MỘT LÂN ĐI QUA SÔNG THẠCH
HÃN
TT-Thái An
Khoảng tháng Giêng Tây năm
2014 tôi về Việt Nam.  Lần nào về
tôi cũng đến Sài Gòn trước. Ở Sài Gòn vài ngày với anh chị họ,
rồi bay ra Hà Nội thăm gia đình của hai cậu và dì. Họ là các em họ
rất gần của mẹ và họ rất quý tôi. 
Lần nào về Hà Nội, tôi
cũng ở nhà cậu hoặc dì.  Và lần
nào cậu K cũng bỏ tiền thuê xe chở tôi và dì Loan, cùng một cô em họ
của tôi tên Tiên (con gái của em họ, con chú con bác với mẹ) đi du
lịch vài tỉnh mà tôi muốn đi.  Lần
này tôi muốn đi xem động Phong Nha ở Quảng Bình, vì là một động nước
dài nhất thế giới nên trở thành một điểm du lịch nổi tiếng trong và
ngoài nước, được U
Cậu K thuê xe van của một
hãng du lich có tài xế và một anh hướng dẫn viên du lịch đi theo để
thuyết minh. Cậu bảo đã mua tour đi từ Hà Nội ra Huế rồi trở lại Hà
Nội. Trên đường đi sẽ ghé các điểm du lịch nổi tiếng. 
 Anh hướng dẫn viên mặc áo jacket lịch sự
lắm có gắn tên hãng trên áo.  Sáng
sớm tinh mơ trời chưa tỏ, xe đã đến trước nhà cậu K ở Quảng Bá, Hà
Nội đón chúng tôi.  Mọi người xách
hành lý lên xe.  Khởi hành từ Quảng
Bá, vào Hà Nội, qua Gia Lâm đón em Tiên đi ăn sáng rồi xuống Nam Định.  Ghé tiệm cơm bên đường ăn trưa, lại đi
tiếp xuống Nghệ An thì trời tối, ngủ lại khách sạn. Nghe nói khách
sạn quốc doanh, trông bên ngoài bề thế đẹp đẽ vì mới xây sau 1975, nhưng
tô vôi màu hồng trông có vẻ quê kệch. 
Khăn tắm cho khách dùng trông cũ lắm. Tôi phải đem theo khăn của
mình để dùng.  Tôi và dì Loan, em
Tiên chung một phòng nhưng tôi được nằm một giường riêng, dì Loan và
Tiên nằm chung giường.  Sáng ra, lăn
trên giường thấy có vài mảng vôi tróc từ trên tường rơi xuống.  Không biết họ dùng loại vôi gì quét
tường mà loang lỗ như thế? Nhưng họ vẫn không tu bổ, sơn quét lại. 
Sáng ra, mọi người dậy
trả phòng.  Khi đến quầy giao chìa
khóa trả phòng, tôi nói với cô lễ tân rằng khách sạn này cần quét
vôi lại vì vôi loang lỗ rớt cả lên giường của khách. May là không gây
thương tích cho khách đấy.  
Anh hướng dẫn đưa chúng tôi đến một cửa tiệm bán cháo lươn và bún bò Huế. Cháo lươn là đặc sản của Nghệ An vì nơi này có loại lươn bé như ngón tay, dài độ 10 phân. Thứ lươn này rất đắt ở Đài Loan và vài nước khác ở Á châu vì hiếm hơn lươn phổ thông dài 70-80 phân. Dì Loan bảo sợ lươn lắm, chẳng bao giờ dám ăn con gì trông giống như con rắn. Nhưng vì nó là món đặc sản nên dì bảo tôi gọi 1 tô rồi cho dì ăn thử 1 tí. Còn dì thì gọi bún bò. Tôi cũng rất sợ ăn lươn nhưng tôi biết con lươn này rất hiếm ở những nơi khác nên ráng ăn thử cho biết.
Tô cháo lươn được chủ tiệm
mang ra. Nhìn vào tô, dì Loan nói:
-Cái này là lươn nấu cháo
chứ đâu phải cháo nấu lươn!
Mọi người cùng cười vang
vì câu nói đùa của dì vì tô cháo có đầy lươn trong đó, họ để nguyên
con, chẳng cắt cho ngắn lại nên nhìn thấy sờ sợ. Tôi đoán có khoảng
chục con lươn dính chùm vào nhau trong tô. 
