Khói
Vẫn Còn Vương
 “Không, ông à, anh em mình già rồi, ngẫm lại mọi
chuyện cũng phải chừng mực, khách quan chứ !” 
 Tôi ngạc nhiên, một gã bất cần đời thấm nhuần triết lý Tây phương, coi nhẹ mọi
chuyện như Sử mà có lúc cũng
đắn đo vậy sao? Sử xuất thân con
nhà nền nếp, khoa bảng, bản thân học khoa Ngoại ngữ, tiếng Pháp, cùng đại học với tôi. Hắn
đàn hay, hát giỏi, khá đẹp
trai, lại  để bộ ria mép, thường được gọi
là Sử Sĩ Phú vì hắn hát bài “Cô láng giềng” rất hay,
nhái đúng giọng và phong cách Sĩ Phú
khi trình diễn. Khi ra trường, Sử
cùng đi với tôi ra Phú Khánh, nhưng hắn phải về Tuy Hòa, còn tôi ở Nha Trang. Cũng may
ngôi trường hắn được bổ nhiệm khá lớn nhưng ngặt nỗi không có học sinh tiếng Pháp nên
người ta dự kiến chuyển hắn xuống
cấp 2 dạy tiếng Anh. May sao ông Hiệu trưởng thấy hắn cũng dễ mến nên giữ hắn lại
dạy tiếng Anh, mà trình độ sinh viên sư phạm ngày ấy, nhất là dân trường Tây như hắn thì
đủ sức dạy cả hai thứ tiếng. Bẵng
đi rất lâu mất liên lạc, nhất là khi
tôi chuyển về Sài Gòn trước hắn mấy
năm. Gần đây nhờ facebook bạn bè mới gặp lại nhau.
  Sử rót đầy ly, uống một hơi, và kể …
…Những ngày  đầu về Tuy Hòa, Sử cảm thấy ngột ngạt vì không  quen nếp sinh hoạt của một ngôi trường cấp 3. Toàn là đi họp và lên lớp, suốt ngày, hết làm chủ nhiệm rồi họp Chi đoàn, Công đoàn, Tổ Bộ môn, quay
cuồng soạn giáo án
đã mệt lử rồi.
Huống chi dân Pháp Văn nhảy sang Anh văn
cũng phải mất thời
gian tập phát âm cho “dẻo” miệng vì quen accent tiếng Pháp bấy lâu. Lại không được mở đài nước ngoài nghe vì sợ mang tiếng nghe “đài địch”. Cũng may học sinh khá hiền, và chúng  nó cũng không biết tiếng Anh thật sự đọc thế nào vì có
tiếp xúc với người nước ngoài bao giờ đâu. Ông thầy luôn là thần tượng về mặt tri thức. Những thầy cô lâu năm thì ‘năm thì mười
họa’ mới dự giờ vì ai cũng bận bịu. Rủi nghe
thầy phát âm hơi cứng thì cũng thông cảm. Thầy vốn xuất thân dân Pháp
văn, dạy được thế là tốt rồi.
Sử lại không bon
chen, không hề
có ý niệm “phải tiên tiến” hay
“đạt điểm thi đua”. Lớp
Sử chủ nhiệm luôn
đứng hạng chót toàn  khối. Thao giảng thì Sử cũng không cần đánh giá tốt,
cho trung bình cũng được! Sử an nhiên sống theo “hạnh an nhi” ấy, như một đứa trẻ, bỏ ngoài tai mọi lời dèm pha, phê bình. Nhưng bù lại chàng đàn rất hay, hát rất ngọt, nên các cô giáo rất thích. Hội diễn văn nghệ
nào cũng kéo chàng tham dự, thay mặt cho
tổ, cho trường… Những
đêm hội trại, chàng ôm đàn hát đến khuya, cô nào cũng thích mon men đến nghe, dù không tránh khỏi phê bình “hay hát nhạc vàng.
Cần củng cố quan điểm văn
nghệ quần chúng”.
Mặc.
Sử sống phớt đời. Người phê bình chàng nặng nhất là cô Thu, phụ trách Đoàn Thanh niên, nói chàng không  làm gương cho học sinh, hay đàn đúm, thiếu tác phong sư phạm, la cà
quán xá, lề mề… Có lần chàng
hỏi gặng Thu: “Sao, cô muốn
tôi thành người máy hả? Tôi phải sống như một con người”. Thu quắc mắt nhìn
chàng “Tôi sẽ đưa anh
ra kiểm điểm trong
Đoàn và Chi
bộ sẽ có ý
kiến với anh vì tác phong “tiểu
tư sản” miền Nam chưa gột
rửa được!”. Nói vậy thôi chứ trường đang cần giáo viên có khả năng văn nghệ
mà Sử thì lại
rất tài hoa. Ngoài âm nhạc, chàng còn biết trang trí và vẽ bằng phấn
những tiêu đề rất đẹp cho trường trong những ngày lễ. Thầy
hiệu trưởng
có lần phải vỗ về cô Thu “Con ngựa chứng thường có tài em à! Thôi kệ cứ từ từ uốn nắn hắn. Văn hóa mới cần có thời gian thẩm thấu. Cô Thu hạ quyết tâm “chuyển hóa” chàng.
