DOÃN QUỐC SỸ thời hải ngoại
Nguyễn
Vy Khanh
Doãn Quốc Sỹ
lấy tên thật làm bút hiệu. Ông sinh ngày 17-02-1923 (Quí Hợi) tại xã Hạ Yên
Quyết, huyện Từ Liêm, Hà Đông, ngoại thành Hà Nội. Di cư vào Nam sau Hiệp định
Genève năm 1954, ông chủ trương và làm chủ-nhiệm tờ Người Việt (1955)
của Đoàn Sinh viên Hà-Nội Di cư - nhóm chống chủ nghĩa cộng-sản, thay vào đó là
chủ trương dân-tộc tự quyết, tự sinh tồn, diễn dịch qua văn thơ trên báo. Năm
sau đó ông sinh hoạt văn học với nhóm tạp chí Sáng Tạo. Ông cũng đã có
mặt trên hầu hết tạp chí văn-học nghệ-thuật chính của văn-học miền Nam tự do
1954-1975. Ông lập nhà xuất bản Sáng
Tạo và đã xuất bản phần lớn tác phẩm truyện, tiểu thuyết, kịch và truyện
cổ, huyền thoại, truyện thiếu nhi cũng như những nghị luận về văn học, ngữ
pháp, giáo dục và sư phạm. Ông dạy
học tại các trường trung học, trường Sư phạm Sài Gòn, Đại học Sư Phạm và Đại
học Văn Khoa Sài Gòn.
Sau biến cố
chính-trị tháng 4-1975, kẻ "chiến thắng" đã tung nhiều chiến dịch
nhằm bôi xóa văn-hoá tự do và nhân bản của miền Nam cũng như muốn cùm nhốt lý
trí và thân xác con người làm văn-hoá và nghệ-thuật; phần lớn các nhà văn miền
Nam bị bắt đi học tập cải tạo. Doãn Quốc Sỹ đã bị Cộng sản Hà-nội liệt vào số
những tên “biệt kích văn hoá tư tưởng” nguy hiểm cho chế độ và ông bị giam tại
trại Gia Trung (Pleiku) từ 1976 đến 1980, ông được thả tự do nhờ sự can thiệp
của nhiều tổ chức quốc tế. Trong thời gian sau đó, ông tiếp tục viết và truyện dài Đi! được gửi sang Pháp để nhà Lá Bối khởi dựng lại ở Paris in năm
1982 tại hải ngoại, và ký Hồ Khanh (“hành khô”) như một thách đố và bằng chứng
cho việc độc tài tư tưởng và chính-trị cũng không kiềm chế được tâm trí con
người nhất là con người nghệ thuật. Chính vì lý do này, ông đã bị bắt lần thứ
hai vào tháng 5 năm 1984 (“vụ án con Rùa”, ca sĩ Duy Trác, nhà báo Dương Hùng
Cường, hai nhà văn Hoàng Hải Thủy và Lý Thụy Ý), lần này ngày 27-4-1988, “Tòa
án Nhân dân” thành phố HCM kết án ông mười năm tù và mãn hạn tù tháng 11 năm
1991. Doãn Quốc Sỹ bị tổng cộng gần 12 năm tù và bị bủa vây, rình rập cho đến
tháng 2-1995, ông được con trai bảo lãnh sang Houston, Hoa Kỳ. Tại đây, ông làm
cố vấn cho Văn đàn Đồng Tâm của Tạ Xuân Thạc và đã xuất bản các tuyển tập thơ
văn Đồng Tâm (số 1, 2005 - số 17, 2014) và “sách kỷ niệm” chủ đích vinh
danh các nhà văn-hoá, văn-học và văn-nghệ. Cuối đời, ông sống tại Quận Cam, California. Ông mất tại đây ngày 14-10-2025, hưởng thọ
103 tuổi.
Tác
phẩm đã xuất bản ở hải ngoại: Đi!