Nhìn thì sợ, nhưng ráng ăn thử thì quả thật nó ngon lắm, thịt
ngọt, mềm, không nát, không tanh hôi gì cả. Dì Liên chia bớt bún bò
cho tôi vì bảo nhiều quá, dì ăn không hết. Tôi ăn thử bún bò, thấy
tạm được, không xuất sắc lắm, nhưng cũng có mùi bún bò Huế là được
rồi. Không nên đòi hỏi nơi xa xôi này phải có dân chuyên môn nấu món
này món kia như các thành phố lớn. 
Vợ chồng chủ quán khoảng
trên dưới 40 tuổi. Bà chủ trông đẹp người, nói năng nhỏ nhẹ. Tiếng
Nghệ An nghe có âm dấu nặng như tiếng Huế, nhưng phần phụ âm và các
vần cuối có “N” hay “Ng”, “I” hay “Y” họ phát âm như tiếng Bắc.  Bởi thế, nếu dân Nghệ ra Hà Nội một
thời gian, họ bỏ được dấu nặng thì sẽ đổi thành tiếng Bắc dễ
dàng.  
Tôi hỏi thăm:
-Chị là người Nghệ An làm
sao biết nấu bún bò Huế?  
-Dạ thưa chồng em người
Huế nên gia đình chồng chỉ cho em nấu.
Tôi nhìn sang anh chồng,
hỏi:
-Anh là người Huế theo vợ
ra Nghệ An ở rể hả?
Cả hai vợ chồng cùng
cười, anh chồng trả lời:
-Ở đâu sống được thì ở
chị à. Nhà vợ có sẵn nhà cửa ở đây bỏ đi sao được. Em thì đông anh
em nên em đi xa cùng không hề chi, cha mẹ em sống với vợ chồng anh cả
của em. 
Hai vợ chồng anh này có
hai đứa con trai sinh đôi khoảng 8 tuổi, chúng đã mặc quần áo học sinh,
quần xanh áo trắng, quàng khăn đỏ ở cổ, và xách cặp táp đứng chờ
bố chở đi học. Anh bảo hai con chào chúng tôi rồi đưa con đi học bằng
xe gắn máy. Trông họ có vẻ hạnh phúc, một gia đình nhỏ có hai con,
đời sống kinh tế ổn định, tôi mừng cho họ.
Ăn xong, đoàn chúng tôi lên
xe, chạy ngang Hà Tĩnh thì qua tỉnh Quảng Bình, trực chỉ  động Phong Nha. Suốt dọc đường, hai bên
là núi rừng xanh biếc, phong cảnh hùng vĩ, thỉnh thoảng đi ngang
những ngôi làng có nhà gach xen lẫn nhà tranh, có trẻ chăn trâu lang
thang đây đó. Mùa này trời đã se lạnh, khoảng 22-25 độ C.  
Đến nơi, hai bên là núi non
sừng sững, những ngọn núi phủ đầy cây xanh trông đẹp quá. Con sông Son
chạy lững lờ bên dưới, không khí trong lành làm sao. Mọi người bước
ra xe, tôi vươn vai và xoay trở người cho dãn gân cốt vì ngồi trong xe
quá lâu. Tôi hít một hơi thật dài, tận hưởng cái không khí mà các
thành phố đông xe, đông người không có. 
Chú tài cho xe đậu vào
bãi. Anh hướng dẫn đi thuê đò rồi chúng tôi cùng xuống một chiếc đò
có gắn máy đuôi tôm. Chạy trên con sông Son một quãng độ 15 phút, khi
gần đến động thì cô lái tắt máy và bắt đầu xử dụng hai mái chèo
để chèo bằng tay. Vì chính quyền không cho phép thuyền ghe chạy bằng
máy vào động, sẽ gây ô nhiễm và tiếng máy kêu ồn vang dội quá lớn
trong hang. 
Cửa động hiện ra, không cao
lắm, khoảng 10 mét cao, ngang rộng khoàng 25 mét, miệng hang giống như
hình thang. Cô lái cho thuyền táp vào bãi cát nhỏ trong hang, nơi dùng
làm bãi thả khách xuống. Mọi người theo anh hướng dẫn viên leo lên bờ
bắt đầu leo từng bậc đá thiên nhiên tiến vào dộng.  Phải có đèn gắn trong động để tỏa
sáng soi lối cho khách thấy đường mà bước và chủ yếu là soi sáng
các chùm thạch nhũ chảy từ trần hang xuống dưới thành những hình
ảnh rất lạ, rất đặc biệt. Rất tiếc là nhà nước XHCNVN cho một hãng
thầu của Trung Cộng gắn đèn trong hang nên màu sắc của chú chiệc
trông quê mùa và đồng bóng quá: từng chùm đèn màu xanh đỏ tím
vàng  soi khắp các chùm thạch nhũ
từ hang nhỏ qua hang lớn khiến người ta không còn thưởng thức được
màu tự nhiên của nhũ thạch, của đá. Phải chi chánh phủ VNXHCH khôn
ngoan hơn, biết yêu cầu nhà thầu Trung cộng gắn đèn màu trắng mà thôi
thì màu sắc trong động sẽ dễ chịu hơn và du khách có thể nhìn biết
màu thật của nhũ thạch ra sao.  Chứ
loại đèn màu xanh đỏ tím vàng khắp thế giới chỗ nào cũng có, có
ai háo hức nhìn đèn màu nữa đâu!