Nhưng Sử có cần biết cái gì là văn
hóa mới
đâu? Chàng vẫn ôm đàn trong những đêm sinh hoạt chung mà hát “Bay
đi cánh chim biển” hay “Em còn nhớ hay em đã quên” trong sự ngưỡng vọng của đám học trò mới lớn. Trong lớp chàng kể cho các em nghe những bi kịch của Shakespeare, Corneille, những tác phẩm
của Victor Hugo, Balzac, những
câu chuyện kể của  Alexandre Dumas  hay 
Georges Sand… Chúng
nghe mê mẩn vì cảm thấy chàng đã mở
cả một bầu trời bao la cho tuổi trẻ như những cánh chim non bay vào… Chàng dịch những bài thơ lãng mạn
Anh như của John Keats, Byron.., Pháp như
của Chateaubriand,  Lamartine,  Alfred de Musset,… rồi đọc cho học sinh nghe.
Khi chàng kể hay đọc, các em như thấy cơn mưa rào sau những cơn nắng hạn với nền
văn học mà các em đang học trong
nhà trường. Cứ như thế dù bị công kích, phê phán về thói lề
mề trong sổ sách, lè phè trong sinh hoạt thì chàng tỏ ra “vô hại” cho mọi người,
nếu không muốn nói chỉ mang tới
sự sảng khoái và niềm vui qua tiếng hát, qua những câu chuyện
duyên dáng… Từ một thầy giáo tiếng
Anh tay ngang, chỉ sau 3 năm chàng được đưa lên dạy thế cho một cô giào nghỉ hộ sản ở lớp 12. Và chàng đã gặp Châu, cô bé lớp phó học tập, lanh lẹ, nghiêm nghị, cặp
mắt to, tròn, như hai viên bi. Châu có nhìn xoáy vào người đối diện, nửa
như dò xét, nửa như bỡ ngỡ nên người ta vừa sợ vừa mến. Châu
học rất giỏi, nhưng Châu ít khi khi hài
lòng
với những gì đã học trên lớp, luôn tìm tòi
và đặt câu hỏi trong giờ
học, sau giờ học. Chàng
lại được giao chủ nhiệm lớp Châu. Mẹ
Châu có sạp ở chợ, nên kinh
tế gia đình tương đối
khá giả. Một lần bà đến
trường gặp chàng và nói thẳng: “Tôi nghe cháu Châu khen thầy giỏi lắm. Năm nay là năm thi của cháu, tôi muốn thỉnh thầy về nhà dạy thêm cho cháu được không?”. Sử trả lời ngay “Nhà trường có mở lớp phụ đạo cho mấy em yếu, Châu thuộc
loại giỏi, chắc khỏi cần học thêm”. 
 Bà khẳng khái nói
luôn “Giỏi là giỏi trong lớp thôi. Tôi muốn nhờ thầy làm một công hai chuyện, dạy
cho cháu giỏi để thi tú
tài và vào đại học, sau này nếu có đi nước ngoài thì tiếng Anh cũng phải khá mới
học tiếp được. Thầy đừng ngại vấn đề thù lao. Nhà tôi rộng. Cháu có phòng học
riêng, yên tĩnh. Tôi chỉ có hai đứa con thôi. Châu là con gái lớn”. 
Sau lần nói chuyện ấy, bà luôn nói Châu mang cho chàng
lúc thì ít chả lụa, ít chà bông, lúc thì chục trứng gà một cách kín đáo đến
phòng dành cho giáo viên nội trú. Trước thiện ý ấy, cuối cùng, Sử đồng ý nhưng
với một điều  kiện: “không nhận thù lao”. 
Và thế là bắt đầu những buổi tối Sử đạp xe đến nhà Châu dạy
thêm. Nàng  rất thông minh làm chàng nhiều
khi toát mồ hôi giải đáp vì tiếng Anh cũng chỉ là sinh ngữ hai của chàng. May sao kiến thức chung về ngôn ngữ của
chàng  khá quảng bác do chàng đọc rất nhiều.
 Một thầy một trò
khá tâm đắc do Châu hiểu rất nhanh những điều thầy dạy. Những khi nghỉ giữa giờ, chàng hay kể chuyện cho Châu
nghe. Một lần khi kể câu truyện Love Story của Erich Segal, thấy Châu rướm nước
mắt, chàng vội vàng xin lỗi. Nhưng Châu chỉ nói: “Tình yêu buồn vậy sao thầy?”. Sử vội đính chính “Không, có nhiều chuyện tình đẹp lắm chứ, mà vui nữa
kìa nên người ta mới chúc nhau “Trăm năm hạnh phúc”. Có hôm đang giảng bài bắt gặp ánh mắt Châu nhìn mình khác
lạ, chàng rùng mình vì
hỏi hai lần nhưng Châu vẫn không nghe kịp câu hỏi. Tâm trí nàng phiêu du dù
đang chăm chú nhìn chàng. Châu  hỏi: Thầy,
nghe nói thơ Hàn Mặc Tử hay lắm hả thầy? Đọc em nghe thử mấy câu đi thầy? Và Sử
đọc bài Đây thôn Vỹ dạ.