(Truyện dài, Paris: Lá Bối, 1982) - Mình
Lại Soi Mình (tiểu thuyết; Westminster CA: Văn Nghệ, 1995) - Người Vái Tứ Phương (tiểu thuyết, Văn
Nghệ, 1995) - Dấu Chân Cát Xóa (tiểu
thuyết, Văn Nghệ, 1995) - Cò Đùm (tập
truyện, Văn Nghệ, 1997). Trong
số sách tái bản ở ngoài nước, ghi nhận Preserving
Values / Gìn Vàng Giữ Ngọc (Sáng Tạo, 2024) do con cháu dịch thuật, sách
dịch Con Kỳ Lân Cuối Cùng (dịch và giới thiệu-đã xuất bản năm 1973, phụ trương Con Mèo Nhập Niết Bàn
1969; Sáng Tạo, 2020), … (1)
Trong Đi! gửi xuất-bản ở hải-ngoại (1982, và ký Hồ Khanh; Doãn Quốc Sỹ cho tái bản năm 1997), chứng tích của một giai đoạn bi đát của
đất nước và con người. Nhân-vật ông giáo bị đây xuống vực sâu đày đọa của người
đối với người, của nhồi sọ, có lúc tưởng đã mất hết tin tưởng, cũng đã tìm lại
yêu thương và tình người từ những đứa bé miền núi hẻo lánh. Nhân vật “Bà nội
bảy mươi bảy tuổi chẳng bao giờ ngờ chuyến đi từ Hà Nội vô Sài Gòn này lại chỉ
để chứng kiến đám con cháu nội ngoại trong Nam ra đi gần trọn ổ. Thật buồn!
Nhưng qua kinh nghiệm và cảm nghĩ bản thân, cụ cũng thấy rằng điều đó chẳng thể
tránh được (…) Hạnh phúc
mẹ gặp con, bà gặp cháu của một đại gia đình thương yêu hoà thuận thực không
bút nào tả xiết. Vậy mà cụ có ngờ đâu chỉ sau đó ít lâu cụ chứng kiến cảnh
chúng nó ra đi dần, có đứa bị bắt giữ rồi được thả, rồi lại ra đi nữa.
“Đừng đòi hỏi tuyệt đối, người thánh thiện
đến đâu cũng có điểm bất toàn, gia đình hạnh phúc đến đâu cũng có điểm đen bất
toàn.” Ấy giá là nhà hiền triết thì tự an ủi như vậy, nhưng cụ tâm Phật, cụ chỉ
biết niệm Phật, tin Phật, thương và yêu tất cả mọi người. Cụ tin như hai với
hai là bốn là cụ, con cháu cụ và tất cả những người tốt trên thế gian đều được
trời Phật phù hộ dù gặp nghịch cảnh nào đi nữa. Và ở nghịch cảnh nào cụ cũng
tìm ra được khía cạnh tốt đẹp để vui với nghịch cảnh đó, hoặc đương nhiên coi
nghịch cảnh đó không còn nghịch cảnh chút nào nữa.”.
Sau ngày "giải phóng" 30-4-1975, kẻ
"chiến thắng" đã được dịp nhận chân sự thực về xã-hội miền Nam; nhưng
đã trễ, bánh xe lịch-sử đã chuyển vần. Sống trong một chế độ chuyên chính thì
nhận chân phải tự phủ nhận, thất vọng phải ngậm câm, chỉ có người miền Nam - kẻ
"thua" nhưng quen sống tự do dân-chủ, mới dám nói thay kẻ
"thắng": "Tao nói thực với mày, nhìn vào đời sống thực tế rõ
rang ngày một xuống dốc rất nhanh, nghe những lời hoa mỹ nơi đài phát thanh,
đọc những lời hoa mỹ trên khắp các mặt báo, tao có cảm tưởng chứng kiến cảnh
một thằng chủ bất lực vì củ đinh thiên pháo đương hãm hiếp một cô gái thất thế
bằng cái lõi ngô hay củ khoa gì đó, trong khi đám đàn em của nó ôm đàn cất cao
giọng đồng thanh ca ngợi chủ soái chúng đương ân ái với Hằng Nga và sẽ hạ sinh
những hoàng tử kiêu hùng, những công chúa chim sa cá lặng. Đ. M. đúng là thủ
dâm bằng mồm" (tr. 165).