Trong động Phong Nha, có
vài chữ cổ của dân Hời (Chàm, Chiêm Thành, Champa) khắc trên tường, chánh
phủ phải rào lại để không ai được phá hay xóa bỏ. Ngày xưa, khi mảnh
đất này còn thuộc về nước Chiêm Thành thì người Chiêm đã vào đây
cúng tế gì đó và để lại di bút này. 
Ngày nay, dù người Chiêm có học đọc và viết chữ Chiêm, họ
cũng không đọc được những chữ này. Có lẽ, lối chữ này quá cổ, quá
xưa, hoặc có lẽ loại chữ này chỉ để viết phù chú nên ngoại trừ
phù thủy hay pháp sư ra, dân Chiêm đại chúng không đọc được?
Có đem theo máy ảnh cũng
không chụp được vì tối quá. Vì vậy, có một nhóm thợ chụp hình
chạy theo du khách mời mọc. Vì họ có máy ảnh loại chuyên nghiệp có
thể chụp trong hang tối. Dĩ nhiên, ai đi tham quan động Phong Nha cũng
muốn có vài tấm ảnh làm kỷ niệm vì chắc gì mình sẽ trở lại đây
lần nữa. Chụp xong, họ hẹn ra ngoài bến đò, độ 30 phút sau sẽ có
ảnh. 
Tham quan xong, chúng tôi ra
bãi cát ban nãy chờ cô lái đò trở lại đón.  Cô trở lại, chúng tôi xuống thuyền.  Khi cô còn chèo bằng tay, chưa có tiếng
máy, tôi hỏi thăm cô:
-Mấy năm nay mới có dịch
vụ du lịch tham quan động Phong Nha. 
Khi xưa chưa có khách du lịch, dân chúng địa phương có biêt cái
động này không? 
-Dạ biết lâu rồi. Thời
chiến tranh mỗi khi có bom rơi, dân chúng chạy vào đây tránh bom. 
-Làm lái đò đưa khách du
lịch có đủ sống không cháu?
-Dạ cũng tạm thôi cô, vì
nhiều người đưa đò quá nên phải chia phiên, mỗi người được làm vài
ngày. Những ngày không có phiên mình thì làm việc khác. 
-Làm việc gì khác?
-Phụ gia đình làm rẫy,
làm nương, nuôi dê, bắt cá, cũng có người bán dạo rau cỏ hay quà cáp
ngoài chợ. 
-Thôi, ở đâu cũng phải làm
để sống. Có việc làm là tốt rồi. Ai sao mình vậy hả cháu?
Cô lái đưa chúng tôi về
bến mà ban sáng chúng tôi đã đón thuyền. 
Nơi đây có các quán nước, quán cơm, quán chụp ảnh.  Chúng tôi kiếm quán ngồi uống nước
trong lúc chờ cô thợ ảnh rửa hình. 
Một lúc sau, cô thợ ảnh đến đưa cho chúng tôi hai túi giấy có
đầy hình vì mỗi kiểu cô rửa ra nhiều tấm để ai cũng có ảnh của
mình.  Em Tiên nhìn vào hình của dì
Loan la lên ngay:
-Chụp hư rồi, cái kính
của dì Loan lóe sáng không nhìn rõ đôi mắt của dì.  Trả lại, không trả tiền. 
Nói xong, Tiên tiếp túc
lựa, chỉ lấy ra những tấm mình thích, cón đâu trả lại hết. Hai cô
thợ ảnh ngẩn ngơ vì không được tiền như các cô đã tính.  Tiên kéo tay dì Loan bỏ đi mặc cho hai cô
kia năn nỉ. Tôi tần ngần đứng trông theo dì Loan và Tiên nhưng không
muốn bỏ đi theo.  Thấy tôi còn nán
lại, hai cô đưa túi ảnh cho tôi, nói: 
-Thôi! Chúng con biếu cô.
Chứ chúng con giữ làm gì. 
