Thứ Hai, 27 tháng 10, 2025

603 . TT THAI AN - MỘT LẦN ĐI QUA SÔNG THẠCH HÃN.

                                                                                           


MỘT LÂN ĐI QUA SÔNG THẠCH HÃN

TT-Thái An

 

Khoảng tháng Giêng Tây năm 2014 tôi về Việt Nam.  Lần nào về tôi cũng đến Sài Gòn trước. Ở Sài Gòn vài ngày với anh chị họ, rồi bay ra Hà Nội thăm gia đình của hai cậu và dì. Họ là các em họ rất gần của mẹ và họ rất quý tôi.

Lần nào về Hà Nội, tôi cũng ở nhà cậu hoặc dì.  Và lần nào cậu K cũng bỏ tiền thuê xe chở tôi và dì Loan, cùng một cô em họ của tôi tên Tiên (con gái của em họ, con chú con bác với mẹ) đi du lịch vài tỉnh mà tôi muốn đi.  Lần này tôi muốn đi xem động Phong Nha ở Quảng Bình, vì là một động nước dài nhất thế giới nên trở thành một điểm du lịch nổi tiếng trong và ngoài nước, được UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên thế gới.

 

Cậu K thuê xe van của một hãng du lich có tài xế và một anh hướng dẫn viên du lịch đi theo để thuyết minh. Cậu bảo đã mua tour đi từ Hà Nội ra Huế rồi trở lại Hà Nội. Trên đường đi sẽ ghé các điểm du lịch nổi tiếng.

 Anh hướng dẫn viên mặc áo jacket lịch sự lắm có gắn tên hãng trên áo.  Sáng sớm tinh mơ trời chưa tỏ, xe đã đến trước nhà cậu K ở Quảng Bá, Hà Nội đón chúng tôi.  Mọi người xách hành lý lên xe.  Khởi hành từ Quảng Bá, vào Hà Nội, qua Gia Lâm đón em Tiên đi ăn sáng rồi xuống Nam Định.  Ghé tiệm cơm bên đường ăn trưa, lại đi tiếp xuống Nghệ An thì trời tối, ngủ lại khách sạn. Nghe nói khách sạn quốc doanh, trông bên ngoài bề thế đẹp đẽ vì mới xây sau 1975, nhưng tô vôi màu hồng trông có vẻ quê kệch.  Khăn tắm cho khách dùng trông cũ lắm. Tôi phải đem theo khăn của mình để dùng.  Tôi và dì Loan, em Tiên chung một phòng nhưng tôi được nằm một giường riêng, dì Loan và Tiên nằm chung giường.  Sáng ra, lăn trên giường thấy có vài mảng vôi tróc từ trên tường rơi xuống.  Không biết họ dùng loại vôi gì quét tường mà loang lỗ như thế? Nhưng họ vẫn không tu bổ, sơn quét lại.

 

Sáng ra, mọi người dậy trả phòng.  Khi đến quầy giao chìa khóa trả phòng, tôi nói với cô lễ tân rằng khách sạn này cần quét vôi lại vì vôi loang lỗ rớt cả lên giường của khách. May là không gây thương tích cho khách đấy. 

Anh hướng dẫn đưa chúng tôi đến một cửa tiệm bán cháo lươn và bún bò Huế.  Cháo lươn là đặc sản của Nghệ An vì nơi này có loại lươn bé như ngón tay, dài độ 10 phân.  Thứ lươn này rất đắt ở Đài Loan và vài nước khác ở Á châu vì hiếm hơn lươn phổ thông dài 70-80 phân.  Dì Loan bảo sợ lươn lắm, chẳng bao giờ dám ăn con gì trông giống như con rắn.  Nhưng vì nó là món đặc sản nên dì bảo tôi gọi 1 tô rồi cho dì ăn thử 1 tí. Còn dì thì gọi bún bò. Tôi cũng rất sợ ăn lươn nhưng tôi biết con lươn này rất hiếm ở những nơi khác nên ráng ăn thử cho biết.  

Tô cháo lươn được chủ tiệm mang ra. Nhìn vào tô, dì Loan nói:

-Cái này là lươn nấu cháo chứ đâu phải cháo nấu lươn!