Dấu Chân Cát Xóa (1995)
truyện dài viết năm 1974 chưa kịp xuất-bản thì xảy ra biến cố 30-4-1975, nhà
Văn-Nghệ ở California in năm 1995. Một tiểu-thuyết ngắn về những hành hương trí
thức "dấu chân cát xóa" của hai thanh niên trên đất Mỹ, về tình-yêu
lãng mạn, lý tưởng hào hùng và Chân Thiện Mỹ trong một không gian của tâm linh
và đạo người Á-đông, Việt Nam. Đất nước Hoa-Kỳ mênh mang thiên-địa-nhân đem lại
một chiều kích mới cho cuộc kiếm tìm mà tác-giả đã khởi từ thập niên 1950.
Nhân vật Chương sau những chuyến đi và khám phá ở nhiều vùng khí hậu và đời
sống khác nhau như Louisana, Nevada, … chàng còn muốn ghé Alaska: “ … Đã
từng thưởng thức cái nóng lục địa Nevada, Chương muốn thưởng thức
thêm cái lạnh miền kế cận Bắc cực này. Đây cũng là một cá tính
đặc biệt của Chương: ưa tận tình thưởng thức những đối cực!
Còn thêm hình ảnh những dấu chân cát
xóa nữa chứ! Những dấu chân cát xóa! Chẳng hiểu vì sao tự nhiên hình ảnh và
ý nghĩ về những dấu chân cát xóa lại chợt đến ám ảnh chàng vào lúc này! Cũng là
một cách ùa nhập vào hư vô chứ sao! Ùa nhập vào hư vô, không phải để chạy trốn
mà để hoá giải mọi nóng bỏng, mọi bất quân bình của thế thái nhân tình!...” (bản
2018, doanquocsy.com, tr. 63).
Nơi đây Chương gặp một cựu trung úy Biệt
động quân người Việt có vợ Mỹ đang theo một giáo phái và đi làm việc thiện
nguyện; họ trở nên tâm đắc, để rồi khi chia tay “trong cái vô cùng vô
tận của thời gian, không gian, họ và Chương há chẳng vẫn thường
xuyên gặp nhau đó sao!” (tr. 78).
Người Vái Tứ Phương
(1995) viết năm 1982 khi còn ở trong nước, về con người và đời sống ở miền Nam
sau biến cố 30-4-1975, viết trong khi ông đang bị kẻ “thắng” tàn-độc đọa đày.
Nhưng tác-giả, một nạn nhân, vẫn đôn hậu, không hận thù khi nhìn cuộc đời,
xã-hội và đời sống trong các trại gọi là "cải tạo" và ở miền Nam sau
1975. Dăm nghi vấn cực chẳng đã như trong lớp "cải tạo" đã phải hỏi
cán bộ rằng “Đất nước ta bị một ngàn năm đô hộ bởi thằng Tàu, một trăm năm đô
hộ bởi thằng Tây, dân chúng bao giờ cũng bám vào quê hương mà chiến đấu. Sao
vào dịp này thống nhất, khẩu hiệu “không gì quí hơn độc lập tự do” được nêu
cao khắp nơi, mà lại cả triệu người đủ nam phụ lão ấu đua nhau bỏ nước ra đi,
bất chấp tù đày, bảo biển, cướp biển giết chóc, hãm hiếp? Rõ ràng phong trào
vượt biên lan rộng quyến rũ cả miền Bắc, căn cứ địa của xã hội chủ nghĩa. Còn
trong Nam, thiếu gì trường hợp cán bộ cao cấp, mấy chục tuổi đảng hoặc con cán
bộ cao cấp cũng vượt biên sang tị nạn bên thế giới tư bản. Như vậy giới lãnh
đạo có nên cứu xét kỹ mọi nguyên nhân hậu quả của sự kiện lịch sử này chăng?"
(tr. 46-47).