 Châu vội vàng chép
xuống, nàng thích nhất  đoạn:
Mơ
khách đường xa, khách
đường xa
Áo em
trắng quá nhìn không ra 
Ở đây
sương khói mờ nhân ảnh 
Ai biết
tình ai có đậm đà?
Châu hỏi mượn thơ, Sử về phòng tìm tủ sách của mình may
sao còn có cuốn “Thi nhân tiền chiến” và mấy tờ báo  “Văn” ngày xưa cho Châu mượn. Khi trái tim dù
sắt đá, dù kín cổng cao tường thế mấy mà bị gõ đúng thần chú sẽ mở ra những
chân trời kỳ diệu mà người ta không ngờ đến. Sử đã vô tình mở ra cách cửa ấy mà
không biết. Một buổi tối, Châu
có vẻ lơ đãng nói “Hôm nay em mệt, nhức đầu quá! Thầy trò mình nghỉ một bữa
nhưng em muốn thầy hát cho em nghe, vì em biết thầy hát rất hay”. Và Châu đã chuẩn bị sẵn cây đàn. Sử hoảng hốt Mẹ em biết
phiền lắm! Châu xua tay “Thầy yên tâm, ba má em đi về ngoại ăn đám giỗ xa lắm,
khuya mới về tới.” Và Sử bất đắc dĩ phải đàn hát. Chàng không nhớ mình đã hát những bài gì nhưng hình như là
Thu hát cho người; Bay đi cánh chim biển;
Em còn nhớ hay em đã quên; Phôi pha ,...
 Châu ngẩn ngơ khi
nghe bài Bay đi cách chim biển với những
ca từ dự cảm đầy bất trắc ngày mai: 
Bay đi cánh chim biển hiền lành 
Chẳng còn giấc mơ nào để giữ đôi chân em
Chẳng còn tiếng nói nào để trách cứ em 
Khi mặt trời đậu trên đôi cánh vỗ ...
....
Đất trời rộng sao em không bến đỗ 
Một ngày nọ, Châu đưa chàng xem Lưu bút. Các bạn đều đã
ghi xong, ngoại
trừ phần dành riêng cho chàng ghi những dòng chữ cuối. Châu ép vài cánh pensée và ghi bên dưới một
đoạn thơ của TTKH:
...
Nhặt
cánh hoa rơi chẳng
thấy buồn 
Nhuộm
ánh nắng tà qua mái tóc 
Tôi chờ
người đến với yêu đương. 
 Sử sững người. Có
vẻ cô bé lãng mạn quá chăng hay mình đang tự tưởng tượng ra mê hồn trận. Chàng sợ mình hiểu lầm, gây nguy hiểm cho cả hai. Hôm sau
đến giờ dạy, chàng vẫn tỏ vẻ bình thản nhưng Châu không còn tập trung học,
không chú ý đến bài giảng. Bỗng dưng chàng bực bội: “Bữa nay em sao vậy? Đầu óc treo trên cửa sổ rồi sao?”. Châu phụng phịu, vẻ hờn dỗi. “Em mệt!”. Chàng
hơi cáu “Vậy
mình nghỉ sớm nhen?”. Châu nhỏ nhẹ “Em
vẫn muốn nghe thầy giảng,
hay là thầy kể chuyện tình yêu của thầy
hay gia
đình thầy cho em nghe đi”. Chàng cố nhỏ nhẹ “Lạ chưa kia, đang học mà đòi tán gẫu”. Sử biết tính Châu cũng không phải yếu đuối, chắc là bị cái gì đây? Lúc đó chàng chưa đủ tỉnh táo để nhận xét như ngày
hôm sau khi trở lại. Chàng hơi gằn
gắt Châu khiến cô bé buồn thiu. Trải
qua  một đêm suy nghĩ chàng cũng hơi hối hận vì
thái độ hơi gay gắt của mình. Hôm sau
chàng thấy Châu
rất lạ. Nàng xức nước hoa thơm phức, lại đánh một lớp son hồng nhẹ lên môi. Sử hơi ngượng vì thấy Châu bỗng
dưng đẹp lạ! Chàng giảng bài nhưng cố tránh ánh mắt của Châu vì ánh mắt ấy hôm nay cũng rất lạ. Buổi học trôi qua thật nhanh và chừng như không ai dám hỏi người nọ sao bữa nay
“lạ” vậy? Chàng cứ nói và nàng cứ
nghe, không phản ứng. 