Mọi người cùng cười vang vì câu nói đùa của dì vì tô cháo có đầy lươn trong đó, họ để nguyên con, chẳng cắt cho ngắn lại nên nhìn thấy sờ sợ. Tôi đoán có khoảng chục con lươn dính chùm vào nhau trong tô.  Nhìn thì sợ, nhưng ráng ăn thử thì quả thật nó ngon lắm, thịt ngọt, mềm, không nát, không tanh hôi gì cả. Dì Liên chia bớt bún bò cho tôi vì bảo nhiều quá, dì ăn không hết. Tôi ăn thử bún bò, thấy tạm được, không xuất sắc lắm, nhưng cũng có mùi bún bò Huế là được rồi. Không nên đòi hỏi nơi xa xôi này phải có dân chuyên môn nấu món này món kia như các thành phố lớn.

Vợ chồng chủ quán khoảng trên dưới 40 tuổi. Bà chủ trông đẹp người, nói năng nhỏ nhẹ. Tiếng Nghệ An nghe có âm dấu nặng như tiếng Huế, nhưng phần phụ âm và các vần cuối có “N” hay “Ng”, “I” hay “Y” họ phát âm như tiếng Bắc.  Bởi thế, nếu dân Nghệ ra Hà Nội một thời gian, họ bỏ được dấu nặng thì sẽ đổi thành tiếng Bắc dễ dàng. 

Tôi hỏi thăm:

-Chị là người Nghệ An làm sao biết nấu bún bò Huế? 

-Dạ thưa chồng em người Huế nên gia đình chồng chỉ cho em nấu.

Tôi nhìn sang anh chồng, hỏi:

-Anh là người Huế theo vợ ra Nghệ An ở rể hả?

Cả hai vợ chồng cùng cười, anh chồng trả lời:

-Ở đâu sống được thì ở chị à. Nhà vợ có sẵn nhà cửa ở đây bỏ đi sao được. Em thì đông anh em nên em đi xa cùng không hề chi, cha mẹ em sống với vợ chồng anh cả của em.

 

Hai vợ chồng anh này có hai đứa con trai sinh đôi khoảng 8 tuổi, chúng đã mặc quần áo học sinh, quần xanh áo trắng, quàng khăn đỏ ở cổ, và xách cặp táp đứng chờ bố chở đi học. Anh bảo hai con chào chúng tôi rồi đưa con đi học bằng xe gắn máy. Trông họ có vẻ hạnh phúc, một gia đình nhỏ có hai con, đời sống kinh tế ổn định, tôi mừng cho họ.

Ăn xong, đoàn chúng tôi lên xe, chạy ngang Hà Tĩnh thì qua tỉnh Quảng Bình, trực chỉ  động Phong Nha. Suốt dọc đường, hai bên là núi rừng xanh biếc, phong cảnh hùng vĩ, thỉnh thoảng đi ngang những ngôi làng có nhà gach xen lẫn nhà tranh, có trẻ chăn trâu lang thang đây đó. Mùa này trời đã se lạnh, khoảng 22-25 độ C. 

Đến nơi, hai bên là núi non sừng sững, những ngọn núi phủ đầy cây xanh trông đẹp quá. Con sông Son chạy lững lờ bên dưới, không khí trong lành làm sao. Mọi người bước ra xe, tôi vươn vai và xoay trở người cho dãn gân cốt vì ngồi trong xe quá lâu. Tôi hít một hơi thật dài, tận hưởng cái không khí mà các thành phố đông xe, đông người không có.

 

Chú tài cho xe đậu vào bãi. Anh hướng dẫn đi thuê đò rồi chúng tôi cùng xuống một chiếc đò có gắn máy đuôi tôm. Chạy trên con sông Son một quãng độ 15 phút, khi gần đến động thì cô lái tắt máy và bắt đầu xử dụng hai mái chèo để chèo bằng tay. Vì chính quyền không cho phép thuyền ghe chạy bằng máy vào động, sẽ gây ô nhiễm và tiếng máy kêu ồn vang dội quá lớn trong hang.

