọng
thơ vừa nồng nàn vừa buốt giá. Những bài thơ tình của ông, như Thơ tình gửi một
người, mang âm điệu thiết tha, đầy hoài niệm, nhưng không bi lụy.
Bên cạnh đó, ông cũng là nhà thơ phản kháng, nhất là trong giai đoạn
sau năm 1975 khi ông bị cầm tù và sau đó lưu vong. Thơ ông thể hiện sự dũng cảm, thái độ kiên cường trước bạo lực và
đàn áp, nhưng vẫn giữ được vẻ đẹp trữ tình và nhân bản.
2. Giọng thơ đặc trưng,
giàu nhạc tính
Thơ Trần Dạ Từ mang phong cách tự nhiên, nhẹ nhàng, mà sâu xa,
giàu nhạc điệu và hình ảnh. Giới phê bình đánh giá ông có khả năng chuyển những
trải nghiệm cá nhân thành biểu tượng phổ quát, khiến người đọc dễ đồng cảm.
Ví dụ, bài thơ “Tháng Giêng trong núi”
không chỉ là một đêm cô đơn, mà là ẩn dụ cho thân phận lưu đầy,
cho cuộc sống bị chia lìa, cho nỗi nhớ quê nhà.
3. Đóng góp lớn cho văn học
hải ngoại
Sau khi rời Việt Nam, Trần Dạ Từ cùng vợ – nhà văn
Nhã Ca – sáng lập và điều hành Tạp chí Việt Báo, một
trong những diễn đàn văn chương lớn và nghiêm túc ở cộng đồng người Việt hải
ngoại.
Với vai trò này, ông không chỉ tiếp tục viết, mà còn nuôi dưỡng, bảo vệ và phát
triển đời sống văn học của người Việt xa xứ. Nhiều cây bút trẻ được ông dìu dắt
và cổ vũ.
4. Được kính trọng như một
nhân chứng thời đại
Việc ông từng bị tù cải tạo 12 năm sau 1975 và
sau đó viết về những trải nghiệm ấy không mang tinh thần hận thù, mà chan chứa
nhân đạo, khiến ông được kính trọng không chỉ như một thi sĩ, mà còn như một nhân
chứng lương tri.
Nhận định tiêu biểu:
• Nhà văn Nguyễn Hữu Nghĩa nhận định Trần Dạ Từ là “một trong những
nhà thơ tình xuất sắc nhất của nền thi ca Việt Nam hiện đại”.
• Nhà văn Mai Thảo từng viết:
“Thơ Trần Dạ Từ
có cái nhói đau của kẻ đi qua khổ nạn mà vẫn giữ nguyên hương vị của một nụ hôn đầu”.
Sau đây là một số bài thơ của Ông, kèm theo bản dịch tiếng Pháp
và tiếng Anh:
THỦA LÀM THƠ YÊU EM
Trời mưa chưa ướt áo
Hoa cúc vàng chân thềm
Gió mây lưng bờ dậu
Chiều sương đầy bốn phía
Lòng anh mấy cách xa
Tiếng đời đi rất nhẹ
Nhịp sầu lên thiết tha
Thủa làm thơ yêu em
Cả dòng sông thương nhớ
Cả vai cầu tay nghiêng
Tương tư trời thành phố
Anh đi rồi lại đến
Bài thơ không hết lời
Bao nhiêu lần hò hẹn
Sớm chiều sao xa xôi
Mười bảy năm chợt thức
Bây giờ là bao giờ
Bàn tay trên mái tóc
Nghìn sau còn bâng quơ.
QUAND J’ ÉCRIVAIS DES POÈMES EN T’AIMANT
Quand j’écrivais des vers en t’aimant,
La pluie tombait sans mouiller ma chemise
Des chrysanthèmes dorés au seuil charmant
Nuages et vent frôlaient la clôture grise.
Le soir tombait, brume aux quatre vents,
Mon cœur lointain, comme absent.
La vie passait, si doucement,
Le chagrin battait tendrement le temps.