Đêm
đó Sử trằn trọc, chàng
không biết nên
tiếp tục dạy Châu hay tìm lý do
thoái thác vì tình hình coi bộ “căng” quá! Chàng mơ hồ thấy sắp có chuyện xảy
ra mà lòng mình
cũng xao xuyến chứ chẳng vững
vàng gì. Rồi sẽ ra sao? Nếu mẹ
Châu biết chuyện? Bà có
đến trường xỉ vả chàng quyến
rũ con bà hay đưa ra Hội đồng giáo
viên xét
xử, nơi có cô Thu, người mà hôm qua mới
nói “Thầy coi chừng nữ sinh lớp thầy nha. Lúc này có mấy đứa điệu lắm đó!”. Rồi còn học sinh lớp chủ nhiệm mới gay chứ!
Không được, mình phải tỉnh, dửng
dưng như không biết
gì hết. Ít nhất cho
đến khi Châu thi Tú tài xong là mình rút
lui được. Mà rủi xảy ra chuyện gì thì
cũng không còn trong trường, trong lớp nữa. 
 Nhưng ở đời nói luôn dễ hơn làm. Hôm sau khi đến nhà Châu, tim chàng bỗng dưng đập mạnh. Chàng hít một hơi bước vào thì
nghe tiếng gọi của mẹ
Châu: “Thầy Sử!”.  Chàng tái mặt.
Chắc gay go rồi đây. “Cậu
ngồi đây tôi hỏi cái này một chút?”. Chàng
nhỏ nhẹ dạ thưa luôn miệng, tay chân thừa thãi. Mẹ Châu chậm rãi nói: “Lâu nay cậu dạy thấy con Châu có tiến bộ
không?”. Chàng ấp úng rồi nói: “Dạ, có chứ. Em cũng giỏi mà!”. “Nhưng tôi thấy lúc này nó lo ra chuyện gì đó, mấy ngày nay ngồi chép thơ với đọc thơ không hà?
Tôi lo quá! Tôi muốn nó phải giỏi
tiếng Anh để còn chuyện tương lai nữa chứ!”. Sử trấn an bà: “Dì đừng quá lo để tôi cố gắng khuyên em tập trung hơn
nữa.” “Tôi nhờ Thầy vậy!”. Nói xong bà bỏ vào trong lấy
ra một cặp táp bằng
da rất đẹp. “Tôi có cái
này tặng thầy, về nhà hãy mở
ra. Mong thầy nhận vì thầy quá nhiệt
tình mà con
tôi nó lại lơ đãng quá!”.  
Sử
không biết nói sao,
ban đầu chàng cố từ
chối nhưng bà nói mãi, chàng đành phải nhận
cái cặp mà lòng không vui, còn lo thêm vì biết đâu mình chính là kẻ làm cho cô bé kia lơ đãng thì sao? 
Cảm
thấy như kẻ sắp phạm tội nên chàng lúng
búng trong miệng: “Cảm ơn Dì!”. Buổi học sau đó diễn ra với những mẩu
đối thoại rời rạc. Sử nhắc
Châu “Má em đang lo cho kỳ
thi của em đó. Ráng đi còn hơn tháng nữa!”. Lúc ra bài cho Châu làm trên giấy, bỗng dưng Châu ngồi sát
bên chàng, mùi nước hoa sực nức nồng nàn
tỏa ra, hay
mùi con gái khiến chàng thẫn thờ trước
khi giật mình nhích ra.  Tay
chàng chạm nhẹ tay
Châu. Châu để yên. Nàng hỏi. “Thầy
biết coi chỉ tay không?”.
Sử lúng túng “Đâu biết! Thầy đâu phải thầy bói!”. Châu bật cười “Tưởng thầy biết, coi thử em thi đậu không? Coi tương lai em chồng con ra sao?”. Sử rầy nhẹ: “Thôi lo học đi, giờ này mà lo
chi chồng con.”
 Về nhà Sử
mở lưu bút ra, hơi choáng khi nhìn thấy
hình Châu
kẹp trong đó, khuôn
mặt nàng chụp nghiêng, phía sau ghi
bốn câu thơ của Nhã Ca (cũng do Sử cho Châu mượn mấy tạp chí Văn hồi trước) Tôi làm con gái / Buồn như lá cây / Chút
hồn thơ dại / Xanh
xao tháng ngày ...
Chàng
hối hận vì đã
gieo vào tâm hồn Châu những cảm nghĩ lãng mạn của thời mới lớn. 
Thế rồi một tối nọ sau khi Châu thi Tú tài xong, Sử ghé thăm xem nàng làm bài ra sao. Mưa quá lớn. Chàng đành phải ngồi  lại. Ba má Châu đi công chuyện vẫn chưa về. Đúng là “Vũ vô kiềm
tỏa năng lưu khách / Sắc bất
ba đào dị nịch nhân” Cơn mưa ấy không chỉ níu chân chàng mà cái nhan sắc cận
kề  ấy đã cột đời chàng lại.