Cửa động hiện ra, không cao lắm, khoảng 10 mét cao, ngang rộng khoàng 25 mét, miệng hang giống như hình thang. Cô lái cho thuyền táp vào bãi cát nhỏ trong hang, nơi dùng làm bãi thả khách xuống. Mọi người theo anh hướng dẫn viên leo lên bờ bắt đầu leo từng bậc đá thiên nhiên tiến vào dộng.  Phải có đèn gắn trong động để tỏa sáng soi lối cho khách thấy đường mà bước và chủ yếu là soi sáng các chùm thạch nhũ chảy từ trần hang xuống dưới thành những hình ảnh rất lạ, rất đặc biệt. Rất tiếc là nhà nước XHCNVN cho một hãng thầu của Trung Cộng gắn đèn trong hang nên màu sắc của chú chiệc trông quê mùa và đồng bóng quá: từng chùm đèn màu xanh đỏ tím vàng  soi khắp các chùm thạch nhũ từ hang nhỏ qua hang lớn khiến người ta không còn thưởng thức được màu tự nhiên của nhũ thạch, của đá. Phải chi chánh phủ VNXHCH khôn ngoan hơn, biết yêu cầu nhà thầu Trung cộng gắn đèn màu trắng mà thôi thì màu sắc trong động sẽ dễ chịu hơn và du khách có thể nhìn biết màu thật của nhũ thạch ra sao.  Chứ loại đèn màu xanh đỏ tím vàng khắp thế giới chỗ nào cũng có, có ai háo hức nhìn đèn màu nữa đâu!

Trong động Phong Nha, có vài chữ cổ của dân Hời (Chàm, Chiêm Thành, Champa) khắc trên tường, chánh phủ phải rào lại để không ai được phá hay xóa bỏ. Ngày xưa, khi mảnh đất này còn thuộc về nước Chiêm Thành thì người Chiêm đã vào đây cúng tế gì đó và để lại di bút này.  Ngày nay, dù người Chiêm có học đọc và viết chữ Chiêm, họ cũng không đọc được những chữ này. Có lẽ, lối chữ này quá cổ, quá xưa, hoặc có lẽ loại chữ này chỉ để viết phù chú nên ngoại trừ phù thủy hay pháp sư ra, dân Chiêm đại chúng không đọc được?

Có đem theo máy ảnh cũng không chụp được vì tối quá. Vì vậy, có một nhóm thợ chụp hình chạy theo du khách mời mọc. Vì họ có máy ảnh loại chuyên nghiệp có thể chụp trong hang tối. Dĩ nhiên, ai đi tham quan động Phong Nha cũng muốn có vài tấm ảnh làm kỷ niệm vì chắc gì mình sẽ trở lại đây lần nữa. Chụp xong, họ hẹn ra ngoài bến đò, độ 30 phút sau sẽ có ảnh.

Tham quan xong, chúng tôi ra bãi cát ban nãy chờ cô lái đò trở lại đón.  Cô trở lại, chúng tôi xuống thuyền.  Khi cô còn chèo bằng tay, chưa có tiếng máy, tôi hỏi thăm cô:

-Mấy năm nay mới có dịch vụ du lịch tham quan động Phong Nha.  Khi xưa chưa có khách du lịch, dân chúng địa phương có biêt cái động này không?

-Dạ biết lâu rồi. Thời chiến tranh mỗi khi có bom rơi, dân chúng chạy vào đây tránh bom.

-Làm lái đò đưa khách du lịch có đủ sống không cháu?

-Dạ cũng tạm thôi cô, vì nhiều người đưa đò quá nên phải chia phiên, mỗi người được làm vài ngày. Những ngày không có phiên mình thì làm việc khác.

-Làm việc gì khác?

-Phụ gia đình làm rẫy, làm nương, nuôi dê, bắt cá, cũng có người bán dạo rau cỏ hay quà cáp ngoài chợ.

-Thôi, ở đâu cũng phải làm để sống. Có việc làm là tốt rồi. Ai sao mình vậy hả cháu?

 

Cô lái đưa chúng tôi về bến mà ban sáng chúng tôi đã đón thuyền.  Nơi đây có các quán nước, quán cơm, quán chụp ảnh.  Chúng tôi kiếm quán ngồi uống nước trong lúc chờ cô thợ ảnh rửa hình.  Một lúc sau, cô thợ ảnh đến đưa cho chúng tôi hai túi giấy có đầy hình vì mỗi kiểu cô rửa ra nhiều tấm để ai cũng có ảnh của mình.  Em Tiên nhìn vào hình của dì Loan la lên ngay:

-Chụp hư rồi, cái kính của dì Loan lóe sáng không nhìn rõ đôi mắt của dì.  Trả lại, không trả tiền.

Nói xong, Tiên tiếp túc lựa, chỉ lấy ra những tấm mình thích, cón đâu trả lại hết. Hai cô thợ ảnh ngẩn ngơ vì không được tiền như các cô đã tính.  Tiên kéo tay dì Loan bỏ đi mặc cho hai cô kia năn nỉ. Tôi tần ngần đứng trông theo dì Loan và Tiên nhưng không muốn bỏ đi theo.  Thấy tôi còn nán lại, hai cô đưa túi ảnh cho tôi, nói:

-Thôi! Chúng con biếu cô. Chứ chúng con giữ làm gì.