Viên trung tá công an trong “tiểu thuyết” này
hồi tâm, nhờ nhân-vật giáo sư Hoàn, đã ra bùng binh ngã sáu Sài-Gòn giờ giới
nghiêm để lập vái tứ phương để mong gặp lành tránh dữ và trừng phạt, "khi
vái tứ phương cử chỉ phải thực chững chạc, thân hình thẳng vút như cây tùng
chứng tỏ lòng thành khẩn của mình bộc trực với trời đất. Tiểu vũ trụ là mình
với đại vũ trụ đồng nhất thể, mình nguyện với trời đất là mình nguyện với chính
mình đó thôi!" (tr. 64). Không những một, mà nhiều anh "nườm
nượp" đến tìm giáo sư để được "gặp lành tránh ác". Ông giáo sư
Hoàn ở đây chỉ làm công việc "đánh thức nhân tính". “Thế giới này
là nơi cộng đồng trách nhiệm mà. Khi cái Đẹp, cái Thiện đã được khơi nguồn,
thắp sáng, người ta dễ bề mở rộng cái tôi cá biệt đi vào cái ta hoà đồng”
(tr. 33).
Lời nói trên đã đánh thức nhân vật “tôi” “...Bất
kỳ hành động thiện, hành động đẹp nào của bất kỳ ai đều có khả năng màu nhiệm
bảo vệ giá trị sản nghiệp tinh thần của cả nhân loại. Hình ảnh những con đường
có thể gợi nơi ta những lang thang vô vọng, nhưng cũng có thể gợi hình ảnh quê
hương, tổ ấm, mái nhà quen thuộc, nơi được an ủi nghỉ ngơi...” (tr. 34)
Người giáo sư của miền Nam tên Hoàn đã hành
cử như một ông thánh: dùng hiểu biết, bao dung để cải hoá – để người khác tự
cải hoá. Không một mảy may hận thù, nhỏ nhen. Nhân vật “tôi” cũng vậy, đã đi
đến những chiêm nghiệm cao thượng, đầy nhân bản: “Sự tốt lành có bao giờ mất
đâu! Từng tư tưởng, từng lời nói, từng hành động, nhất thiết sẽ dội lại khởi
điểm! Tôi giữ cho những lời đó vang vọng thành lời nhắn nhủ, một điểm tựa tinh
thần” (tr. 67).
Nhưng anh ta cũng muốn chính mắt mình quan
sát cảnh anh trung tá công an lập đàn vái tứ phương: “Đúng lúc tâm trạng tôi
thật bâng khuâng, chập chờn, bất định thì “người vái tứ phương” xuất hiện y hệt
như tôi vẫn hình dung trong trí. Tâm trạng tôi lúc đó sỡ dĩ bâng khuâng chập
chờn, vì cùng một lúc, ôn chập lại trong trí tất cả câu chuyện và hình ảnh viên
Trung tá Công an từ thuở bắt đầu; y bị giáo sư Hoàn chinh phục ngay trong câu
chuyện; y trầm lặng nhưng lo âu tới tìm gặp giáo sư Hoàn tại nhà. Và hình ảnh y
vừa xuất hiện ngay lúc đó từ ngả Ngô Tùng Châu. Các ngả đường vắng tanh. Cả
vùng bùng binh nhuốm ánh đèn vàng, lành lạnh sương khuya. Đỉnh trời, một cụm
mây trắng như bông nõn đứng nguyên bất động. Trăng rằm tròn vành vạnh ngay gần
đấy, và bên trên lùm cây thẫm đen xế vườn Tao Đàn, một vì sao lấp lánh như cũng
muốn tò mò chứng kiến. Thoạt thấy bóng người xuất hiện từ ngã Ngô Tùng Châu,
tôi còn ngỡ ngàng. Khi thấy người đó bước tới gần tượng Phù Đổng Thiên Vương
thì tôi biết chắc là y rồi. Y cúi xuống đặt một cái gì trên bệ tượng, cái gì đó
là nải chuối. Y bật hộp quẹt máy, ánh lửa bập bùng lay động. Y đương châm
nhang! Phút chốc một đốm lửa lớn hơn như vừa nở ra rồi bị thổi tắt ngay chỉ còn
những đốm nhang đỏ rực. Những đốm nhang đỏ lung lay cao thấp theo nhịp y đứng
thẳng người và tuần tự vái bốn phương, thoạt hướng về phía chợ Bến Thành, rồi
hướng về đường Gia Long, rồi theo đường Lê Văn Duyệt hướng về phía Chí Hoà, sau
cùng hướng về đường Võ Tánh (có tôi đương nép lẩn trong hẻm khuất). Chính lúc
đó, ở vị trí tôi đứng, tôi nhìn thấy y rõ hơn: như một bông hồng nở cheo leo
trên bờ vực thẳm! Tôi thật bằng lòng thấy y đứng thẳng, hai tay cầm nhang vái
rất đàng hoàng theo đúng lời dạy của giáo sư Hoàn – cách vái chỉ để chứng tỏ
với siêu hình tấm lòng thành khẩn và ngay thẳng của mình.