Quand j’écrivais des vers pour t’aimer,
Tout un fleuve portait mes pensées.
Ponts en biais, regards penchés,
La ville noyée dans ses nuées.
Je venais, je repartais en silence
Le poème n’ en finissait jamais.
Rendez-vous innombrables
en absence
Matin, soir - si loin des feux d’hier
Dix-sept ans soudain se sont réveillés
Et maintenant, quel est ce délai ?
Ma main cherche encore tes cheveux,
Dans mille ans, ce geste reste brumeux…
WHEN I WROTE POEMS LOVING YOU
When I wrote poems loving you,
The rain had yet to soak us through.
Gold chrysanthemums by the stair,
Clouds and winds drifted everywhere.
Evening mist spread far and wide,
My heart kept distance deep inside.
Life walked by with silent feet,
While sorrow pulsed in tender beat.
When I wrote poems in your name,
A river flowed with wistful flame.
Leaning bridges, tilted grace,
The city dreamed in a cloudy haze.
I came and went, again, again—
The poem had too much to contain.
How many times we tried to meet,
Yet dawns and dusks missed every beat.
Seventeen years now reappear—
And now? What time is drawing near?
My hand still seeks your wind-swept hair—
A thousand years may find it there.
NỤ HÔN ĐẦU
Lần đầu ta ghé môi hôn
Những con ve nhỏ hết hồn kêu vang
Vườn xanh, cỏ biếc, trưa vàng
Nghìn cây phượng vỹ huy hoàng trổ bông.
Trên môi ta, vạn đoá hồng
Hôn em trời đất một lòng chứa chan
Tiếng cười đâu đó ròn tan
Nụ hôn ngày ấy miên man một đời
Hôm nay chợt nhớ thương người
Tiếng ve mùa cũ rụng rời vai anh
Trưa vàng, cỏ biếc, vườn xanh
Môi ai chín đỏ đầu cành phượng xưa.
PREMIER BAISER
La première fois que nos lèvres se frôlèrent,
Les cigales, surprises, crièrent en chœur.
Trêve d’été, gazon vert, midi en feu,
Les flamboyants fleuris dans les cieux
lumineux.
Sur mes lèvres, mille roses en fête,
Je t’embrassais – le monde s’arrêtait.
Quelque part, un rire éclata de joie,
Ce baiser d’antan m’habite, tout droit.
Aujourd’hui, un souvenir me revient :
Le cri des cigales tombe sur mon sein.
Midi doré, l’herbe tendre, jardin d’été,
Ta bouche mûrissait au bout du passé.
FIRST KISS
The first time I kissed your lips so shy,
Cicadas startled, sang loud from the sky.
Green grass below, noon bathed in gold,
Flamboyant trees a thousand blossoms hold.
On my lips, roses bloomed in delight,
One kiss held the earth, the stars, the light.
A burst of laughter rang clear and free,
That kiss still lingers inside of me.
Today I recall you, soft and near,
Old cicada songs fall on my ear.
Golden noon, green grass, summer’s grace—
Your ripened lips on the flame tree’s face.
BÀI RU
Mi sầu thôi khép đi em
Hồn anh rộng đã trăm miền không gian
Ngày vơi, cửa trống, thu tàn
Lá thưa cành nặng cây dàn quạnh hiu
Lối đi vừa chớm tiêu điều
Mùa nghiêng bóng nhỏ ngày xiêu cột dài
Phố chiều gió vọng bàn tay
Ru anh về với đôi ngày lãng quên.
BERCEUSE
Referme ta peine, dors, mon aimée,
Mon âme
est vaste de cent cieux partagés.
Le jour se vide, la porte est déserte,
L’automne s’éteint, les feuilles éparses pleurent.
Le sentier naît dans un souffle désert,
L’ombre des
saisons glisse au fil des heures.
Le vent du soir frôle la main
oubliée,
Et me berce aux jours d’oubli murmurés.
LULLABY
Close your sorrowed eyes, my dear,
My soul has spread through a hundred spheres.