Tôi lấy tiến ra đưa hai cô,
và nói:
-Cô biết chụp vào gương có
lóe một chút, nhưng vẫn trông rõ dì Loan và mọi người, có sao
đâu.  Thôi cô trả tiền cho hai cháu,
chứ cô lấy không sao đành. 
Hai cô gái cám ơn rối rít.
Tôi hỏi thăm:
-Ai dạy các cháu chụp
ảnh? Làm nghề này có đủ sống không?
-Dạ, chúng cháu được tổ
du lịch dạy chụp ảnh. Nhưng nhiều người vào tổ chụp ảnh nên phải
chia nhau, mỗi người vài ngày. 
Chúng cháu vẫn phải làm nhiều việc khác để sống cô ạ. 
-Thôi! Cô chúc các cháu
làm ăn phát đạt và nhiều sức khỏe. 
Người Quảng Bình nói
giọng cũng nhiều dấu nặng như tiếng Huế. Tuy nhiên, họ nói gần tiếng
Bắc khi phát âm các chữ phụ âm cuối. Tôi nghĩ đến nơi đây là gốc gác
của dòng họ “Ngô Đình” của cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm mà bùi ngùi
tưởng nhớ ông, một vị Tổng Thống tài đức, thật sự yêu dân, yêu nước
và quyết liệt giữ gìn chế độ Tự Do Dân Chủ cho miền Nam.  Nếu còn ông thì miền Nam, nước Việt Nam
Cộng Hòa vẫn còn. 
Cả đoàn ở lại đây ăn trưa
vì có sẵn quán cơm bán cho khách du lịch. Quán có các món tươi của
địa phương như tôm suối, cá suối, dê xào, dê nướng.  Ăn xong, tôi và dì Loan, em Tiên đi bộ ra
sau quán, trông thấy cái thau nhôm to tướng đầy tôm suối còn sống,
nhẩy lưng tưng. Loại tôm này bé xíu như lóng tay, vỏ mỏng, rang lên
trông đỏ tươi.  Ăn cả vỏ dòn tan. 
Sau đó, đáng lẽ lịch
trình kế tiếp sẽ ghé nghĩa trang Liệt Sỹ của Việt Cộng ở Gio Linh,
Quảng Trị, nhưng tôi nói nhỏ với dì Loan:
-Cháu không muốn đến nghĩa
trang đâu dì ơi!
Dì Loan nói ngay với anh
hướng dẫn:
-Thôi không đi tham quan
nghĩa trang liệt sỹ đâu.  Ai có thân
nhân nằm đó thì có lý do để đi, đằng này mình chẳng có ai mà đến
làm gì, thấy kinh lắm. Tôi sợ đến mấy chỗ này lắm. Đổi chỗ nào
khác được không hả chú hướng dẫn?
Anh hướng dẫn phải chiều
theo đề nghị của khách. Anh cho biết ở Quảng Trị, phía gần biên giới
Lào có vài siêu thị rất lớn của Thái Lan bán hàng miễn thuế. Nghe
thế, cả đoàn đồng ý đi đến đó. 
Tôi hỏi chú tài có cho xe
chạy qua sông Bến Hải và cầu Hiền Lương không thì anh bảo không, vì
đường đó xa, anh sẽ đi đường khác gần hơn, đỡ tốn thời gian.  Tôi tiếc trong lòng vì mất cơ hội chứng
kiến dòng sông lịch sử đã chia đôi Nam Bắc ở vĩ tuyến 17 trong 21 năm
từ 1954-1975.  Nhưng tôi không dám phản
đối vì tốt cho chú tài và cả đoàn không phải ngồi xe lâu quá.  Xe chạy dọc theo nhiều rặng núi, thỉnh
thoảng trông thấy vài đàn dê đang ăn cỏ dưới chân núi, không thấy có
người chăn. Có đàn chỉ chục con, có đàn vài chục con.  Một bầy có cả dê đen, dê trắng, dê nâu, và
dê lốm đốm trằng đen . Có lẽ dân chúng quanh đây thả cho dê ăn cỏ buổi
sáng, chiều ra dẫn về.  Xem ra nuôi
dê đỡ tốn công và của, vì cỏ mọc hoang đầy rẫy quanh chân núi; cũng
chẳng phải đứng chăn chúng suốt ngày, vì có lẽ chẳng ai ăn cắp dê
của nhà khác?