Tôi lấy tiến ra đưa hai cô, và nói:

-Cô biết chụp vào gương có lóe một chút, nhưng vẫn trông rõ dì Loan và mọi người, có sao đâu.  Thôi cô trả tiền cho hai cháu, chứ cô lấy không sao đành.

Hai cô gái cám ơn rối rít. Tôi hỏi thăm:

-Ai dạy các cháu chụp ảnh? Làm nghề này có đủ sống không?

-Dạ, chúng cháu được tổ du lịch dạy chụp ảnh. Nhưng nhiều người vào tổ chụp ảnh nên phải chia nhau, mỗi người vài ngày.  Chúng cháu vẫn phải làm nhiều việc khác để sống cô ạ.

-Thôi! Cô chúc các cháu làm ăn phát đạt và nhiều sức khỏe.

Người Quảng Bình nói giọng cũng nhiều dấu nặng như tiếng Huế. Tuy nhiên, họ nói gần tiếng Bắc khi phát âm các chữ phụ âm cuối. Tôi nghĩ đến nơi đây là gốc gác của dòng họ “Ngô Đình” của cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm mà bùi ngùi tưởng nhớ ông, một vị Tổng Thống tài đức, thật sự yêu dân, yêu nước và quyết liệt giữ gìn chế độ Tự Do Dân Chủ cho miền Nam.  Nếu còn ông thì miền Nam, nước Việt Nam Cộng Hòa vẫn còn.

Cả đoàn ở lại đây ăn trưa vì có sẵn quán cơm bán cho khách du lịch. Quán có các món tươi của địa phương như tôm suối, cá suối, dê xào, dê nướng.  Ăn xong, tôi và dì Loan, em Tiên đi bộ ra sau quán, trông thấy cái thau nhôm to tướng đầy tôm suối còn sống, nhẩy lưng tưng. Loại tôm này bé xíu như lóng tay, vỏ mỏng, rang lên trông đỏ tươi.  Ăn cả vỏ dòn tan.

 

Sau đó, đáng lẽ lịch trình kế tiếp sẽ ghé nghĩa trang Liệt Sỹ của Việt Cộng ở Gio Linh, Quảng Trị, nhưng tôi nói nhỏ với dì Loan:

-Cháu không muốn đến nghĩa trang đâu dì ơi!

Dì Loan nói ngay với anh hướng dẫn:

-Thôi không đi tham quan nghĩa trang liệt sỹ đâu.  Ai có thân nhân nằm đó thì có lý do để đi, đằng này mình chẳng có ai mà đến làm gì, thấy kinh lắm. Tôi sợ đến mấy chỗ này lắm. Đổi chỗ nào khác được không hả chú hướng dẫn?

Anh hướng dẫn phải chiều theo đề nghị của khách. Anh cho biết ở Quảng Trị, phía gần biên giới Lào có vài siêu thị rất lớn của Thái Lan bán hàng miễn thuế. Nghe thế, cả đoàn đồng ý đi đến đó.

Tôi hỏi chú tài có cho xe chạy qua sông Bến Hải và cầu Hiền Lương không thì anh bảo không, vì đường đó xa, anh sẽ đi đường khác gần hơn, đỡ tốn thời gian.  Tôi tiếc trong lòng vì mất cơ hội chứng kiến dòng sông lịch sử đã chia đôi Nam Bắc ở vĩ tuyến 17 trong 21 năm từ 1954-1975.  Nhưng tôi không dám phản đối vì tốt cho chú tài và cả đoàn không phải ngồi xe lâu quá.  Xe chạy dọc theo nhiều rặng núi, thỉnh thoảng trông thấy vài đàn dê đang ăn cỏ dưới chân núi, không thấy có người chăn. Có đàn chỉ chục con, có đàn vài chục con.  Một bầy có cả dê đen, dê trắng, dê nâu, và dê lốm đốm trằng đen . Có lẽ dân chúng quanh đây thả cho dê ăn cỏ buổi sáng, chiều ra dẫn về.  Xem ra nuôi dê đỡ tốn công và của, vì cỏ mọc hoang đầy rẫy quanh chân núi; cũng chẳng phải đứng chăn chúng suốt ngày, vì có lẽ chẳng ai ăn cắp dê của nhà khác?