Nhưng
cũng cùng lúc đó tôi còn mang một cảm giác kỳ lạ: bóng y vái tứ phương dưới
vùng trăng khuya, trong ánh đèn khuya, với ngôi sao sáng xế vòm cây, bỗng như
đi vào vĩnh cửu. Rồi đây hàng trăm năm nữa qua đi, hãy tưởng tượng nơi này trở
thành hoang phế, vào những đêm tối trời không trăng sao, người ta có thể thấy
bóng ma viên Trung tá Công an hiển hiện thành khẩn vái tứ phương như vậy, rồi
biến vào hư vô.
Dĩ
nhiên tôi không đợi đến lúc tàn nhang, viên công an xách nải chuối về. Khi y
tạm đứng khuất đâu đấy; khoảng đường Ngô Tùng Châu, đợi hết tuần nhang, tôi dắt
nhẹ xe đạp ra đường Võ Tánh và đạp ngược trở về.
Một bông hồng nở cheo leo trên bờ vực thẳm!
Tôi ôn lại hình ảnh này trên đường về, nhưng cũng chưa kiểm soát xem sự liên
tưởng đó bi quan hay lạc quan? Hay bi quan tới mức nào, lạc quan tới mức nào?
Tới hẻm nhà, tôi xuống xe vì hẻm quá ghồ ghề
và tối thui. Hẻm sâu hun hút chìm trong tĩnh lặng khuya khoắt. Tôi dừng lại
trước nhà, chưa muốn gõ cửa để bà xã nghe thấy ra mở cho vô. Tôi còn đứng lặng
đó, đưa mắt nhìn sang căn nhà đối diện. Bên trong hoàn toàn tối đen, sự tĩnh
lặng càng như ôm nặng niềm bí ẩn nào.
Tội
nghiệp! Những âu lo nặng nề của một hiện tại đầy bất trắc đã có lần làm người
vợ trẻ sợ tình yêu của chồng như chạm phải lửa bỏng:
“Tôi đã bảo không bằng lòng là không bằng
lòng. Má ơi, Má!”” (tr.
101-103)
Tập Mình Lại Soi Mình (1995) viết tại
Sài-Gòn cuối năm 1981 đầu 1982, tiếp nối chuyện va chạm sống chung sau 1975 và
cuộc vượt thoát của nhân vật Phượng. Không khí vượt biên phủ trùm thiên tiểu
thuyết – như giai thoại hai người bạn tình cờ gặp nhau đối đáp thành thơ trong
Thay Lời Tựa:
“(1984): Lúa Thủ Thiêm ngọn chìm, ngọn nổi
Gió xa lộ lúc thổi, lúc ngừng
Gặp nhau tay bắt mặt mừng
Vui thì vui vậy, biết chừng nào xa.
(1980): Đỉnh trời vằng vặc gương nga
Long lanh soi tỏ lòng ta, lòng mình
Gương trong mình lại soi mình
Thấy tình thăm thẳm, thấy hình phù du
Nẻo đời gió bụi kì khu
Biết ai còn mất, tình thu võ vàng”
Qua nhân vật Phượng, tác giả đã viết lại
nguồn cơn lịch sử và chiến tranh đưa đến ngày 30-4-1975, qua hai ba thế hệ của
một gia đình. Vai trò và kinh nghiệm của nhà văn cũng được ông quan tâm:
“Nhà văn,
họ thấy trước và thấy nhiều nên họ đau trước và đau nhiều niềm đau của thời
đại. Bây giờ thì Phượng hiểu điều này thấm thía qua niềm đau của chính mình và
của người thân.