Xe vào đến Quảng Trị,
chạy theo đường nhựa tuy nhỏ nhưng phẳng phiu vì mới làm sau này.  Xe chạy qua một bảng chỉ đường có mũi
tên chỉ hướng “Khe Sanh”. Chao ơi! Tôi ngạc nhiên khi biết Khe Sanh gần
đây.  “Khe Sanh” là một địa danh nổi
tiếng năm 1968, cuộc chiến kéo dài gần 3 tháng. Việt cộng từ bên kia
biên giới Lào tràn về ngập lụt, tấn công biển người vào lãnh thổ
Việt Nam Cộng Hòa.  Lúc đó tôi chỉ
khoảng 14 tuổi, nhưng đọc tin tức mỗi ngày mà đau lòng, đau ngực. Bao
nhiêu oan hồn tử sỹ của miền Nam và người dân nơi đây đã ra đi vĩnh
viễn.  Xin cúi đầu lần nữa trước
vong linh của quý vị.
Xe chạy dọc theo con sông
Thạch Hãn, là một dòng sông nơi có quê hương của nhạc sỹ Hoàng Thi
Thơ. Hai bên đường là phố xá nhà gạch một hoặc hai tầng có vẻ mới
xây, không thấy nhiều xe cộ ngược xuôi, cũng không nhiều người đi ngoài
phố nên con đường có vẻ vắng vẻ. Con đường này trước 1975 có lẽ chỉ
là đường rất nhỏ, khúc trải nhựa, khúc là đất. Nó là con đường
dẫn qua Lào, cũng là nơi chiến khu của Việt cộng đóng để tấn công
vào Quảng Trị. 
Làm dân của một tỉnh ở
tuyến đầu, trong thời Nam Bắc hay Quốc/Cộng phân tranh trước 1975, đã
lãnh nhiều tai ương và đau thương từ cộng sản phương Bắc đem đến.  Quảng Trị nổi tiếng về Đại Lộ Kinh
Hoàng vào Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972.  Máu
và xương của người dân Quảng Trị cùng binh lính VNCH đã đổ xuống
tưới ngập đất đai, tràn ra sông, ra biển. Những thây người không ai chôn
tràn ngập khắp nẻo đường khi quân Bắc Việt từ bên kia vĩ tuyến 17 tràn
về.  Người sống cố chạy lấy thân,
bồng theo vài đứa con bé nhỏ có khi đã chết trên tay.  Có khi cha mẹ chết hết, chỉ còn con dại
bơ vơ bên cạnh xác mẹ hay xác cha. Dân chúng dù có bị thương nhưng nếu
còn sức vẫn cố gắng chạy về phía có quân Quốc Gia đề tìm sự che
chở. Dân chúng đã chạy trong kinh hoàng, hoảng loạn, khi đến được
phía tự do, nhìn lại tìm người thân thì đã lạc nhau rồi, không biết
ai còn, ai mất. 
Nói đến Mùa Hè đỏ Lửa,
tôi lại nhớ đến tác phẩm cùng tên này của Phan Nhật Nam.  Ông là một người gốc Quảng Trị, nhưng
mẹ ông đã sinh ông ở Huế rồi cha mẹ bế ông vào bưng theo Việt Minh
kháng chiến chống Pháp. Sau đó, cha ông đi tập kết ra Bắc, mẹ ông dẫn
ông và hai đứa em gái vào Đà Nẵng sinh sống.  Phan Nhật Nam lớn lên vào Võ Bị Quốc
Gia Việt Nam ở Đà Lạt. Cấp bậc sau cùng là Đại Úy binh chủng
Dù.  Thế là một nhà có 2 quốc gia:
một theo cộng sản miền Bắc, một theo quốc gia VNCH.  
Thỉnh thoảng trông thấy
vài cô gái quấn váy, mặc áo ngắn đi bộ dọc đường, anh hướng dẫn
giới thiệu ngay đó là các cô gái Lào đi xe đò qua Việt Nam rồi xuống
xe đi bộ để mua sắm.  Dọc đường có
nhiều người dân tộc Ninh Kiều hay vài dân tộc khác đứng bán chuối, bán
rau củ mà họ trồng được.  Họ bán
chuối cả quầy chứ không cắt xẻ ra từng nải.  Tiên bảo chú tài dừng xe lại để mua
chuối. Vì Tiên mở cái đền lên đồng trong nhà mình và sinh sống bằng
nghề này nên thích mua chuối còn xanh và tròn trịa như thế này.  Tiên bảo nghe nhiều người nói chuối của
người dân tộc trồng trong rừng ăn ngon hơn chuối trồng dưới đồng bằng
nên phải mua về Hà Nội, vì chỉ qua đây một lần mà không mua thì
uổng. 