 

Xe vào đến Quảng Trị, chạy theo đường nhựa tuy nhỏ nhưng phẳng phiu vì mới làm sau này.  Xe chạy qua một bảng chỉ đường có mũi tên chỉ hướng “Khe Sanh”. Chao ơi! Tôi ngạc nhiên khi biết Khe Sanh gần đây.  “Khe Sanh” là một địa danh nổi tiếng năm 1968, cuộc chiến kéo dài gần 3 tháng. Việt cộng từ bên kia biên giới Lào tràn về ngập lụt, tấn công biển người vào lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa.  Lúc đó tôi chỉ khoảng 14 tuổi, nhưng đọc tin tức mỗi ngày mà đau lòng, đau ngực. Bao nhiêu oan hồn tử sỹ của miền Nam và người dân nơi đây đã ra đi vĩnh viễn.  Xin cúi đầu lần nữa trước vong linh của quý vị.

Xe chạy dọc theo con sông Thạch Hãn, là một dòng sông nơi có quê hương của nhạc sỹ Hoàng Thi Thơ. Hai bên đường là phố xá nhà gạch một hoặc hai tầng có vẻ mới xây, không thấy nhiều xe cộ ngược xuôi, cũng không nhiều người đi ngoài phố nên con đường có vẻ vắng vẻ. Con đường này trước 1975 có lẽ chỉ là đường rất nhỏ, khúc trải nhựa, khúc là đất. Nó là con đường dẫn qua Lào, cũng là nơi chiến khu của Việt cộng đóng để tấn công vào Quảng Trị.

Làm dân của một tỉnh ở tuyến đầu, trong thời Nam Bắc hay Quốc/Cộng phân tranh trước 1975, đã lãnh nhiều tai ương và đau thương từ cộng sản phương Bắc đem đến.  Quảng Trị nổi tiếng về Đại Lộ Kinh Hoàng vào Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972.  Máu và xương của người dân Quảng Trị cùng binh lính VNCH đã đổ xuống tưới ngập đất đai, tràn ra sông, ra biển. Những thây người không ai chôn tràn ngập khắp nẻo đường khi quân Bắc Việt từ bên kia vĩ tuyến 17 tràn về.  Người sống cố chạy lấy thân, bồng theo vài đứa con bé nhỏ có khi đã chết trên tay.  Có khi cha mẹ chết hết, chỉ còn con dại bơ vơ bên cạnh xác mẹ hay xác cha. Dân chúng dù có bị thương nhưng nếu còn sức vẫn cố gắng chạy về phía có quân Quốc Gia đề tìm sự che chở. Dân chúng đã chạy trong kinh hoàng, hoảng loạn, khi đến được phía tự do, nhìn lại tìm người thân thì đã lạc nhau rồi, không biết ai còn, ai mất.

 

Nói đến Mùa Hè đỏ Lửa, tôi lại nhớ đến tác phẩm cùng tên này của Phan Nhật Nam.  Ông là một người gốc Quảng Trị, nhưng mẹ ông đã sinh ông ở Huế rồi cha mẹ bế ông vào bưng theo Việt Minh kháng chiến chống Pháp. Sau đó, cha ông đi tập kết ra Bắc, mẹ ông dẫn ông và hai đứa em gái vào Đà Nẵng sinh sống.  Phan Nhật Nam lớn lên vào Võ Bị Quốc Gia Việt Nam ở Đà Lạt. Cấp bậc sau cùng là Đại Úy binh chủng Dù.  Thế là một nhà có 2 quốc gia: một theo cộng sản miền Bắc, một theo quốc gia VNCH. 

 

Thỉnh thoảng trông thấy vài cô gái quấn váy, mặc áo ngắn đi bộ dọc đường, anh hướng dẫn giới thiệu ngay đó là các cô gái Lào đi xe đò qua Việt Nam rồi xuống xe đi bộ để mua sắm.  Dọc đường có nhiều người dân tộc Ninh Kiều hay vài dân tộc khác đứng bán chuối, bán rau củ mà họ trồng được.  Họ bán chuối cả quầy chứ không cắt xẻ ra từng nải.  Tiên bảo chú tài dừng xe lại để mua chuối. Vì Tiên mở cái đền lên đồng trong nhà mình và sinh sống bằng nghề này nên thích mua chuối còn xanh và tròn trịa như thế này.  Tiên bảo nghe nhiều người nói chuối của người dân tộc trồng trong rừng ăn ngon hơn chuối trồng dưới đồng bằng nên phải mua về Hà Nội, vì chỉ qua đây một lần mà không mua thì uổng.