Đã có
một nhà thơ được Cộng sản thả về hôm trước, hôm sau chết. Chúng chỉ thả về để
chết – điều này không ngoa.
Có tin
một nhà văn khác tuyệt thực ở trại lao động cải tạo để phản đối. Tất cả những
gì Cộng sản đã được hưởng dễ dàng tự nhiên để tranh đấu bên thế giới tự do đều
biến thành những thứ tối kị dưới chính quyền của chúng. Hơn ai hết, chúng – chủ
trương độc tài, ngu dân, bần cùng hoá – hiểu mối nguy chí tử của trí tuệ, của
tự do và của tình người. Bởi vậy, nhà văn có tuyệt thực thì dưới ánh sáng văn
hoá Hồ Chí Minh – tức văn hoá Cộng sản Việt Nam – từ ngữ đương thới đã được
chấp nhận từ Bắc chí Nam – họ bắt tuyệt ẩm luôn. Nhịn ăn có thể kéo dài một
tháng, thêm nhịn uống là có ngay được ngọn lửa địa ngục cào xé hãi hùng thiêu
cháy cổ, thiêu cháy tim gan ruột phổi, thiêu cháy não bộ, sau cùng thiêu rụi
thần kinh, thiêu rụi tâm trí. Nếu kẻ tranh đấu không đầu hàng trong tủi nhục –
dù chỉ bề ngoài – thì chỉ cần một tuần là cùng, Cộng sản rũ bỏ được trách nhiệm
trực tiếp xử tử người đối lập. Một nhà văn kiêm chính khách được trở về nhà,
nhưng chưa kịp về tới nhà mắt còn mở nhưng tắt hơi ở dọc đường. Một nhà văn kiêm
bác sĩ cao lớn như Tây, hiền như bụt, bị kiết lị được chở về nhà thương Chợ
Rẫy, tới nơi đã hoàn toàn hôn mê không còn nhận ra vợ con nữa. Chết.
Nhưng không hiểu sao tất cả những bất hạnh đó
không hề làm Phượng nao núng bi quan về số phận ông nhà văn. Không hiểu sao!
Giác quan thứ sáu đặc biệt bén nhạy của Phượng đã vươn thành thiên địa chi tâm, thành tiên
tri, tiên giác biết trước số phận vượt hiểm nguy của người mà mình hết
lòng quý mến chăng?...”.
Cũng như những chuyện “học tập, cải tạo” mà
tác giả từng trãi qua cũng như chuyện vượt biên mà nhiều thành viên của chính
gia đình ông đã trải qua. Cuối cùng, Phượng cũng vượt biển thành công, được
nước Pháp nhận tị nạn, nhưng cuộc sống ban đầu nơi xứ người dĩ nhiên không như
mộng tưởng:
“Chìm ngập trong sầu não mờ mịt, Phượng
thu nhận toàn những chuyện buồn để tự vùi dập tâm hồn hơn nữa. Phượng thấy
những người Việt lưu vong như những kẻ lưu đày không hẹn ngày về, dấn thân vào
một kiếp sống quá vất vả, hoàn toàn nô lệ thời gian, sáng đi làm từ sáu giờ đến
năm giờ chiều mới về, xúm vào làm bếp, ăn sấp, ăn ngửa, dọn dẹp cửa nhà, chưa
kịp chuyện trò, hỏi han con cái đã phải tính chuyện đi ngủ để ngày mai còn đủ
sức làm việc. Nếp đạo đức dân tộc dần dần mất mát đi nhiều; vợ chồng dễ hết tình,
cạn nghĩa ly dị nhau; con cái tới tuổi trưởng thành đi ở riêng biệt lập; trước
sau rồi cũng bị đồng hoá vào nếp sống cá nhân Tây phương. Có một tín đồ tìm tới
ông Cha nhà Dòng xin Cha làm lễ cầu Chúa cho sớm được chết, khỏi phải trông
thấy những cảnh hỗn loạn vô luân. Từ Na Uy, qua Thụy Điển, đến Đan Mạch, thỉnh
thoảng tại những hang cùng ngõ hẻm nào đó cũng gặp những người tóc đen là những
người Tàu hay người Việt Nam bật gốc. Tại mấy làng đánh cá xa xôi nơi Bắc cực
quanh năm trời mù mịt tối, cũng gặp những trẻ Việt không nói được tiếng Việt,
và những người đồng hương ngao ngán thở dài hướng về tương lai, trở về cố
hương. Nỗi lòng u uất của Phượng bắt ngay lấy những lời đay nghiến của một kiều
bào khác thống trách một số người Việt tị nạn khi có đời sống tương đối thoải
mái với đủ các loại máy giặt, máy hút bụi, máy rửa chén, xe hơi… bắt đầu ưa nói
xấu, chỉ trích, chia rẽ nhau; hợm hĩnh, lố lăng với những kiến thức, những văn
bằng… Thà cứ như một số khác sống im lặng, nhấm nháp đắng cay, đỡ gây ác cảm với
những người bản xứ...”.