Tội nghiệp mấy người dân
tộc, họ nói tiếng Việt không sành lắm, đã thế không nói thách. Nên
gặp phải khách hàng như Tiên trả giá tới mức tối thiểu, họ năn nỉ
lên thêm chút nữa, thêm chút nữa thì phài bán vì gần trưa rồi phải
bán cho mau kẻo chiều đến chẳng còn ai đi ngang qua mua chuối cho họ
nữa. 
Khi đi ngang chợ, ngoài chợ
có bảng tên nhưng tôi quên rồi, không biết có phải là chợ Thạch Hãn
không.  Tôi xin cậu K cho ngừng lại
để vào tham quan. Cậu đồng ý, cả đoàn xuống xe. Tôi, dì Loan và Tiên
đi chung với nhau. Cậu K rủ chú tài và anh hướng dẫn kiếm quán nước ngồi
uống để chờ chúng tôi. 
Đi ngang hàng thịt, nghe
thấy giọng Bắc từ ông bán thịt lợn, tôi đứng lại hỏi:
-Ông là người Bắc à? Quê
ông ở đâu? Ông vào đây từ bao giờ?
Ông vui vẻ trả lời:
-Quê tôi ở Thái Bình. Tôi vào
đây mới chục năm nay thôi, vì ngoài đó lúc bấy giờ khó sống lắm. Tôi
liều đi thử vào đây, thấy cũng sống được nên ở lại. Bán thịt lợn, tuy
không giầu có, nhưng cũng lo được cho con cái. 
-Người ta từ quê ra thành
phố lớn như Sài Gòn để sinh sống, còn ông lại đến nơi ngõ cụt này,
dân cư ở đây không nhiều, lại không giầu có. Như thế buôn bán có phát
đạt không?
-Người ta có tiền đi xa
vào tận Sài Gòn, còn tôi chỉ có đủ tiền đến đây thôi.  Nhưng ở đây ít bon chen nên buôn bán tạm
ổn, sống cũng thoải mái cô ạ. 
-Thế thì sau này các con
ông thành người Quảng Trị đấy nhỉ. Chúng nó chắc nói giọng địa
phương này rồi. 
Ông hàng thịt cười xuề
xòa:
-Đành thôi! Quê hương giờ xa
lắc, muốn về thăm cũng phải chờ nghỉ một tuần tết dắt díu nhau về.
Nhưng khi nào cha mẹ chết hết thì thôi, chẳng còn lý do để về. Ở đâu
sống được thì mình ở cô ạ.
-Thế người ở đây có kỳ
thị giọng nói của ông khác với họ không?
-Không thấy có!  Dân ở đây cũng hiền lành nên họ vẫn mua
hàng của tôi.
-Sắp Tết rồi, chắc bán
xong vài tuần nữa ông cũng về quê thăm gia đình nhỉ? Thôi chúc ông
mạnh khỏe, làm ăn phát đạt để nuôi con cái nhé. 
-Dạ vâng, cảm ơn cô! Tôi
cũng xin chúc cô năm mới vui vẻ và khỏe mạnh. 
Đi khỏi hàng thịt, tôi
thấy buồn buồn cho phận người tha phương cầu thực. Đa số người phương
Bắc tiến vào Nam sau 1975 thì họ vào Sài Gòn, vào Đà Lat, Nha Trang,
Vũng Tàu. Cán bộ thì chiếm nhà lớn, nhà bé của dân; dân trơn thì ở
nhà trọ rồi tích cóp mua nhà. Vì ở những thành phố lớn dễ làm ăn
buôn bán. Chẳng nghe nói người từ Bắc chạy qua sông Bến Hải rồi
ngừng lại ở Quảng Trị, vào sông Thạch Hãn phía gần biên giới Lào
sinh sống như ông này. 
Chợ Thạch Hãn có lồng
chợ, có lẽ mới xây sau 1975 nên rộng rãi. Có đủ loại rau củ, vài
hàng trái cây, không nhiều thứ như ở các thành phố lớn nhưng có vài
thứ nhập từ Thái qua ngả Lào vào Việt Nam và vài hàng thịt, vài
hàng gà vịt, vài hàng cá vì ở đây có cá sông, cá biển thì theo xe
hàng vào. 
Cũng có hàng bán quần áo
may sẵn cho trẻ em và người lớn, hàng giầy dép, hàng sén. 
Gần tết ta nên chợ có vẻ
nhộn nhịp người sắm áo quần trẻ con và người lớn. 
Ra khỏi chợ, lên xe chạy
thẳng đến biên giới Lào, đến khu thương xá.