The day runs dry, the doorway bare,
Autumn fades in leaves stripped and spare.
The path just touched by a lonely sigh,
The season tilts its shadowed sky.
Evening winds call through my hand,
To lull me back to forgetting’s land.
MỘNG ĐẦU
Hoa và trái một đêm nào thức
dậy,
Nghe mộng đời xao xuyến giấc xuân xanh.
Con đường đó một đêm
nào trở lại
Cùng gió mưa phùn trên cánh tay anh.
Hoa bỗng nở và trái sầu bỗng chín
Tim xa xưa còn đó chút trông chờ
Màu thơ dại vẫn tươi màu kỷ niệm,
Bóng cây nào ôm mãi mắt hư vô.
Tháng giêng đó, anh mỉm cười bước tới,
Khi yêu em tay cũng mở như lòng.
Môi thần thánh biết gì đâu tội lỗi,
Lối đi nào ngây ngất bước song song?
Anh sẽ nhắc trong những tàn phai ấy,
Đêm hoàng lan thơm đến ngọt vai mình,
Ai sẽ biểu trong một lần trở lại,
Hoàng lan xưa còn nức nở hồn anh.
Tháng giêng hết thôi giận hờn đã muộn,
Khi xa em, vai mới biết đau buồn,
Tơ gấm biếc nào nâng từng bước chậm
Trả giùm tôi về những dấu chân chim.
Hoa và trái đêm nay đây thức dậy
Ôi mộng đời em hiểu chữ xuân xanh
Con đường đó đêm này
đây trở lại;
Cùng gió mưa phùn buốt cánh tay anh...
PREMIER RÊVE
Fleurs et fruits, une nuit se sont levés,
Le rêve frémit d’un
printemps éveillé.
Ce même chemin revient à la volée,
Sous la pluie fine, ton bras s’est réchauffé.
La fleur s’ouvre, le fruit de peine mûrit,
Un vieux cœur bat d’attente infinie.
Les souvenirs gardent leur tendre éclat,
Un arbre embrasse des yeux sans tracas.
Ce janvier-là, je t’ai souri, confiant,
Aimant tes mains, mon cœur en s’ouvrant.
Les lèvres
saintes ignoraient le péché,
Deux pas troublés, sur la voie mêlée.
Je dirai tout, même au
creux du silence,
La nuit d’ylang au parfum d’innocence.
Qui m’a laissé, ce soir-là, revenir?
L’ylang d’antan pleure encore le soupir.
Janvier s’achève, trop tard pour les colères,
Loin de toi, l’épaule a goûté la misère.
Soie et velours ralentissent mes pas,
Ramène-moi
les empreintes d’autrefois.
Fleurs et fruits, en cette nuit s’éveillent,
Ô rêve
humain que ton printemps révèle.
Ce chemin-là, ce soir, me reconduit
Sous la bruine froide, vers ton bras
attendri.
FIRST DREAM
Flowers and fruit awoke one quiet night,
Dreams of spring stirred gently into light.
That same old path returned again to me,
With drizzling rain and your arm tenderly.
A bloom unfolded, and sorrow bore its fruit,
An ancient heart still waited, holding truth.
The hue of innocence still softly clings,
Beneath a tree that shadows distant things.
That January, I smiled and walked your way,
Loved with hands that opened like the day.
Your holy lips knew nothing yet of wrong,
Our steps in trance moved silently along.
I will recall, even as things fade away,
The ylang night that sweetened shoulder’s stay.
Who told me then I might return once more?
The ylang cries through my memory’s core.
Now January ends — and wrath comes too late,
Far from you, my shoulder felt the weight.
Blue silken threads slowed every wistful tread,
Return to me the steps that birds once led.
Flowers and fruit awaken here tonight,
You know the dream — that green spring’s light.
That path returns again beneath the rain,
And finds your arm — through mist and dream — again.