Sau cùng và thuộc vào sáng-tác trước biến cố
30-4-1975 nhưng xuất-bản trễ còn có truyện ngắn trong tập cùng tựa Cò
Đùm (1997) tiếp tục cuộc kiếm tìm con người Việt Nam, tập gồm những
chiêm nghiệm về chiến tranh vừa qua, về những biến cố lịch sử khác. Nông nhân
luôn là nạn nhân trong cuộc chiến giai cấp và khi mà kẻ trí thức có vấn-đề, chỉ
là thứ trí thức "ma trơi, cò mồi", một thứ "vong bản" vì đã
đánh mất gốc thuần phác nông dân của người nhà quê. Nhất là trong những cuộc
nội chiến, người nhà nông là lớp người đau khổ và thiệt thòi nhiều nhất, như
nhân-vật Cò Đùm "tượng trưng cho tâm hồn điển hình nhất của quảng đại
quần chúng Việt Nam vùng thôn dã. Một tâm hồn bén nhạy, tuyệt luân khôn ngoan
mà không biết rằng mình khôn ngoan, đôn hậu mà không biết mình đôn hậu. Đầu đội
trời, chân đạp đất, đi đứng vững chãi bằng cả con người, cảm xúc và phản ứng
bằng cả con người, và cực kỳ bén nhạy, cực kỳ chu đáo, cực kỳ sáng suốt, để tự
bảo tồn và cũng có nghĩa là bảo tồn dòng giống quê hương. Cái trực giác của Cò
Đùm vượt hẳn hoàn cảnh bủa trùm lấy thời gian hiện tại, bởi vậy Cò Đùm mới thấy
trước cả tôi nữa, rằng tôi sẽ vào thành ngay lần đó cùng với gia đình. Bây giờ
tìm hiểu Cò Đùm, chúng ta cũng phải thể nhập vào dòng cảm thức toàn diện của Cò
Đùm, đừng chỉ nhìn, chỉ hiểu bằng lý trí. Tôi nghĩ Cò Đùm học tiếng Pháp một
mặt để phản đối chơi đường lối của Đảng, nhưng cũng với một trực giác mẫn nhuệ
tuyệt luân, Cò Đùm– đại diện kết tinh của người Việt cơ bản Đông phương vào
thời đó – đã thấy rằng phải du nhập nốt thật chu đáo yếu tố văn hoá Tây phương
nữa mới chiếm vững được một thế đứng dưới ánh mặt trời. Chính thái độ thành
khẩn thiết tha của Cò Đùm muốn gửi tôi mang về thành thằng con trưởng cũng là
một biến thái của dòng trực giác mẫn nhuệ đó”.