Dãy hành lang bên ngoài
thương xá́ là các cửa hàng nhỏ cho
người ta thuê buôn bán các thứ hàng biên giới như xà bông, dầu gội
đầu, dầu gió, kềm kéo cắt móng tay, quần áo trẻ em, người lớn và
giầy dép, còn nhiều thứ linh tinh khác. Toàn là hàng nhập từ Thái
Lan, Trung cộng; có lẽ nhiều hàng lạ và bán rẻ hơn ở thành phố nên
nhiều người lên đây chơi ghé mua về. 
Các cô gái ngồi sau quầy là chủ nhân của quầy, tôi hỏi thăm,
có cô từ Đông Hà vào đây mở tiệm, có cô từ Quảng Bình vào.  Đi lanh quanh xem cho biết chứ chẳng cần
sắm sửa từ đây mang về Hà Nội làm gì. 
Đi hết phía ngoài, chúng tôi đi vào phía trong là trung tâm
chính của thương xá. Cũng chỉ xem mà thôi, dì Liên mua được vài món
dùng trong bếp. 
Sau khi tham quan khu thương
xá ở biên giới, trời cũng đã chiều, ăn tối thì hơi sớm, nhưng mọi
người đề nghị ăn ở đây cho biết, rồi về Đông Hà thuê khách sạn ngủ
qua đêm, sáng mai sẽ đi Huế.  Chú
tài cho xe ghé vào một tiệm cơm chuyên bán cho khách đến mua bán ở
khu thương xá. Xuống xe, tôi đi bộ một quãng để ý xem những căn nhà
quanh đấy. Nhà cửa quanh đây có lẽ mới xây sau chiến tranh nên bằng
gạch còn mới, tuy nhỏ nhưng nhà nào cũng có khoảng sân trước nhà và
có chút vườn quanh nhà.  Hình như
nhà nào cũng có một hay hai cái am trước sân để cúng vong linh chết
vất vưởng.  Mấy cái am này kích
thước trông giống như bàn thờ Ông Thiên ở trong miền Nam.  
Đi bộ vào đến cái ngõ
lớn có vài bụi tre hai bên, con đường đất dài độ hơn chục mét là
vào sân gạch tàu mầu đỏ của tiệm cơm. 
Tiệm rộng rãi, có khoảng trên 10 bàn tròn lớn, vài bàn vuông
nhỏ.  Đã có đông khách ngồi ăn, tôi
hơi ngạc nhiên vì nơi đèo heo hút gió này mà có khách đông thế.  Hỏi ra là các cán bộ làm việc quanh
vùng vào đây ăn là chính, khách du lịch thì cuối tuần mới có. Riêng
đoàn chúng tôi đi vào ngày thường nên khác những khách ăn hằng ngày
kia, chúng tôi chỉ đến một lần mà thôi.  
Mọi người đọc menu, tiệm
này nổi tiếng thịt dê nhiều món. 
Chúng tôi gọi: Canh dê nấu lá lốt, dê cuốn lá lốt nướng, dê
xào sả, một nồi cá tràu (cá lóc) kho, và một đĩa rau muống xào. 
Không cần chờ lâu, họ phục
vụ nhanh và gọn gàng, bàn ghế sạch sẽ. Thức ăn ngon, nêm nếm vừa ăn.
Tối đó chúng tôi về Đông
Hà lấy khách sạn.  Sáng ra, xuống
phía dưới sảnh đã thấy cậu K ngồi uống cà phê. Cậu hỏi tôi muốn ăn
sáng ở khách sạn thì gọi ngay đó. 
Nhưng trước cửa đã có vài cô gái trạc độ mười tám, hai mươi
mặc quấn đen, áo tay dài, đầu đội nón lá tay bê cái thúng, miệng
mời chúng tôi mua bánh mì. Tôi tò mò hỏi:
-Cháu bán bánh mì gì
thế?
-Dạ, bánh mì cá kho hay
bánh mì chả. 
Tôi nhìn vào thúng, có
cái lò than để nồi cá phía trên, bánh mì, chả lụa để quanh lò, và
vài thứ hành, ớt, dưa leo đeo bên cạnh. Thấy thương quá các cô ơi! Tôi
nói ngay:
-Bán cho cô một ổ nhé. 
Cô gái vui mừng để cái
thúng xuống, lấy bánh mì ra cắt một khúc, xẻ dọc rồi gắp khoanh cá
nục kho vào trét đều vào trong, kèm thêm hành, ngò, ớt, tiêu rồi lễ
phép đưa cho tôi. Tôi trả tiền và bảo cô đừng thối lại. Cô cám ơn
thật ngọt ngào rồi chào khách để đi ra. 