Tội nghiệp mấy người dân tộc, họ nói tiếng Việt không sành lắm, đã thế không nói thách. Nên gặp phải khách hàng như Tiên trả giá tới mức tối thiểu, họ năn nỉ lên thêm chút nữa, thêm chút nữa thì phài bán vì gần trưa rồi phải bán cho mau kẻo chiều đến chẳng còn ai đi ngang qua mua chuối cho họ nữa.

Khi đi ngang chợ, ngoài chợ có bảng tên nhưng tôi quên rồi, không biết có phải là chợ Thạch Hãn không.  Tôi xin cậu K cho ngừng lại để vào tham quan. Cậu đồng ý, cả đoàn xuống xe. Tôi, dì Loan và Tiên đi chung với nhau. Cậu K rủ chú tài và anh hướng dẫn kiếm quán nước ngồi uống để chờ chúng tôi.

Đi ngang hàng thịt, nghe thấy giọng Bắc từ ông bán thịt lợn, tôi đứng lại hỏi:

-Ông là người Bắc à? Quê ông ở đâu? Ông vào đây từ bao giờ?

Ông vui vẻ trả lời:

-Quê tôi ở Thái Bình. Tôi vào đây mới chục năm nay thôi, vì ngoài đó lúc bấy giờ khó sống lắm. Tôi liều đi thử vào đây, thấy cũng sống được nên ở lại. Bán thịt lợn, tuy không giầu có, nhưng cũng lo được cho con cái.

-Người ta từ quê ra thành phố lớn như Sài Gòn để sinh sống, còn ông lại đến nơi ngõ cụt này, dân cư ở đây không nhiều, lại không giầu có. Như thế buôn bán có phát đạt không?

-Người ta có tiền đi xa vào tận Sài Gòn, còn tôi chỉ có đủ tiền đến đây thôi.  Nhưng ở đây ít bon chen nên buôn bán tạm ổn, sống cũng thoải mái cô ạ.

-Thế thì sau này các con ông thành người Quảng Trị đấy nhỉ. Chúng nó chắc nói giọng địa phương này rồi.

Ông hàng thịt cười xuề xòa:

-Đành thôi! Quê hương giờ xa lắc, muốn về thăm cũng phải chờ nghỉ một tuần tết dắt díu nhau về. Nhưng khi nào cha mẹ chết hết thì thôi, chẳng còn lý do để về. Ở đâu sống được thì mình ở cô ạ.

-Thế người ở đây có kỳ thị giọng nói của ông khác với họ không?

-Không thấy có!  Dân ở đây cũng hiền lành nên họ vẫn mua hàng của tôi.

-Sắp Tết rồi, chắc bán xong vài tuần nữa ông cũng về quê thăm gia đình nhỉ? Thôi chúc ông mạnh khỏe, làm ăn phát đạt để nuôi con cái nhé.

-Dạ vâng, cảm ơn cô! Tôi cũng xin chúc cô năm mới vui vẻ và khỏe mạnh.

 

Đi khỏi hàng thịt, tôi thấy buồn buồn cho phận người tha phương cầu thực. Đa số người phương Bắc tiến vào Nam sau 1975 thì họ vào Sài Gòn, vào Đà Lat, Nha Trang, Vũng Tàu. Cán bộ thì chiếm nhà lớn, nhà bé của dân; dân trơn thì ở nhà trọ rồi tích cóp mua nhà. Vì ở những thành phố lớn dễ làm ăn buôn bán. Chẳng nghe nói người từ Bắc chạy qua sông Bến Hải rồi ngừng lại ở Quảng Trị, vào sông Thạch Hãn phía gần biên giới Lào sinh sống như ông này.

Chợ Thạch Hãn có lồng chợ, có lẽ mới xây sau 1975 nên rộng rãi. Có đủ loại rau củ, vài hàng trái cây, không nhiều thứ như ở các thành phố lớn nhưng có vài thứ nhập từ Thái qua ngả Lào vào Việt Nam và vài hàng thịt, vài hàng gà vịt, vài hàng cá vì ở đây có cá sông, cá biển thì theo xe hàng vào.

Cũng có hàng bán quần áo may sẵn cho trẻ em và người lớn, hàng giầy dép, hàng sén.

Gần tết ta nên chợ có vẻ nhộn nhịp người sắm áo quần trẻ con và người lớn.

Ra khỏi chợ, lên xe chạy thẳng đến biên giới Lào, đến khu thương xá.