Cò Đùm “đã phủ nhận chính sách Đảng và Bác
ngay từ ngày đó, có nghĩa là chính sách Đảng và Bác đã thất bại ngay trong lòng
anh từ ngày đó, anh có gì phải tiếc nuối đâu! Anh nên nhớ trực giác thuần hậu
bén nhạy của Cò Đùm, đại diện cho phần tinh túy của người nông dân Việt, bao
trùm cả không gian thời gian, phẳng lì không vết cắt hiện tại với tương lai. Kể
từ ngày quốc gia thành nền tảng từ đời Lý đến nay, chúng ta cứ diệt xong ngoại
xâm thì anh em lại cấu xé nhau – đó cũng là một nét xấu dân tộc tính đấy – sở
dĩ chúng ta còn giữ được nước chính là nhờ phần trực giác mẫn nhuệ kia, mà đại
diện điển hình là Cò Đùm. Cò Đùm thụ giáo Pháp văn tôi, vinh hạnh về phần tôi,
không phải về phần Cò Đùm. Bây giờ thì Cò Đùm trở lại thành tấm gương vằng vặc
hơn bao giờ hết để tôi soi vào – tôi sẽ luôn luôn soi vào – kiểm soát chính
tôi.." (tr. 52, 54).
Tác giả để các nhân vật suy luận xa hơn: “Nước
là dân, dân là nước, không những là không gian mà còn là thời gian, không những
là ý thức mà còn là tiềm thức, ai mà bán nổi?! ̣(...) Chỉ những kẻ thuộc cấp
lãnh đạo quốc gia, những thành phần trí thức ở mọi lãnh vực khả năng mới đủ
phương thế nói có. Nhưng chừng nào những phần tử trí thức lãnh đạo để mất phần
“Cò Đùm cơ bản” nơi họ, thì bất quá họ cũng chỉ là những anh trí thức ma trơi,
lũ nói tiếng Anh, tiếng Pháp… cò mồi!”.
Nhà văn Doãn Quốc Sỹ qua hơn 50 năm sinh hoạt
chữ nghĩa, từ thập niên 1950 đến những năm đầu thế kỷ
XXI đã mang hình ảnh một kẻ sĩ, một nhà giáo, với tâm hồn đôn hậu, chân thành.
Tác phẩm của ông nhìn chung tình ý nhẹ nhàng, hướng thượng trong một hình thức
nhà trường, không chuộng cách tân. Cái ác
của quá-khứ ai cũng mong không có chỗ đứng mai sau, nhưng cái ác vốn không tự
hủy, không tàn lụi, nếu con người không ý thức và ra tay! Tác-phẩm của Doãn
Quốc Sỹ đã ra tay! Viết như một người có lý tưởng và như một nhà giáo, đầy lòng
nhân hậu, kiên nhẫn, nhưng ông giáo cũng chờ đợi ở những cải đổi và ở chân
thiện mỹ! Sau 1975, tác phẩm của ông có khuynh hướng
kiểm điểm và tự kiểm điểm, nhìn lại quá khứ và với cái nhìn suy tư của kẻ thua
thiệt nhưng vẫn tin ở sứ mạng của mình, của một truyền thống đã tin tưởng là
tốt, là nhân bản, ít ra là trung dung. Đi trước những Đỗ Thúc Vịnh (Hoàng
Hôn Tùy Bút, 1991, Nỗi Ám Ảnh Của Quê Hương, 1996), Đinh Văn Ngọc (Hai
Mươi Năm Thăng Trầm, 1993), Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh (Những Mùa Xuân
Trở Lại, 1999), Nguyễn Gia Kiểng (Tổ-Quốc Ăn-Năn, 2000), v.v. Doãn
Quốc Sỹ khi còn ở trong nước cũng đã viết Mình Lại Soi Mình, Người Vái Tứ Phương và Cò Đùm
trong cùng mục đích kiểm điểm và tự kiểm điểm từ biến cố 30-4-1975, một việc
làm trí thức và tâm tình cần thiết cho một nhân tâm đã thất tán và lịch sử đã
sang trang!
Chú-thích
1- Từ những năm 2017-2018,
gia-đình tác-giả đã đưa lên mạng internet các tác-phẩm của ông cũng như tái bản sách giấy, ghi NXB là Sáng Tạo (doanquocsy.com) về sau ghi NXB Doãn Gia.
[Văn-học
Việt-Nam 50 Năm Hải ngoại. Q. Trung, 2025, tr. 104-114]