Châu
nhìn chàng hỏi: “Ngày mai mình không còn gặp nhau nữa hả thầy?”. Sử nghe có gì xao động trong tâm hồn. Chàng nghĩ. Hết thật rồi. Mai mình cũng phải chuẩn bị về Sài Gòn nghỉ hè thôi! Còn Châu chắc
vĩnh viễn xa cách, vì đâu có lý do gì gặp
gỡ nữa. Chàng
gật đầu. “Em có buồn không?”.
Hỏi xong, chàng thấy mình lố bịch vì chính mình cũng không vui. Bỗng dưng một tiếng sét ầm vang trên không. Châu giật mình ngồi nép vào chàng. Đèn phụt tắt. Sử không hiểu lúc đó tại sao chàng lại có thể qua ánh chớp đặt đôi môi mình khớp với môi Châu. Cả hai đều rùng
mình. Châu run rẩy đón nhận cái
hôn của Sử. Chàng cũng buông mình theo cảm xúc. Họ không còn biết gì khi chìm đắm
trong một nụ hôn tưởng chừng bất tận. Chỉ biết khi buông ra Châu như ngộp thở. Ngồi sát người chàng. Nàng bây giờ mạnh dạn hơn, tỉnh táo hơn cho cái hôn thứ hai và những cái hôn sau đó. Họ không nói với nhau gì vì họ đã nói bằng nụ hôn. Tất cả.
Đèn
bật sáng. Có tiếng chuông cửa. Ba má Châu về. Họ bưông nhau ra ….
Mấy
ngày sau đó, mẹ
Châu nhắn chàng qua
nhà. Chàng tính không đến vì sợ
chuyện vỡ lở. Nhưng không, bà
ghé qua phòng trọ của chàng và nói: “Thầy mở
cặp tặng hôm bữa chưa?”. “Dạ chưa, vì chưa xài đến.” “Thầy mở ra đi nhen. Sẵn nhờ thầy dạy cho
cháu nó thi vào Đại học chuyên Anh luôn”. 
 Sử bàng hoàng khi thấy trong cặp táp là một phong bì kèm lời ghi bên ngoài; “Thầy phải
nhận nếu muốn là thầy con gái tôi. Số tiền này không đáng là bao nhưng hy vọng hỗ trợ thầy phần nào trong cuộc sống. Cảm ơn thầy vô cùng.” Một số tiền mà chàng nằm mơ cũng không có được
vì nó gần
bằng 10 tháng lương của
chàng, kèm theo một cái đồng hồ rất đẹp. 
Vậy là họ có cớ gặp nhau một tuần 3 buổi tối. Những
tháng ngày sau đó là những tháng ngày hạnh phúc vì sau mỗi buổi học, họ lại hôn nhau trước khi ra về.
Có khi họ kết thúc lớp sớm hơn để có thời gian tâm sự và
hôn nhau. Sử biết mình
đang đùa với lửa vì Châu còn nhỏ
quá mà chàng thì
nghề nghiệp không đủ nuôi
thân làm sao lo toan cả một gia đình.
Thôi thì liều
mạng theo lý sự
của những kẻ
yêu nhau. Có những buổi tối học xong sớm, Sử thường ôm
đàn và hát cho Châu nghe. Có lần
Châu muốn Sử hát nhạc nước ngoài. Sử biết nhiều
nhạc Pháp nhưng Châu không hiểu
nên chàng chọn một bài nhẹ nhàng bằng tiếng Anh khá nổi tiếng lúc đó. Bài Smoke
gets in your eyes. Châu nũng nịu đòi
Sử dịch sang tiếng Việt vì nàng không hiểu
hết lời bài hát (Hay
nàng giả vờ?). Sử
vui vẻ dịch, đến đoạn: 
Có một ngày người ta bảo những kẻ đang
yêu là những kẻ mù lòa 
Khi trái tim rực lửa tình là khi em nhận ra khói vương vào trong mắt …
 They said "someday you'll find all who
love are blind"
When your heart's on fire,
You must realize, smoke gets in your
eyes
Châu
mỉm cười nói khẽ vào tai
chàng: “Mình đang mù phải không?”.
Sử gật
gù “Chỉ lòa thôi!”. Và họ cùng cười với nhau. Lại một buổi tối qua
mau. Những lúc đùa vui, Châu đề nghị Sử
xưng Trẫm để nàng được gọi là Ái khanh. Có lần mẹ Châu nghi ngờ, gõ cửa hỏi
“Sao thầy trò có gì vui quá vậy?”. Rồi bà bỏ đi. 
Rồi hai tháng sau Châu thi đại học, còn Sử về Sài Gòn nghỉ hè. Đêm chia tay đầy
nuớc mắt và nụ cười,
không thiếu những
nụ hôn say đắm. Họ
hứa sẽ gặp nhau khi trở lại.