KHI EM
MƯỜI SÁU
Cho tôi xin nửa bóng trăng
ngoài
Với nửa mùa thu trong mắt ai
Lá rụng bao nhiêu hè phố cũ
Sao nghe lòng rưng rưng nhớ người
Đêm biếc cành soan, thơm giấc mơ
Đầu hiên hoa trắng nở bao giờ
Em mười sáu tuổi
trăng mười sáu
Áo lụa phơi buồn sân gió xưa
Tôi dối lòng tôi đêm sắp tàn
Đêm tàn để lạnh giấc mơ em
Để bàn tay gối sầu trên ngực
Và gió thu đầy trong mắt trăng
Tôi dối lòng tôi trăng sắp mờ
Trăng mờ em sẽ thấy bơ vơ
Sẽ thương cho những con đường cũ
Và nhớ bao nhiêu lối hẹn hò
Nhưng hẳn là em không nhớ đâu
Giấc mơ còn mát ánh trăng sầu
Hoa còn thơm tuổi đời trên má
Mùi áo còn say muôn kiếp sau
Lòng nhớ lòng thương lòng ngại ngùng
Bây giờ tôi cách núi xa sông
Bài thơ từ thủa trăng mười sáu
Mười sáu trăng chờ em biết không
Tôi dối lòng tôi bao nhiêu lần
Bao nhiêu lần trăng vẫn là trăng
Lòng nhớ lòng thương lòng sắp khóc
Đêm chưa tàn đâu đừng nói năng.
QUAND TU AVAIS SEIZE ANS
Donne-moi la moitié d’un clair
de lune,
Et l’automne entier dans tes yeux bruns.
Combien de feuilles sur trottoirs d’antan —
Mon cœur s’émeut en pensant à quelqu’un.
Nuits d’indigo, lilas en fleur,
Le rêve embaumé d’une douce heure.
Seize ans pour toi, seize ans la lune,
Robe de soie dans l’ancien vent d’une dune.
Je mens à mon cœur quand la nuit décline,
Elle finit en gelant ton doux matin.
Ma main repose, chagrin sur la poitrine,
Et l’automne pleure dans les yeux du destin.
Je mens à mon cœur quand la lune pâlit,
Tu seras perdue, seule, dans l’oubli.
Tu pleureras les ruelles familières,
Et les rendez-vous d’amour, éphémères…
Mais sans doute tu ne te souviendras pas —
Tes rêves sont pleins d’un clair de lune las.
Tes joues parfument l’âge tendre et pur,
Et ton parfum vivra dans les temps futurs.
Cœur à cœur,
timide et nostalgique,
Me voilà loin, par monts et fleuves antiques.
Ce poème né de ta lune seize fois claire,
Attend ton retour, sais-tu qu’il espère ?
Je mens à mon cœur mille et une fois,
Mais la lune est toujours la même, tu vois…
Cœur à cœur,
tristesse sur les lèvres,
La nuit n’est pas finie… tais-toi, ne dis guère.
WHEN YOU WERE SIXTEEN
Lend me half the moonlight in the skies,
And the autumn’s glow in your gentle eyes.
So many leaves on old streets fall,
Why does my heart remember it all?
A lilac night, a dream’s
perfume,
White blossoms lit the porch in bloom.
Sixteen your age, and the moon sixteen,
Silk sleeves fluttered in winds once seen.
I lie to myself as the night slips through,
It ends and leaves cold dreams of you.
My hand lies heavy upon my chest,
While autumn clouds fill moonlight’s nest.
I lie to myself as the moon turns thin,
You’ll feel alone when dusk seeps
in.
You’ll mourn those paths where we
once met,
And all the vows we can’t forget.
But maybe you won’t recall, not yet —
Your dreams still hold moonlight’s regret.
Your cheeks still bloom with youth’s bright
flame,
Your scent may live through lifetimes’ name.
Heart to heart, with shy retreat,
Now I’m afar where rivers meet.
This poem born of your moonlight’s glow
Still waits for you — do you even know?
I lie to myself time after time,
But the moon remains in silent rhyme.
Heart to heart, tears close behind —
The night’s not over… speak not, be kind.