 

Dãy hành lang bên ngoài thương xá́ là các cửa hàng nhỏ cho người ta thuê buôn bán các thứ hàng biên giới như xà bông, dầu gội đầu, dầu gió, kềm kéo cắt móng tay, quần áo trẻ em, người lớn và giầy dép, còn nhiều thứ linh tinh khác. Toàn là hàng nhập từ Thái Lan, Trung cộng; có lẽ nhiều hàng lạ và bán rẻ hơn ở thành phố nên nhiều người lên đây chơi ghé mua về.  Các cô gái ngồi sau quầy là chủ nhân của quầy, tôi hỏi thăm, có cô từ Đông Hà vào đây mở tiệm, có cô từ Quảng Bình vào.  Đi lanh quanh xem cho biết chứ chẳng cần sắm sửa từ đây mang về Hà Nội làm gì.  Đi hết phía ngoài, chúng tôi đi vào phía trong là trung tâm chính của thương xá. Cũng chỉ xem mà thôi, dì Liên mua được vài món dùng trong bếp.

 

Sau khi tham quan khu thương xá ở biên giới, trời cũng đã chiều, ăn tối thì hơi sớm, nhưng mọi người đề nghị ăn ở đây cho biết, rồi về Đông Hà thuê khách sạn ngủ qua đêm, sáng mai sẽ đi Huế.  Chú tài cho xe ghé vào một tiệm cơm chuyên bán cho khách đến mua bán ở khu thương xá. Xuống xe, tôi đi bộ một quãng để ý xem những căn nhà quanh đấy. Nhà cửa quanh đây có lẽ mới xây sau chiến tranh nên bằng gạch còn mới, tuy nhỏ nhưng nhà nào cũng có khoảng sân trước nhà và có chút vườn quanh nhà.  Hình như nhà nào cũng có một hay hai cái am trước sân để cúng vong linh chết vất vưởng.  Mấy cái am này kích thước trông giống như bàn thờ Ông Thiên ở trong miền Nam. 

 

Đi bộ vào đến cái ngõ lớn có vài bụi tre hai bên, con đường đất dài độ hơn chục mét là vào sân gạch tàu mầu đỏ của tiệm cơm.  Tiệm rộng rãi, có khoảng trên 10 bàn tròn lớn, vài bàn vuông nhỏ.  Đã có đông khách ngồi ăn, tôi hơi ngạc nhiên vì nơi đèo heo hút gió này mà có khách đông thế.  Hỏi ra là các cán bộ làm việc quanh vùng vào đây ăn là chính, khách du lịch thì cuối tuần mới có. Riêng đoàn chúng tôi đi vào ngày thường nên khác những khách ăn hằng ngày kia, chúng tôi chỉ đến một lần mà thôi.  

Mọi người đọc menu, tiệm này nổi tiếng thịt dê nhiều món.  Chúng tôi gọi: Canh dê nấu lá lốt, dê cuốn lá lốt nướng, dê xào sả, một nồi cá tràu (cá lóc) kho, và một đĩa rau muống xào.

Không cần chờ lâu, họ phục vụ nhanh và gọn gàng, bàn ghế sạch sẽ. Thức ăn ngon, nêm nếm vừa ăn.

Tối đó chúng tôi về Đông Hà lấy khách sạn.  Sáng ra, xuống phía dưới sảnh đã thấy cậu K ngồi uống cà phê. Cậu hỏi tôi muốn ăn sáng ở khách sạn thì gọi ngay đó.  Nhưng trước cửa đã có vài cô gái trạc độ mười tám, hai mươi mặc quấn đen, áo tay dài, đầu đội nón lá tay bê cái thúng, miệng mời chúng tôi mua bánh mì. Tôi tò mò hỏi:

-Cháu bán bánh mì gì thế?

-Dạ, bánh mì cá kho hay bánh mì chả.

Tôi nhìn vào thúng, có cái lò than để nồi cá phía trên, bánh mì, chả lụa để quanh lò, và vài thứ hành, ớt, dưa leo đeo bên cạnh. Thấy thương quá các cô ơi! Tôi nói ngay:

-Bán cho cô một ổ nhé.

Cô gái vui mừng để cái thúng xuống, lấy bánh mì ra cắt một khúc, xẻ dọc rồi gắp khoanh cá nục kho vào trét đều vào trong, kèm thêm hành, ngò, ớt, tiêu rồi lễ phép đưa cho tôi. Tôi trả tiền và bảo cô đừng thối lại. Cô cám ơn thật ngọt ngào rồi chào khách để đi ra.