 Nhưng định mệnh lại đi vào một khúc quanh tàn nhẫn nhất khi Sử trở lại. Đến nhà thăm Châu mới hay tin gia đình buộc Châu vượt biên. Bà giúp việc đưa cho Sử một cuốn vở, nói “Đêm trước khi vượt biên, cổ đưa cho tôi cuốn tập nói gửi cho thầy.” 
Đến đêm khi về phòng, Sử mở ra thấy một tấm
hình chụp Châu nhìn nghiêng, sau lưng vẫn là bốn  câu
thơ Nhã Ca: 
Tôi làm con gái /
Một lần yêu người / Một
lần mãi mãi / Bao
giờ cho nguôi …
Trang
sau nàng cột một nhúm tóc dán vào trang giấy. Mặt sau nữa là những
cánh hoa
pensée ép sát vào trong vở …
Bấy
nhiêu đã khiến Sử bồi hồi. Rồi
chàng nghe tin Châu bị bắt giam ở trại A 30. Quá mừng, Sử tính
chuyện thăm nuôi nhưng Lộc, em Châu đạp xe tới nhà báo Chủ nhật tới Châu sẽ trình diễn văn nghệ
ở xã Hòa Thắng, cách thị xã khoảng
15 km. 
Rồi
cũng đến ngày Sử được xem Châu trình diễn. Đoàn Văn nghệ tù nhân A 30, nghe đâu có cả ca sĩ, nhạc sĩ, họa sĩ, trí thức gạo cội trong số đó.
Công
sức cong lưng đạp xe 15 km đường lồi lõm toàn ổ gà
về đến Hòa Thắng
xem trình diễn gần như công cóc vì chỉ thấy Châu xa xa trên sân khấu, dáng hơi gầy. Nàng có vẻ hốc hác. Nhưng tiết mục của Châu và các bạn diễn khá hay. Bài múa “Giã gạo đêm trăng” khá hấp dẫn, Châu  nhẹ nhàng nhún nhảy, khác xa dáng vẻ tiểu thư chậm chạp khoan thai khi ở nhà. Nhưng điều khiến Sử đau lòng nhất là khi trình diễn xong, khán giả vỗ tay rần rần kêu hát tiếp thì chỉ thấy Châu
giơ tay vẫy rồi khuất sau cánh gà khi quản giáo ra gọi vào. Thế là hết! Hè năm sau, Sử dự định chuyển công tác vào Sài Gòn, vì
chàng  phát hiện tình cảm của cô Thu đã
chuyển từ “ghét bỏ” sang “quyến rũ” theo lối ép buộc chàng phải yêu cô ta nếu
muốn yên thân. May sao có  người quen
giúp đỡ nên chàng nhận Quyết định khá nhanh, chỉ sau 3 tháng. Trước khi đi, chàng ghé tìm Châu nhưng nàng chưa ra khỏi trại giam. Thất
vọng, chàng ghi lại địa chỉ nhà ở Sài Gòn cho Lộc em Châu và nhắn có gì thì liên hệ với
anh ở địa chỉ này nhen. Nhưng
rồi chẳng ai liên hệ. Trong một lần ghé qua Tuy Hòa sau đó nhiều năm, chàng chỉ nghe kể rằng Châu
ra tù không muốn vượt biên nữa nhưng gia đình ép buộc dữ dội đưa nàng xuống Cà
Mau và lần đó chuyến đi trót lọt. Cuối cùng Châu đã định cư ở Mỹ.
Còn Sử sau khi trì hoãn lần lữa cũng phải lập gia đình vì
mẹ chàng muốn có cháu ẵm bồng. Huống gì ngóng tin người phương xa lúc đó xem chừng
diệu vợi. 
Sử thở dài khi kể đến đoạn cuối. Chàng đã về họp lớp chủ nhiệm 38 năm sau ngày ra trường
cũng là kỷ niệm 55 năm ngày thành lập trường. Cảm giác buồn vui lẫn lộn. Nhìn
lũ học trò nay đã làm ông bà, có đứa tóc bạc hơn thầy, vẫn “dạ thưa” cung kính.