Ở đây không có pate và thịt
nguội, nhưng các cô bán bánh mì đã tạo ra một thứ nhân bánh rất địa
phương vì có gì nấu nấy. Các cô khéo kho cá nên không thấy mùi tanh
dù là cá nục.
Có các cô đẩy xe đạp chở
các thúng quýt to tướng sau xe đi bán. Họ đứng ngay trước khách sạn
chào khách từ trong bước ra, họ giới thiệu quýt của Trung quốc, rất
ngọt. Dì Loan và Tiên đang đứng trước khách sạn nên đến bên một xe để
hỏi giá. Cô hàng vừa nói giá tiền 1 ký lô xong, đã nghe giọng Tiên
tru lên xeo xéo, chử vang rân nào là mất dạy, nói thách nói láo, nói
… khiến cô hàng quýt đỏ mặt nhưng không dám la mắng quát lại. Tôi
không hiểu tại sao Tiên có khuôn mặt xinh đẹp, tuổi vừa độ 50 thôi mà
lúc nào cũng sẵn sàng bùng nổ, đanh ác với người bán hàng.  Tôi thấy giá cả đâu có gì thách quá
đâu, không thích giá đó thì cứ trả giá, cớ sao phải chửi mắng người
ta, cớ sao phải sỉ nhục người ta cho bằng được?  
Tôi thấy cô bán quýt gần
khóc nhưng không dám quát mắng lại khách. Tiên kéo dì Loan ngúng
nguẩy bỏ đi sau khi chửi rã họng rồi. 
Tôi nghĩ thầm nếu ở Sài Gòn thì bạn hàng không để yên cho Tiên
đâu nhé.  Tôi đến bên cô hàng quýt
nói nhỏ với cô:
-Cháu đừng buồn, bán cho
cô hai cân đi, bao nhiêu cô trả cho. 
Cô hàng nuốt nước mắt vào
lòng, vui mừng lấy bao cân quýt cho tôi ngay.  Tôi trả tiền, bảo cô khỏi cần thối.
Sau đó, cả đoàn lên xe đi
Huế, đến chợ Đông Ba cho kịp buổi chợ sáng.  Dì Loan, Tiên và tôi vào trong mua sắm
chút quà đem về Hà Nội. Cậu K, chú tài và anh hướng dẫn ớ lại hàng nước bên ngoài chờ chúng tôi.
Vào trong, là các gian hàng
bán linh tinh từ nồi niêu, chén bát đến dép mang trong nhà.  Tiên bảo bà̀ chủ lấy cho xem mấy đôi dép tổ ong. Tiên hỏi giá tiền, bà hàng vừa trả̉ lời xong, Tiên lại quát tháo om xòm, chửi rủa thậm tệ như đã chửi cô hàng quýt ở Đông Hà sáng nay.  Bà chủ hoảng hốt nhưng vẫn bình tĩnh không quát tháo lại, và vẫn tử tế giải bầy với khách. Tôi phục các bà các cô từ Quảng Trị đến Thừa Thiên, dù gặp khách du côn, du kề họ vẫn giữ vững phong cách có văn hóa
của những người lớn lên trong những gia đình có văn hóa Việt Nam rất truyền thống lâu đời. 
Tôi đứng né qua một bên cho Tiên và dì Loan bước ra rồi nói với bà hàng:
-Chị cho em xin 2 đôi dép
đó đi.  Cứ lấy giá đó cho em. 
Tôi trả tiền rồi xin lỗi bà hàng vì biết bà buốn lắm, phải nhẫn nhục chịu đựng một người khách phương xa tưởng đâu sẽ mở hàng vui vẻ báo hiệu cho
một ngày may mắn. Ai ngờ khách hung dữ kỳ lạ, và hung dữ thật vô cớ, cứ như là có tư thù từ
lâu đời.
Tôi có cảm tưởng các tà linh đồng bóng ám trong người Tiên nên hở ra là chửi, chửi bất cứ ai buôn bán với nàng.  Hay đó là cái “Văn hóa chửi do chế độ cộng sản sản sinh ra?” 
Có đi ra Quảng Trị, Thừa Thiên mới biết văn hóa truyền thống Việt Nam vẫn tồn tại nơi đây qua các chị, các mệ bán hàng rong, hàng chợ.  Cám ơn các chị, cá́c mệ nhiều lắm. Cầu xin ơn trên ban phước trên các chị và gia đình thật nhiều.
TT-Thái An
10/24/2022