Ở đây không có pate và thịt nguội, nhưng các cô bán bánh mì đã tạo ra một thứ nhân bánh rất địa phương vì có gì nấu nấy. Các cô khéo kho cá nên không thấy mùi tanh dù là cá nục.

Có các cô đẩy xe đạp chở các thúng quýt to tướng sau xe đi bán. Họ đứng ngay trước khách sạn chào khách từ trong bước ra, họ giới thiệu quýt của Trung quốc, rất ngọt. Dì Loan và Tiên đang đứng trước khách sạn nên đến bên một xe để hỏi giá. Cô hàng vừa nói giá tiền 1 ký lô xong, đã nghe giọng Tiên tru lên xeo xéo, chử vang rân nào là mất dạy, nói thách nói láo, nói … khiến cô hàng quýt đỏ mặt nhưng không dám la mắng quát lại. Tôi không hiểu tại sao Tiên có khuôn mặt xinh đẹp, tuổi vừa độ 50 thôi mà lúc nào cũng sẵn sàng bùng nổ, đanh ác với người bán hàng.  Tôi thấy giá cả đâu có gì thách quá đâu, không thích giá đó thì cứ trả giá, cớ sao phải chửi mắng người ta, cớ sao phải sỉ nhục người ta cho bằng được?  

Tôi thấy cô bán quýt gần khóc nhưng không dám quát mắng lại khách. Tiên kéo dì Loan ngúng nguẩy bỏ đi sau khi chửi rã họng rồi.  Tôi nghĩ thầm nếu ở Sài Gòn thì bạn hàng không để yên cho Tiên đâu nhé.  Tôi đến bên cô hàng quýt nói nhỏ với cô:

-Cháu đừng buồn, bán cho cô hai cân đi, bao nhiêu cô trả cho.

Cô hàng nuốt nước mắt vào lòng, vui mừng lấy bao cân quýt cho tôi ngay.  Tôi trả tiền, bảo cô khỏi cần thối.

Sau đó, cả đoàn lên xe đi Huế, đến chợ Đông Ba cho kịp buổi chợ sáng.  Dì Loan, Tiên và tôi vào trong mua sắm chút quà đem về Hà Nội. Cậu K, chú tài và anh hướng dẫn ớ lại hàng nước bên ngoài chờ chúng tôi.

Vào trong, là các gian hàng bán linh tinh từ̀i niêu, chén bát đến dép mang trong nhà.  Tiên bảo bà̀ chủ lấy cho xem mấy đôi dép tổ ong. Tiên hỏi giá tiền, bà hàng vừa trả̉ lời xong, Tiên lại quát tháo om xòm, chửi rủa thậm tệ như đã chửi cô hàng quýt ở Đông Hà sáng nay.  Bà chủ hoảng hốt nhưng vẫn bình tĩnh không quát tháo lại, và vẫn tử́ giải bầy với khách. Tôi phục các bà các cô từ Quảng Trị đến Thừa Thiên, dù gặp khách du côn, du kề họ̃n giữ vững phong cách có văn hóa của những người lớn lên trong những gia đình có văn hóa Việt Nam rất truyền thống lâu đời.

Tôi đứng né qua một bên cho Tiên và dì Loan bước ra rồi nói với bà hàng:

-Chị cho em xin 2 đôi dép đó đi.  Cứ́y giá đó cho em.

 

Tôi trả tiền rồi xin lỗi bà hàng vì biết bà buốn lắm, phải nhẫn nhục chịu đựng một người khách phương xa tưởng đâu sẽ mở hàng vui vẻ báo hiệu cho một ngày may mắn. Ai ngờ khách hung dữ kỳ lạ, và hung dữ thật vô cớ, cứ như là có tư thù từ lâu đời.

Tôi có cảm tưởng các tà linh đồng bóng ám trong người Tiên nên hở ra là chửi, chửi bất cứ ai buôn bán với nàng.  Hay đó là cái “Văn hóa chửi do chế độ cộng sản sản sinh ra?”

Có đi ra Quảng Trị, Thừa Thiên mới biết văn hóa truyền thống Việt Nam vẫn tồn tại nơi đây qua các chị, các mệ bán hàng rong, hàng chợ.  Cám ơn các chị, cá́c mệ nhiều lắm. Cầu xin ơn trên ban phước trên các chị và gia đình thật nhiều.

 

TT-Thái An

10/24/2022