Lòng chợt vui khi nhớ một thời người ta lớn lên trong lễ giáo. Buổi tối sinh hoạt lớp, sau bữa tiệc, Thoa, cô bé trưởng lớp
ngày xưa nói nhỏ với Sử: “Thầy
ơi, có một cô bé muốn gặp thầy.” “Ai vậy em?”. Cô bé bước đến “Chào Thầy”. Cô khoảng trên 20, cặp mắt to đen. Sử giật mình, ngờ ngợ
như bắt gặp một chút gì thân quen từ lâu. Cô bé lễ phép nói “Dạ, thưa thầy, con là Ái Khanh, tên thường gọi là Cathy
Nguyễn, con của mẹ Châu, ngày xưa là học trò Thầy.” Sử giật mình. Điều chàng ngờ
ngợ là đúng. Vẫn nét môi ấy, cặp mắt ấy, sao mà giống thế? Chàng trấn tĩnh “Con
giống mẹ con quá! Mẹ con có về Việt Nam không?”. Ái Khanh ngập ngừng rồi nói: “Không, thưa thầy. Mẹ con không thể về được nữa. Nghe tin
họp lớp, họp trường trên Facebook. Mẹ sai con về. Con đến đây là để gặp thầy, gửi thầy một món
quà lưu niệm mà mẹ nhắn phải tìm cho bằng được, trao tận tay cho Thầy.” Ái
Khanh  đưa cho Sử một cuốn vở. Lại vở, sao giống quyển Lưu bút ngày xưa thế? Sử cầm lấy
nhưng vội cất đi. Chàng sợ những kỷ niệm tưởng rằng quên lãng hôm qua lại trở về
bủa vây trùng trùng tâm trí. Chàng ngần ngại. “Sao mẹ con không về?”. Ái Khanh xúc động nín lặng hồi lâu mới nói “Mẹ con không thể về được nữa
vì mẹ bị ung thư giai đoạn cuối.” Sử lặng người. Nghiệt ngã! Thoa bỏ ra ngoài để
Ái Khanh tâm sự với Sử. Khanh nói cho đến bây giờ mới biết
mẹ có một mối tình với thầy, người đàn ông bí ẩn mà nhiều lần Khanh nghe
mẹ kể sơ sơ nhưng hỏi thêm thì Châu từ chối. Cuộc hôn nhân của nàng không hạnh phúc vì
nàng lấy chồng vội vã khi bơ vơ trên xứ lạ. Phải kết hôn với ai đó để tồn tại
và chạy trốn cô đơn. Nhưng nàng đã lầm khi gặp một gã cũng vượt biên như nàng
nhưng tính tình lỗ mãng và thiếu tế nhị. Khanh kể mẹ đã khổ vì cha như thế nào. May là bên Mỹ chứ ở Việt Nam chắc mẹ con
cũng no đòn vì ba con cộc cằn lắm!  Khanh nói: “Mẹ chịu đựng vì còn mang trong mình nền tảng giáo dục
truyền thống Việt Nam chứ
như tụi con bây giờ là “divorce” ngay! Nhưng khi tụi con lớn, Mẹ quyết định
chia tay. Và buồn thay, chỉ hưởng được tự do mấy năm thì mẹ vướng phải căn bệnh
hiểm nghèo. Trước khi con về, mẹ đã kể về thầy và cho biết đó là người duy nhất
mẹ yêu thương cho đến bây  giờ. Mẹ đã muốn
về Việt
Nam tìm thầy trước khi lấy chồng nhưng
nhiều người ngăn cản... Rồi đến khi lấy chồng, một lần nữa mẹ muốn ly dị bay về nước tìm thầy nhưng sợ không còn xứng đáng với thầy nữa. Nhất là khi có con và em con nữa! Mẹ có hỏi các bạn về
thầy nhưng tin tức quá ít ỏi. Chuyến này nếu không bệnh mẹ thế nào cũng về. Mẹ nói “Gặp thầy một lần rồi
chết cũng được, nhưng không còn hy
vọng nữa, Thầy! Mẹ có một
yêu cầu với thầy. Mong thầy hát hay nói gì đó để con thâu hình và tiếng đem về cho mẹ xem. Sẵn mấy cô chú trong lớp đang hát hò vui vẻ, thầy hãy
hát một hai bài cho con thu hình và âm thanh nhé!”. Sử suy nghĩ hồi lâu rồi gật đầu. “Thầy già rồi, giọng nhão nhẹt à!”. “Ai chẳng gìà thầy ơi”. Mấy đứa trong lớp nhao nhao lên. Tụi em còn già hơn thầy
nữa kia!”. 
Thoa nói nhỏ vào tai chàng “Chuyện thầy với Châu em với một
số bạn trong lớp sau này cũng biết. Trước khi vượt biên, Châu buồn lắm, có kể cho tụi em
nghe dù sơ sơ nhưng tụi em suy đoán thêm. Học trò mà! Quỉ lắm thầy ơi!”. 
 Đêm đó Sử uống hơi
nhiều. Chàng chỉ nhớ hình như mình hát bài “Bay đi cánh chim biển”
(Đức Huy). Chàng hát 2 lần đoạn “Em đã muốn ra
đi nhiều lần 
Trời
lên tiếng kêu gọi và gió reo tên em / Trùng dương vỗ sóng về để đón bước em 
Quay mặt
lại nhìn nhau một lần cuối”. 
 Lũ bạn của Châu
chưa chịu, bắt Sử hát thêm một bài. Có đứa đề nghị thầy hát “Anh còn nợ em” (nhạc sĩ Anh Bằng)
vì gợi nhớ Tuy Hòa. Và lần đầu Sử ôm đàn hát bài hát này để Khanh thu âm và ghi hình  đem về cho mẹ: 
Anh còn
nợ em / Chim về
núi Nhạn / Trời mờ
mưa đêm .......
Anh còn
nợ em / Nụ hôn
vội vàng / Nắng
chói qua song ............
Và còn
nợ em/Cuộc tình đã lỡ /Anh còn nợ em…
...
Tiếng hát lênh đênh trôi vào đêm, giọng Sử như nhão ra, như nghẹn lại, dù anh đã cố gắng kềm chế cảm xúc trước mặt học trò.
Hình như Ái Khanh khóc. Cô nhớ và thương  Mẹ,
một đời long đong chìm nổi...
Đêm ấy, Sử mở món quà của Châu thì lại bắt gặp hình ảnh
quen thuộc ngày xưa: bức hình chụp nghiêng và bốn câu thơ Nhã Ca, như trong cuốn tập mà chàng đã làm mất trong những năm
tháng mưu sinh trên đất Sài Gòn. Vẫn cánh hoa pensée, nhưng có thêm một số hình
ảnh sau này khi nàng sang Mỹ. Chụp một mình. Sau một bức hình đứng trên bờ sông Potomac, nàng ghi bốn câu thơ Trần Dạ Từ có “cải biên một chút”.
Lòng nhớ,
lòng thương, lòng ngại ngùng/
Bây giờ em cách núi xa sông/ Bài thơ
từ thuở trăng mười tám/
Mười tám trăng chờ anh biết không?
Chia tay lớp và Ái Khanh, Sử trở lại Sài Gòn. Tâm hồn nặng trĩu không hiểu vì
quá khứ còn lung linh nguyên vẹn tình nồng hay thương cho một người yêu ngày
xưa bạc phận. Phải chi cô ấy hạnh phúc, mình cũng đỡ suy nghĩ mông lung. 
…..
Sử rót đến ly bia thứ bảy hay thứ tám gì đó.
Tôi nói: “Coi chừng say nhen ông “bạn”. 
 Quay lại nhìn tôi,
Sử hỏi “Chuyện mình vừa kể với ông có ủy mị có sến không ông?
Tôi đã vất đâu mất quyển vở đầu tiên Châu đưa tôi khi đi
vượt biên. Bậy ghê! Đàn ông mình vô tâm ghê ông ạ!”. Hồi lâu, Sử nói tiếp “Sau này tôi có tìm hiểu về hoa
pensée thì biết rằng có
tên gọi violet
là biểu tượng của “tính khiêm tốn”, và “sự
chung thủy”. Người Hy Lạp chọn bông hoa có hương thơm nhẹ nhàng cổ điển này để
làm bông hoa của thần Aphrodite, nữ thần của tình yêu và sắc đẹp. Hoa violet
này đã thể hiện được một sự e ấp, rụt rè, thêm chút xấu hổ của người con gái
như là những cánh hoa  mỏng manh.”
 Sử quay sang cậu
bé bưng bàn “Con lấy cho chú mấy điếu thuốc. Thuốc gì cũng được!”. 
 Tôi ngạc nhiên
“Sao hôm nay lại hút thuốc, bạn bỏ lâu rồi mà!”.  
“Bữa nay tự dưng thèm ông ạ!”. Sử  nói mà không
buồn nhìn lên.
Sử lại quay sang hỏi chú bé giúp việc: “Quán có
nhạc không cháu, mở lớn
lên đi. Tôi biết Sử không bao giờ ưa
mở
nhạc ồn ào, mà thích nghe hòa tấu hơn, nhưng hôm nay sao đổi
tánh đổi nết, lạ!
Nhạc
vang lên trong quán. Sử lấy tay gõ nhẹ xuống mặt bàn. Giọng Tuấn Ngọc cao vút cất
lên. Sử thừ người, vu vơ nhìn ra  phía
trước.
Tình yêu như nắng, nắng đưa em về, bên
giòng suối mơ/ Nhẹ vương theo gió, gió mang câu thề, xa rời chốn xưa….
Em đã xa xôi, tôi vẫn chơi vơi, riêng một
góc trời/ Người yêu dấu, người yêu dấu hỡi/…Nụ hôn đã mơ say, bờ môi ướt mi
cay, nay còn đâu?/
Tìm đâu thấy, tìm đâu thấy nữa/ Khi mùa
đông về theo cánh chim bay/ Là chia cách đôi nơi, là hạnh phúc rã rời, người
ơi!/
…Gọi tên em mãi, trong cơn mê này, mình
nhớ thương nhau.
Chàng rít một hơi thuốc thật dài, nhìn ra hướng sông hiu
hắt ánh mặt trời đang xuống dần, trải dài mênh mông, rồi từ từ nhả khói, tan vào khoảng không. Tôi đùa “When a
lovely flame dies, smoke gets in your eyes.” (*).
Sử nhếch mép cười, khóe mắt  rưng rưng
..... 
Nguyên
Cẩn